Home > Khai Thị Niệm Phật > I-Tin-Giai-Mon
I. Tín Giải Môn
Đại Sư Diệu Khẩu | Hòa Thượng Thích Hồng Nhơn, Việt Dịch


1. Y báo và chánh báo cõi Cực lạc.

Đức Thế Tôn là một bậc Vô Thượng Chánh biến Tri, ứng khắp các cơ, từ cung trời Đâu Xuất giáng trần, ròng rã suốt 49 năm thuyết pháp có hơn 300 dư hội với hoài bảo làm cho chúng sanh đồng chứng chơn thường. Cho đến hội cuối cùng ở Linh Sơn mới nói Kinh Pháp Hoa khai thị chúng sanh ngộ vào tri kiến Phật, đó là bản hoài mà đức Phật muốn đề xướng. Nhưng cái Đạo độ chúng sinh thoát khỏi luân hồi không phải chỉ có một mình đức Thích Ca, mà các đức Như Lai trong 3 đời đồng truyền chánh giáo. Tuy vậy, trong một đời thuyết giáo của đức Thích Ca Mâu Ni, ngài dùng rất nhiều pháp môn tùy theo căn cơ thích hợp mà giáo hoá, nhưng pháp môn hợp thời cơ, có duyên sâu dày giữa Phật và chúng sinh, pháp tu rất thẳng tắt, dễ làm mà có hiệu quả cao, không có pháp môn nào hơn pháp môn Tịnh độ.

Pháp môn niệm Phật này ban đầu do Tỳ kheo Pháp Tạng ở vô lượng kiếp trước làm vị Đại Quốc Vương, nghe Phật Thế Tự Tại Vương thuyết pháp, liền bỏ nước xuất gia làm Tỳ kheo. Đức Phật Thế Tự Tại Vương vì nguyện vọng của Tỳ kheo Pháp Tạng mà rộng nói và thị hiện 210 ức cõi Phật trang nghiêm gồm cả các việc thô tế, thiện ác của người trời mỗi cõi chẳng đồng nhau. Tỳ kheo Pháp Tạng nghe rồi, liền ở trước Phật Thế Tự Tại Vương phát 48 đại nguyện: “Nguyện khi thành Phật nhân dân trong nước không có các thứ như: 3 đường, 3 độc, 8 khổ, 8 nạn, 9 não, 10 trói buộc và các thứ chướng ngại. Người sanh về nước tôi sẽ thành bậc chánh định, được pháp nhẫn, ngộ chơn tâm, có trí giải thoát thù thắng. Người muốn được sanh, khi lâm chung chỉ cần niệm Phật cho đến 10 niệm liền được sanh, nếu không được như vậy thì tôi không ở ngôi chánh giác”. Khi ấy cõi đất chấn động, trời rưới hoa đẹp, nhạc hư không tự trổi. Đức Phật Thế Tự Tại cũng thọ ký cho Tỳ kheo Pháp Tạng đã đắc quả thành Phật đến nay đã hơn 10 kiếp. Do ngày xưa phát đại nguyện thù thắng, công đức thần thông, ánh sáng, 10 lực, vô sở úy vượt qua các cõi Phật ở 10 phương hiệu là Phật A Di Đà.

Tịnh độ Phật A Di Đà ở từ thế giới Ta Bà này thẳng về hướng Tây cách 10 muôn ức quốc độ, gọi là Cực lạc cũng gọi là An Dưỡng. Hiện nay Phật A Di Đà đang ở cõi ấy, vì đại nguyện và sức thần thông nên hiện đang thuyết pháp, nhiếp thủ chúng sanh niệm Phật trong 10 phương. Chúng sanh nào được sanh về cõi ấy đều ở vị bất thối chuyển, người sinh về cõi ấy nhiều vô lượng, chỉ dùng số hằng hà sa vi trần để thí dụ thôi.

Quốc độ Cực lạc được trang nghiêm vô cùng thắng diệu, vượt qua các cõi Tịnh độ trong 10 phương. Ao báu ở trong cõi ấy lớn nhỏ đều dùng bảy báu tạo thành. Ao lớn cõi ấy rộng khôn kể xiết, đáy bằng cát vàng, chung quanh có đường đi, bên đường có lầu gác cả nghìn tầng rộng lớn đẹp đẻ, ánh sáng chói lọi nói không thể hết. Ở trong ao có nước bát công đức trong suốt, thơm ngát đầy dẫy. Có 14 cây phun nước, phun lên rơi xuống thành tiếng diễn nói vô lượng pháp môn. Ở trong nước ấy có đến 60 ức hoa sen bảy báu, nở tròn tươi đẹp, nước rơi vào cánh sen bốn màu phát ra bốn thứ ánh sáng. Những người vãng sanh ở ba bậc hoặc chín phẩm sắp theo thứ lớp, hương thơm vi diệu, ánh sáng rực rỡ cả nước.

Cõi ấy đất báu bằng phẳng do nguyện lực mà thành, ở trên đất ấy có 7 lớp lan can, 7 lớp hàng cây, tràng phang thòng xuống được kết bằng châu anh lạc, mỗi thứ đều có vô lượng vẻ đẹp thù thắng, phất phơ đẹp đẻ trang nghiêm khắp nước. Ở trong hư không rưới các áo trời, hương trời, hoa trời, lụa trời, nhạc trời, mỗi thứ đều có đến vô lượng, tung bay tản mạn đầy khắp hư không, các món trang nghiêm vô lượng như thế đều làm bằng vàng, bạc, lưu ly, xa cừ, mã não, tỳ lăng già, ngỏa thúc ca, Như Ý châu vương, kim cang Ma Ni, không thể tính đếm, đều do trân bửu mà thành. Trong mỗi thứ trân bửu đều phóng ra vô lượng trăm ngàn muôn ức màu đẹp, cùng nhau chiếu sáng, mỗi thứ đều chiếu khắp cả tam thiên đại thiên thế giới, các ánh sáng ấy giao tiếp hoà hợp không hề chướng ngại, trùm khắp hư không, nói không cùng tận. Vô lượng các thứ trang nghiêm, vô lượng các thứ ánh sáng như thế. Các thứ ánh sáng, các thứ trang nghiêm cùng với thiên nhạc, hương hoa trên hư không, chim hót lưới reo, tiếng ấy cung thương đúng nhịp, điệu tiết hoà hợp, phát ra vô lượng vô biên tiếng mầu nhiệm. Tiếng ấy liên tục cùng khắp không hề gián đoạn, tất cả đều diển nói các ba la mật khổ không vô ngã, tán thán đạo Bồ Đề, ca ngợi Phật Pháp Tăng, hoặc nói Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Y Túc, Ngũ căn, Ngũ Lực, Thất giác Chi, Bát Thánh đạo, Lục độ Vạn Hạnh, 10 Lực, 10 Vô Sở Úy, 18 Pháp Bất Cọng, đại từ đại bi, đại hỷ đại xả, vô lượng pháp môn không thể nghĩ bàn. Chỗ thuyết pháp ấy nói về y chánh và sắc tâm của chư Phật ba đời dung thông không ngăn ngại, đồng nhau khuyến tấn kẻ tu hành như tiếng pháp âm của Phật không khác. Chúng sanh ở trong nước ấy nghe pháp rồi mỗi niệm đều được thỏa đáng an vui, mau được hạnh thù thắng của Tam thừa, tất cả đạo phẩm, vô lượng giải thoát như từ Phật nghe chẳng có sai khác. Dù là phàm phu, nghe pháp này rồi tự nhiên tinh tấn, còn không có chút ý niệm mõi mệt, làm sao có ý thối chuyển.

Ở cõi Cực lạc thuần nhất có con trai, không có con gái, từ hoa sen sinh ra, không ở bào thai, mặc đồ xinh đẹp, thân thể thơm tho, luôn luôn vui vẻ, tùy theo ý muốn mọi vật đều hiện đầy đủ ra. Không có ngày đêm, lạnh ấm, không có sanh già bệnh chết, không có các thứ núi đất, không có ba đường ác đạo. Đi qua lại trong hư không, kinh hành dưới cây, muốn làm các Phật sự, thị hiện thần thông đều từ tâm niệm liền hiện đến. Nhân dân ở đây sống lâu vô lượng, có đủ các thứ khoái lạc như thế nên gọi là Cực lạc.

Lại nữa, Đức Thế Tôn A Di Đà có công đức ánh sáng, oai thần tướng hảo, mỗi thứ đều có đến 84., như núi vàng tía, ngồi trên đài hoa sen, tòa sư tử, trang nghiêm rực rỡ, cao vọi trên không to bằng bốn biển lớn, lông hào quang ở giữa chặng mày có năng lực lớn phát ra ánh sáng, như mặt nhật lên cao các đèn đều đẹp. Trong ánh sáng hoá Phật, Bồ Tát, Thanh Văn, mỗi vị đều phóng ánh sáng lớn, chiếu thấu đến các cõi nước ở xa, nhiếp thọ chúng sanh. Quan Âm Đại Sĩ và Thế Chí Đại Sĩ cũng đều phóng quang như vậy. Bồ tát Văn Thù, Bồ tát Phổ Hiền, các Đại Bồ tát đều ở nước kia một đời bổ xứ, số ấy rất nhiều, các bậc thiên nhân họp về một chỗ, đều là bạn lành thờ Phật làm thầy, thân cận bên Phật, nghe đệ nhất nghĩa, vượt khỏi ba cõi, liền chứng vô sanh, mười địa vượt qua, hai giác viên mãn. Có thể ở trong mỗi niệm cúng dường Tam Bảo ở mười phương, thành tựu tất cả pháp môn, có du hí thần thông, tịnh quốc độ Phật. Cho đến vào chốn ba cõi sáu đường, phóng quang phá tối, cứu khổ chúng sanh. Hoặc lại phân thân trăm nghìn cõi nước, tùy duyên hoá đạo, theo bệnh cho thuốc, như lòng lành ban bố của Phật, ở trong mỗi niệm viên mãn hạnh nguyện của Bồ Tát Phổ Hiền, đủ sức trí huệ của Bồ Tát Văn Thù, có năng lực của Bồ tát Đại Thế Chí, như đức Quán Thế Âm, đồng chứng Bồ đề, đồng ở chỗ Phật. Tánh của tất cả chúng sanh vốn tối tăm, được nghe pháp này đều rất hoan hỉ mà sanh lòng tin vui. Việc trang nghiêm diệu độ tuy có đủ trong tâm của chúng ta, nếu không có đức Như Lai A Di Đà, ở trong thuở quá khứ, vì độ chúng sanh, thực hành đạo bồ tát, công khó không thể nghĩ bàn đâu có được thành tựu như ngày hôm nay. Nên biết rằng: Đức Phật A Di Đà có hạnh nguyện vô lượng vô biên, trang nghiêm vô tận, cho nên, Như Lai A Di Đà ở quốc độ kia, nguyện lớn viên mãn, cõi báu mới viên thành, y báo, chánh báo trang nghiêm, tất cả đều viên mãn. Sự trang nghiêm y chánh cảnh giới như thế dù tất cả chư Thanh văn, Duyên giác như số cát sông Hằng trong mười phương dùng sức đại biện tài, xưng tán chân thật, dù suốt đời vị lai cũng không khen ngợi cho hết.

Nếu có người thiện nam tín nữ nào nghe nói y chánh trang nghiêm ưa muốn sanh về cõi kia, cầu theo lời Phật dạy, phải phát khởi đủ ba thứ tâm (trực tâm, thâm tâm, hồi hướng phát nguyện tâm), giữ đầy đủ các giới đã thọ, không phạm oai nghi. Sau đó, dùng tâm chơn thật, quán quốc độ kia, tất cả cảnh giới thắng diệu vô lượng, y chánh trang nghiêm và thân đức Như Lai kia có 8 muôn tướng hảo công đức, ánh sáng thanh tịnh. Hoặc lại tùy giữ lấy một cảnh một tướng cho đến lông trắng giữa chặng mày của đức Như Lai, xa lìa hư vọng. Hoặc một niệm đến 10 niệm, hoặc 1 ngày đến 7 ngày, nhanh như tráng sĩ co tay, trong chốc lát liền được vãng sanh. Hoặc có người tin chắc có quốc độ Cực lạc và có Phật A Di Đà với nguyện lực đại thần tiếp dẫn chúng sanh; chẳng sanh chút nghi hoặc, từ đó một lòng gìn giữ danh hiệu, không cần đợi lâu cũng được vãng sanh, đâu cần đợi quả báo của sắc thân này mãn mới được vãng sanh. Nên biết, đức Phật A Di Đà tiếp dẫn chúng sanh ra khỏi cảnh khổ, Ngài thương chúng sanh hơn cha mẹ thương con. Ở trong các kiếp trước đây đã lập thệ nguyện lớn, không có khổ gì mà không nhận, không có việc khó nào mà chẳng làm, không có nguyện nào mà không lập, không có pháp nào mà chẳng nói để độ chúng sanh, dùng đến trăm ngàn phương tiện để độ sanh. Hôm nay là lúc hằng ngày mõi mắt trông chờ, đưa tay chờ tiếp dẫn đã hơn 10 kiếp, mỗi niệm không rời, héo hắt gan lòng, cho đến một lòng chí thiết vào trong sanh tử, qua khắp ba đường, lửa dữ địa ngục không hề sợ nhọc. Chúng ta nếu quay về niệm Phật như con nhớ mẹ, an ủi lòng trông mong của mẹ dù chỉ một niệm cũng được vãng sanh đâu cần trãi qua 10 niệm mới được vãng sanh.

Từ Ngữ Phật Học Trong: I. Tín Giải Môn