Sư tự là Hậu Giác, họ Trần, người Hồng Nhã thuộc châu My. Mẹ họ Ngụy, bà mộng thấy mặt trăng rơi vào bụng mà thụ thai. Thời nằm nôi, mỗi lần thấy tượng Phật, Sư rất vui mừng.
Lên năm tuổi, ông nội bảo làm thơ vịnh hoa, Sư liền đọc ra.
Năm bảy tuổi, gặp lúc pháp sư Thái giảng kinh Niết-bàn tại chùa Ninh Di, Sư vào giảng đường nghe pháp thì chợt biết được nhân duyên đời trước. Tối hôm đó, Sư mộng thấy Phật xoa đầu, nhân đó mà phát tâm xuất gia.
Đến năm mười một tuổi, Sư được xuống tóc. Sư đến chùa Tây An thuộc ấp Đường Hưng, được thầy trao cho bộ đại kinh bốn mươi hai quyển, là nghĩa sớ của đại sư Tuệ Viễn[87], biện luận về yếu chỉ viên đốn của Đại sư, tổng cộng có một trăm hai mươi lăm vạn chữ, đều bao hàm những ý nghĩa cao sâu. Sư chỉ mới mười ba tuổi đã dám chỉ trích bọn xuất gia bê bối, đã bộc lộ phong cách của bậc lão thành[88]. Bấy giờ, nghe tiếng tăm của Sư, Thừa tướng Đỗ Nguyên Dĩnh trấn giữ ở Tây Thục thỉnh Sư giảng kinh ở gác Phổ Hiền, trong chùa Đại Bi. Chúng xuất gia, tại gia tập trung đến lắng tâm nghe kinh mỗi ngày cả vạn người, hết mực ca ngợi. Về sau, người Tây Thục không dám gọi thẳng tên Sư mà chỉ gọi họ là Trần Bồ-tát.
Sư ở chùa Tịnh Chúng học tập giới luật, thông suốt luận Câu-xá. Sau, theo thầy xuống Tam Hiệp qua Kinh Tương đến chùa Tư Thánh ở kinh đô. Chùa này là nơi cho người tam học ở khắp nơi tập trung về. Sư diễn giảng kinh luận khiến cho tăng cũng như tục đều ngưỡng mộ, người vào đạo mỗi ngày càng nhiều. Vua Văn Tông biết được, truyền Sư vào thăm hỏi, vua rất vừa lòng.
Sau đó, Sư học luận Duy thức với pháp sư Tín ở chùa An Quốc, và học hết tất cả kinh sách ngoại điển của Bách gia chư tử. Sư buồn là tiếng địa phương của mình không thể sửa nên chẳng đảm nhận việc giảng kinh. Sư vào núi Tượng Nhĩ tụng chú Đại bi. Một hôm, mộng thấy được vị thần tăng cắt lưỡi đổi cho Sư. Đến sáng, bỗng nhiên Sư nói được giọng của nước Tần. Bấy giờ, quan Bộ hình Nhữ Sĩ Cao ở Lạc Dương, quan Tả thừa Nguyên Dụ, Dương Lỗ Sĩ ở Trường An cùng đến chỗ Sư kết thành Liên Xã.
Vua Vũ Tông trị vì thiên hạ, lúc đầu kính trọng Phật giáo, về sau nghe theo luận bàn phù phiếm mà cho xây đài cúng tế ở núi Bồng Lai cầu được thành tiên. Tuy các quan dâng sớ ngăn cản nhưng vua không đổi ý. Nhân tiết Đức Dương nhằm ngày Lập Xuân, chư tăng và đạo sĩ nhóm họp tại điện Lân Đức để luận nghị. Vua cai trị đất nước theo chủ trương của đạo Lão, là theo cách giản tiện thuần phác. Nhân đó, Sư trình bày điều căn bản về việc cai trị giáo hóa của bậc đế vương. Sư nói:
- Tu tập thành thần tiên là của những người rảnh rang ở núi rừng, là việc riêng tốt cho bản thân mình, đó chẳng phải là điều bệ hạ nên ưa chuộng!
Lời nói của Sư trôi chảy, biện luận thao thao, khoảng vài vạn lời trái nghịch ý vua. Tả hộ quân Cừu Sĩ Lương, quan Khu mật Dương Khâm Nghĩa thương tiếc tài năng của Sư, sợ sẽ bị nhà vua trách mắng đuổi đi nên mới giả vờ chê bai Sư. Sư trình bài thơ ca tụng nhà vua hiền minh gồm năm thiên. Thiên cuối có bốn câu:
Sinh thiên vốn có nghiệp sinh thiên
Chưa chắc cầu tiên liền thành tiên,
Lưng hạc nghiêng đổ, lưng rồng trượt Quân vương cai trị cả nghìn năm.
Nhà vua xem bài thơ không hiểu, vẫn cắt giảm số người xuất gia. Sư quay về núi cũ ở Ba Mân. Luật vua ban hành tất cả tăng sĩ phải để tóc mà Sư vẫn giữ gìn giới hạnh ngày càng trong sáng hơn.
Kế tiếp, Sư vào Hồ Nam. Bấy giờ quan Cấp sự là Dương Hán Công kiểm xét Hồ Nam, thỉnh Sư đến ở chùa Khai Nguyên. Kế đó, Tuyên Tông Long Phi Dương Công Tự thuộc Khu mật viện thống lĩnh Tả cấm quân, đưa ra kế sách để gầy dựng cơ nghiệp, yêu cầu phục hưng Phật giáo, mới tìm hỏi tin tức của Sư. Bấy giờ, Sư được làm tăng trở lại, trụ ở chùa Bảo Ứng, mọi người chúc mừng, ca ngợi và thỉnh Sư làm thủ tọa tam giáo. Vua lấy dinh thự của phiên vương xây thành chùa Pháp Càn rồi mời Sư ở chùa này.
Niên hiệu Đại Trung thứ ba (849), vào ngày sinh nhật của mình, vua lệnh quan Gián nghị Lý Di Tôn, quan Cấp sự Dương Hán Công cùng với Sư, ba bên cùng nhau luận nghị. Sư tâu:
- Các chùa đã phế bỏ trong nước nên xây dựng trở lại.
Sư có công lao như thế trong việc xây dựng lại các ngôi chùa. Thấy Sư là người tài trí nên vua đặc biệt quan tâm, ban lệnh thợ vẽ hình Sư đặt ở cung cấm. Bấy giờ, tướng quốc Bùi Hưu kết thân với Sư, cùng Sư xiển dương tông chỉ, phát triển Phật pháp.
Niên hiệu Quảng Minh thứ hai (881), Hi Tông tị nạn ở Tây Thục, sai Quách Tuân Thái mang ngọc tỉ đi thỉnh Sư, kiệu Sư đến chỗ vua. Ở đó, Sư tùy nghi luận đáp, nghĩa lí có phần khơi mở được ý vua. Tả quân Dung Điền Lệnh Tư và các đại thần đều kính phục đức độ mà sớm hôm hỏi đạo chẳng kể ngày đêm. Vua muốn biểu dương đức hạnh nên lệnh cho các học sĩ đặt hiệu cho Sư, nhưng đều không hợp ý vua. Vua nói:
- Trẫm dựa vào ý chỉ sâu xa của kinh Pháp hoa là khai thị ngộ nhập mà đặt hiệu. Ngộ là hiểu biết, là sáng tỏ, hiểu biết đạo lớn của Đức Phật, làm sáng tỏ tri kiến của Như Lai. Vua nói tiếp:
- Ngộ là ngộ được tự tính của mình, rốt ráo thành Phật, nay ta ban hiệu là “Ngộ Đạt Quốc Sư”. Tuy chỉ cưỡng đặt tên nhưng biểu đạt được ý trẫm.
Một năm sau, Sư xin về am cũ ở Cửu Lũng để tiếp tục tu Tịnh độ, được vua chấp thuận.
Ngày 21 tháng giêng năm sau, Sư đang nằm bỗng thấy những cảnh mà lúc trước Sư từng dạo qua hiện ra rõ trước mặt. Nhân đó, Sư đốt hương, hướng về phương tây nguyện:
- Những cảnh tượng đó đều chẳng phải là chí nguyện của con, giá mà thấy được cảnh Tịnh độ một lần thì con mãn nguyện.
Sư vừa dứt lời thì trên hư không có tiếng nói:
- Việc tu hành của ngài nhất định sinh An Dưỡng thì lo gì không được mãn nguyện!
Sư nghe nói thế, vui mừng và cảm thấy yên lòng, bảo đệ tử Từ Đăng dâng biểu lên vua. Sư nói với Từ Đăng:
- Ta tu Tịnh độ đã nhiều năm, hôm nay nghe được lời ấy là đã hợp với nguyện xưa của ta rồi!
Sư nằm nghiêng bên phải, thở nhè nhẹ mà viên tịch, hưởng thọ bảy mươi ba tuổi.