Home > Linh Cảm Ứng > Thich-Tri-Khai
Thích Trí Khải
| Chúc Đức, Việt Dịch


Sư họ Trần, ban đầu ở Dĩnh Xuyên, sau nhà Tấn dời đô, lại chuyển sang cư ngụ ở Hoa Dung, Kinh Châu. Mẹ họ Từ, khi mang thai Sư, bà thường thấy mộng lạ. Lúc Sư ra đời, căn phòng rực sáng hơn cả mặt trời; ở trong nôi mà Sư đã biết chắp tay, ngồi quay mặt về hướng tây. Tuổi còn ấu thơ, Sư đã thích đi chùa, một vị tăng thấy Sư còn bé có chí khác thường, liền dạy cho phẩm Phổ môn trong kinh Pháp hoa, vừa chỉ qua một lần Sư đã đọc thông thuộc.

Năm mười lăm tuổi, Sư đến Hạp Châu học với người cậu.

Năm mười tám tuổi, Sư xuất gia nơi pháp sư Tự ở chùa Quả Nguyện, Tương Châu. Ngài truyền cho Sư mười giới rồi bảo đến nương luật sư Tuệ Khoáng học kinh điển. Sau Sư ở ẩn tại núi Thái Hiền tụng kinh Vô lượng nghĩa[51], Pháp hoa, Phổ Hiền, Quán Vô Lượng Thọ Phật, chưa đầy mười ngày mà Sư đã thông ba bộ.

Sau đó, Sư nương nơi thiền sư Tuệ Tư ở núi Đại Tô, Quang Châu. Tổ thấy Sư, liền bảo:

- Xưa, ông cùng ta nghe kinh Pháp hoa ở Linh Sơn; duyên lành đưa đẩy, nay lại gặp đây!

Tổ dạy Sư đạo tràng Phổ Hiền, rồi giảng bốn hạnh an lạc. Sư ở Đại Tô hành trì Pháp hoa tam muội, chỉ mới được ba đêm, khi tụng đến câu “Thị chân tinh tiến” trong phẩm Dược vương của kinh Pháp hoa thì tâm bỗng khai ngộ, lại thấy được việc Sư cùng tổ Tuệ Tư nghe Phật thuyết pháp tại Linh Sơn. Sáng hôm sau Sư bạch Tổ, Tổ bảo:

- Chỉ ông cảm ứng được, chỉ ta mới biết! Chỗ đạt được của ông là Tiền phương tiện Pháp hoa tam muội.

Chẳng bao lâu Sư lại vào núi Bạch Sa, Hi Châu, cũng nhập quán như trước, khi Sư có điều nghi ngờ trong kinh thì liền thấy tổ Tuệ Tư âm thầm cảm ứng đến giải thích. Về sau, Tổ bảo Sư giảng kinh thay, người nghe đều khâm phục. Đối với trí dụng của ba loại tam muội[52], ba quán[53], Sư còn phải tham vấn, các vấn đề khác thì đều đã thông hiểu rõ ràng. Có lần, Tổ ở dưới tòa nghe Sư giảng, rồi bảo với các đệ tử:

- Đây là đứa con trong giáo nghĩa của ta, chỉ tiếc là định lực còn ít!

Từ đó, tăng tục đều khâm phục Sư, danh tiếng truyền khắp. Ít lâu sau, Sư từ biệt, Tổ bảo:

- Ông có duyên đối với nước Trần, đến đó nhất định có lợi ích.

Nhân đó, Sư đến Kim Lăng, ở chùa Ngõa Quan, hoằng dương pháp thiền, quan Bộc xạ Từ Lăng và những người danh vọng quyền quí thời bấy giờ đều đến tham vấn, nhưng bẩm tính Sư điềm đạm, không thích rộn ràng, dù sống trong cảnh náo động hay tĩnh lặng, Sư vẫn nghĩ như đang ở trong núi rừng.

Vào niên hiệu Quang Đại nhà Trần (567 – 568), có lần Sư mộng thấy một ngọn núi cao chót vót vào lúc xế chiều, bầu trời rộng mênh mông không bờ mé, từ xa Sư thấy một vị tăng trên đỉnh núi vẫy tay gọi, rồi duỗi tay xuống tận chân núi kéo Sư lên. Sáng sớm mai, Sư kể lại giấc mộng, có người bảo nơi đó là núi Thiên Thai ở Cối Kê. Từ đời Tống, Tấn trở đi, các sư Tăng Quang, Đạo Du, Pháp Lan, Đàm

Mật v.v… đều ở đó, Sư vui mừng vì nghiệm đúng với giấc mộng trước kia. Sau đó, Sư cùng với hơn hai mươi vị tăng như Tuệ Biện, v.v… cùng đi về hướng nam lên núi. Tại núi này, từ trước đã có sư Định Quang ở đó được bốn mươi năm. Hai năm trước khi Sư đến, ngài Định Quang bảo các đệ tử:

- Sau này sẽ có thiện tri thức đến, các ông hãy lo chuẩn bị tiếp đón.

Khi Sư đến, ngài đón tiếp vui vẻ, hỏi:

- Ông có nhớ trước kia tôi đã gọi và kéo ông lên núi không?

Sư kinh ngạc, mới biết mộng xưa có linh ứng, lại nghe có tiếng chuông ngân vang cả núi rừng, mà nơi đây không có chùa, khiến Sư rất lấy làm lạ. Ngài Định Quang nói:

- Chuông dùng để triệu tập người hữu duyên, tức là ông có duyên được ở nơi này. Đâu có gì kì lạ!

Sư lo tính làm chùa, ngài nói:

- Ông có thể tùy ý sắp xếp chỗ ăn ở. Đến khi đất nước hòa bình sẽ có người đến xây chùa cho ông.

Hai năm sau, quả nhiên Tuyên hoàng đế nghe Sư là bậc đạo hạnh nên ban lệnh xây chùa, lại biết có chúng tăng nương học nên vua cắt phần thuế thu được ở huyện Thỉ Phong để cung cấp.

Sư ở chùa này, mỗi mùa hạ đều giảng kinh Tịnh Danh, một hôm lúc Sư đang giảng thì chợt thấy có ba bậc thềm báu từ trên trời hạ xuống, lại có vài vị Phạm tăng ở trên đó bước đến, tay cầm lư hương đi nhiễu quanh Sư ba vòng, hồi lâu sau mới biến mất. Người hiểu biết nói đó là Thánh chúng Thạch kiều, biểu thị sự ấn chứng, để khiến cho tâm Sư được kiên cố.

Vĩnh Dương vương Bách Trí lấy lễ thầy trò kính phụng Sư, khi đến cai trị ở đất Ngô, ông đưa cả nhà lên núi xin thụ giới với Sư.

Tuyên đế cũng thường hỏi:

- Hiện nay trong nhà Phật ai là kiệt xuất?

Cận thần Trần Huyên tâu:

- Chính là thiền sư chùa Ngõa Quan. Ngài đã đến kinh đô được các bậc danh hiền kính trọng, hiện nay ẩn tu ở Thiên Thai làm mất đi chỗ nương nhờ cho mọi người. Mong bệ hạ ban chiếu triệu Sư về, để làm khuôn phép dạy dỗ cho tăng và tục.

Vua liền viết nhiều chiếu thư thỉnh Sư về kinh đô, đồng thời lệnh quần thần nghinh đón Sư đến điện Thái Cực ở Đông đường giảng luận Trí độ, lại lệnh có xe hoa, đồng tử dẫn đường ở phía trước, Tuyên trung thư và quan Xá nhân đi sau hộ tống.

Bấy giờ, trong nước kiểm tra tăng ni, có vô số người không thông suốt Phật pháp, khi lâm triều vua truyền lệnh:

- Tất cả những người trình độ Phật học kém thì phải tách riêng ra để loại trừ.

Sư tâu:

- Điều đạt thông suốt sáu vạn kinh mà không tránh khỏi địa ngục, Bàn đặc tụng mỗi một bài kệ mà chứng được quả Thánh. Đó là do đạo thiết thực chứ đâu phải là hiểu biết nhiều!

Tuyên đế nghe nói vậy vui mừng, liền bỏ ý định ấy.

Một hôm, Sư mộng thấy một người cùng đoàn tùy tùng trang nghiêm, đến trước Sư nói rằng:

- Tôi là Quan Đạt, thỉnh ngài trụ ở Tam Kiều.

Sư nói:

- Quan Đạt là pháp danh của Lương Vũ[54], Tam Kiều chẳng phải là chùa Quang Trạch sao?

Sau đó, Sư chuyển sang ở đó, vào tháng tư mùa hạ năm ấy, vua Trần đến chùa thỉnh giảng kinh Nhân vương. Trong đại chúng, vua chí thành đỉnh lễ Sư, hoàng hậu, phi tần thảy đều cung kính giới pháp. Vua bạch: “Mong thầy giáo hóa, tùy căn cơ cứu độ muôn nơi, bảo vệ đất nước, dẫn dắt trời người.” Lại thưa:

- Nay muốn trọn vẹn bản nguyện, xin thỉnh thầy vì chúng con làm giới sư bồ tát, ngưỡng mong lòng từ nhẫn[55] theo như ý trẫm!

Sư thăng tòa, vua ở dưới tòa hành lễ theo phép tắc của người đệ tử. Về sau, Kim Lăng bị thất thủ, quyền lực thuộc về họ Dương. Bấy giờ, vua Tấn ở Dương Châu cũng muốn thụ lĩnh giới pháp, đích thân viết chiếu:

- Đệ tử kế thừa cơ nghiệp tích lũy phúc thiện, sinh ở Hoàng gia, thân phụ mất sớm, di giáo đã được thấm nhuần từ trước.

Lại viết: “Tiếng tốt của hòa thượng vang xa, được rất nhiều người biết đến. Nay đệ tử đây thành tâm ngửa mong được tiếp đón!”

Sư đến Dương Châu, vua tổ chức lễ thụ giới cúng dường mười nghìn vị tăng. Sau khi truyền giới xong, Sư bảo vua:

- Đại sĩ cứu giúp chúng sinh, lấy tổng nhiếp làm đầu. Việc đặt pháp danh là để hiển bày lẽ thật xưa nay vốn đồng. Pháp danh của bệ hạ là Tổng Trì, nên nhân đó mà làm sáng tỏ lẽ thật.

Vua đỉnh lễ thụ nhận. Ở trong đại chúng, vua nói với Sư:

- Thiền sư trí đức, bên trong ẩn chứa đức từ bi nhẫn nhục, bên ngoài giáo hóa trời người, nhiếp phục tà ma ngoại đạo, trẫm xin ban hiệu là Trí Giả, dưới hợp với lòng người.

Nhân đó vua cúng dường vật báu cùng mười sáu món đồ khác. Sư đều đem tất cả cứu giúp cho người nghèo khổ.

Sau, sư quay về Thiên Thai nhất tâm thiền định. Một hôm, vừa xuất định, Sư bảo đệ tử Trí Việt:

- Huyễn thân của ta chẳng bao lâu nữa sẽ hoại, con trưng bày hoa hương ở Thạch Thành[56] đợi ta xả báo thân.

Rồi Sư đến giảng tòa ngồi quay mặt về hướng tây niệm Phật A di đà và hai vị bồtát, đợi hóa Phật, hóa bồ tát ở Tịnh độ đến tiếp dẫn. Sư lại bảo đệ tử đốt nhiều nến thơm, đem ba y, bát, tích trượng đến bên mình. Có người muốn dâng món ăn chay, Sư bảo:

- Không phan duyên chính là món ăn chay chân thật!

Sư bảo đem nước nóng có hương liệu đến, rồi súc miệng, rửa sạch lưỡi, Sư giảng các pháp: thập như thị[57], tứ bất sinh[58], thập pháp giới[59], tam quán, tứ trí, tứ vô lượng, lục ba la mật…

Có vị tăng[60] hỏi về sự chứng ngộ của Sư. Sư đáp:

- Ta không lĩnh chúng thì được Lục căn thanh tịnh[61]. Vì người mà thiệt hại cho mình, nên ta bị lui xuống địa vị Ngũ phẩm nội phàm.

Lại nói:

- Người sắp mệnh chung nghe tiếng chuông và khánh sẽ tăng trưởng được chính niệm. Con hãy gõ khánh để ta được chính niệm nhiều hơn!

Sau đó, Sư ngồi kết già viên tịch trước tượng Phật A di đà.

Ghi chú

Đại sư đạo cao đức trọng, là một nhà giáo quán[62], được muôn đời kính ngưỡng, nhưng lúc Sư xả báo thân này chỉ một lòng cầu sinh về sinh Tây phương. Ngoài ra, Sư còn viết lời sớ của kinh Quán Vô Lượng Thọ và trước tác bộ Thập nghi luận. Sư một đời ân cần dạy dỗ đồ chúng, chí nguyện ấy có thể thấy được. Có người nói: “Kinh sớ lấy tâm quán làm tông, như vậy, Tịnh độ không có thật ư?”. Ôi! Đại sư nói, dùng tâm quán Phật, thì không thể nói là không có Phật. Nếu không có Phật thì tâm làm sao quán? Chính báo thế nào thì y báo thế ấy. Người học tông Thiên Thai phải hiểu rõ điều này.