Home > Khai Thị Phật Học > Su-Khac-Biet-Giua-Nguyen--Va-Nguyen--Cua-Duc-Phat-A-Di-Da
Sự Khác Biệt Giữa Nguyện Và Nguyện Của Đức Phật A Di Đà
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ


Trước hết chúng ta so sánh 2 nguyện 18 và 20.

Nguyện 18. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương chí tâm tin ưa muốn sinh về nước tôi nhẫn đến mười niệm, nếu không được sinh thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

Nguyện này nhấn mạnh đến chí tâm muốn sinh về cực lạc, thì chỉ cần đến 10 niệm cũng đủ vãng sinh.
Nguyện trên cho ta thấy điều quan trọng là hai chữ chí tâm (muốn sinh), và chỉ cần 10 niệm chí tâm là đủ vãng sinh. Chí tâm đó có nghĩa nhất tâm bất loạn như trong kinh Di đà thường nêu. Chí tâm đó lại phải là tâm kiên cố không thay đổi. Khi chúng ta quy y thường phải lập đi lập lại 3 lần, coi như nhất tâm không chuyển đổi mà chỉ là trong vòng tam niệm, chưa phải thập niệm. Liên tiếp 10 niệm chí tâm bất biến không phải là thói quen của chúng sinh, nếu không tập trước thì chỉ niệm trưóc niệm sau là đã thay đổi rồi. Nguyện này nói đến định tâm trong 10 niệm đủ để vãng sinh. Như định tâm trong ba niệm đủ để thành pháp quy y.

Nguyện 20. Giả sử khi tôi thành Phật, chúng sinh ở mười phương nghe danh hiệu của tôi, chuyên nhớ nước tôi, trồng những cội công đức, chí tâm hồi hướng muốn sinh về nước tôi mà chẳng được toại nguyện thì tôi chẳng lấy ngôi chánh giác.

Nguyện 20 này nhấn mạnh đến nghe danh hiệu A di đà rồi thường tưởng nhớ đến cực lạc thế giới mà trồng cội công đức, một lòng một dạ hồi hướng sinh về cực lạc, sẽ được như nguyện.

Nghe đến hồng danh Phật tức chính báo, tưởng nhớ đến cảnh giới cực lạc tức y báo, do ngưỡng mộ y chính nhị báo của Phật nên trồng cội công đức, hàm nghĩa y chính cũng tương ưng với Phật. Lại một lòng một dạ hồi hướng cầu sinh tức nhất tâm vô nhị niệm, do đó mà chắc chắn được như nguyện vãng sinh. Điều này không có gì đáng nghi. Nguyện này nói về sự người tu "thực hành y chính của đức Phật và cõi nước của ngài", do mộ y chính mà trồng thiện căn, bao nhiêu thiện căn đều hồi hướng cho vãng sinh.