Home > Khai Thị Phật Học
Tín Giải Hành Chứng
Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Vọng Tây, Việt Dịch


Nếu chúng ta nói đến tầng thứ trình tự tu học Phật pháp, thì đó là Tín Giải Hành Chứng mà trong Kinh Phật thường nói. Thứ nhất bạn phải có tín tâm. Nếu như không có lòng tin đối với Phật pháp thì bạn không thể tiếp nhận. Còn nếu sanh lòng tin đối với Phật pháp, thực tế mà nói cũng không phải là một việc dễ dàng, trong thế xuất thế gian pháp thường gọi là duyên phận, trong Phật pháp gọi là thiện căn phước đức nhân duyên. Nếu như không có thiện căn phước đức nhân duyên thì việc này sẽ rất khó. Chúng ta tỉ mỉ mà nghĩ thử xem, lời nói này đích thực rất có đạo lý. Khi tôi còn trẻ, vào thời kỳ đang đi học ở trường, lúc đó trong xã hội đang phá trừ mê tín, mọi người đều xem Phật pháp là mê tín, cho nên chúng tôi từ nhỏ, vì quan niệm này nên cũng xem Phật pháp là mê tín, không cách gì tiếp nhận.

Biểu hiện bên ngoài của Phật pháp cũng thật sự là mê tín. Ở khu vực Đài Loan là một nơi nhỏ, có mấy vị pháp sư bên Đại lục đến Đài Loan thường hay giảng Kinh nói pháp, ở Đại lục thì không có. Đến sau này chúng ta mới hiểu được, ở Đại lục lúc đó pháp sư có thể giảng Kinh nói pháp đại khái không đến mười mấy vị, với một quốc gia lớn đến như vậy mà chỉ trong mấy thành phố lớn mới có pháp sư giảng Kinh, cho nên như chúng tôi ở nông thôn, ở trong huyện thị nhỏ, căn bản chưa từng có nghe nói qua có giảng Kinh, chỉ có nghe nói Hòa thượng tụng Kinh. Cho nên biểu hiện ra là độ người chết, cái tự viện đó họ cùng qua lại với người chết, dường như là không có quan hệ gì với người sống cả. Cho nên khi nhỏ đến giáo đường, đến giáo đường của Ki Tô giáo còn được nghe mục sư giảng đạo, có lúc còn nghe thấy có đạo lý, trái lại Phật pháp thì không bằng họ. Cho nên khi tôi còn trẻ, tôi rất ngưỡng vọng đối với Ki Tô giáo, đối với Hồi giáo. Tôi ở trong Hồi giáo một năm, ở trong Ki Tô giáo hai năm, thế nhưng đối với Phật pháp vẫn nhất định không thể tiếp nhận. Sau khi đến Đài Loan tôi học triết học với tiên sinh Đông Phương Mỹ. Phương tiên sinh dạy tôi mục sau cùng là triết học Phật Kinh. Phương tiên sinh nói với tôi triết học Phật Kinh là đỉnh cao nhất của triết học toàn thế giới, đó là hưởng thụ cao nhất của nhân sinh. Tôi bỗng nhiên hiểu ra trong Phật giáo có thứ tốt đến như vậy, đáng tiếc không có người biết. Thực tế mà nói, ngay đến pháp sư xuất gia cũng không nói qua việc này. Bạn đến học Phật, bạn đến niệm Phật với pháp sư xuất gia, nhưng vì sao phải học Phật, vì sao phải niệm Phật thì pháp sư không nói ra được thì làm sao có thể dạy được một phần tử tri thức? Phần tử tri thức rất ngoan cố, làm sao có thể tiếp nhận chứ?

Cho nên sau khi tôi tiếp nhận dạy bảo của Phương tiên sinh, tôi mới biết được trong cửa Phật có bảo vật, có thứ quý giá. Thế nhưng thứ quý giá này người xuất gia không nói ra, chỉ có chúng ta đến Tự viện tìm Kinh điển để đọc, thật là vô cùng đáng tiếc. Về sau tôi mới nghe được pháp sư giảng Kinh. Có thể thấy được cái duyên này là quá khó, thật khó. Phát hiện được có thứ tốt đến như vậy, không phát hiện thì chẳng hề gì, đã phát hiện, đã có được thọ dụng rồi, nếu như không đem Phật pháp mở mang rộng lớn, không thể làm tốt công tác tuyên truyền Phật pháp thì chúng ta cảm thấy rất có lỗi với Thích Ca Mâu Ni Phật. Ngài đã lưu lại điển tích nhiều đến như vậy nên chúng ta cũng phải khởi phát cái tâm, phải chân thật mà phát tâm hoằng dương Phật pháp. Vì vậy, sau khi học giảng Kinh xong tôi mới xuất gia. Tôi vừa xuất gia thì liền giảng Kinh, đến nay đã 38 năm gần như là không có gián đoạn. Một tuần lễ giảng ít nhất bảy lần, khi nhiều thì giảng đến hai ba chục lần, một ngày giảng ba lần, giảng được một thời gian. Hoằng dương Phật pháp đáng được chúng ta xem là một sứ mạng. Phải nên đem Phật pháp nói ra cho mọi người biết. Cho nên việc thứ nhất chúng ta phải tin tưởng đối với lão sư, tin tưởng Thích Ca Mâu Ni Phật không thể gạt chúng ta, tin tưởng tổ sư đại đức nhiều đời, đời đời truyền nối nhau là chân thật.

Thế nhưng chỉ riêng tin thôi thì không đủ, nhất định phải cầu giải. Phật pháp không giống như Ki Tô giáo là tin rồi thì có thể được cứu, Phật pháp tin rồi chưa đủ. Bạn có lòng tin thì bạn có thể vào cửa nhưng không thể được cứu, bạn phải lý giải chính xác, lý giải viên mãn rồi sau đó phải hành. Hành là phải làm được, phải đem cảnh giới phương pháp lý luận của Phật pháp biến thành đời sống việc làm thực tế của chính chúng ta, đó gọi là hành. Vậy cái gì gọi là chứng? Ngay trong đời sống chứng thật đạo lý Phật đã nói, những giáo huấn mà Phật đã dạy là không sai; chứng minh từ trước ta đã tin, chứng minh từ trước ta đã lý giải, ý nghĩa là như vậy. Nghĩa thú của Tín Giải Hành Chứng đã nói phía trước là như nhau, có thứ lớp có viên dung mới là viên mãn.

Thứ hai, quy củ tu học của thời xưa tốt hơn so với hiện tại chúng ta. Đây chính là sư thừa mà ngày thứ nhất tôi đã giảng với các vị, điểm này then chốt vô cùng. Sư thừa của Trung Quốc thời xưa ứng dụng trong văn hóa truyền thống, ứng dụng trong tu học của Phật pháp là quyết định chính xác, nhất định có thể đạt đến mục tiêu của giáo học, nhà Phật chúng ta gọi là tu hành chứng quả. Thế nhưng sư thừa ở hiện đại đã không còn nữa. Tôi được xem là rất may mắn còn nếm được một chút nhỏ, đại khái từ cỡ tôi về sau thì không còn nữa. Cái gì gọi là sư thừa vậy? Là cùng học với một thầy.

Khi tôi còn trẻ thích học triết học, gặp được tiên sinh Đông Phương Mỹ tôi rất tôn kính đối với Ngài, tôi muốn học với Ngài. Vào lúc đó tôi đang làm việc, chỉ hy vọng ngoài thời gian làm việc ra thì đến dự thính các buổi giảng bài của Ngài. Ngài dạy triết học ở Trường Đại học Đài Loan, tôi muốn đến trường để nghe bài của Ngài, tôi viết một bức thư cầu xin Ngài, tôi còn viết một thiên văn chương đưa cho Ngài xem. Ngài trả lời thư của tôi và muốn tôi đến nhà Ngài gặp mặt nói chuyện. Sau khi nói chuyện xong, Ngài không để tôi đến trường học, Ngài nói với tôi trường học hiện tại và trường học của 40 mươi năm trước không giống nhau. Trường học hiện tại so với 40 mươi năm trước có sự biến hóa quá lớn, tiên sinh không giống tiên sinh, học trò không giống học trò. Ngài nói, chú muốn đến trường học để nghe giảng bài thì chú sẽ thất vọng lớn. Ngài nói câu nói này như là gáo nước lạnh xối lên đầu, không còn hy vọng, khi tôi nghe rồi trong lòng rất là khổ sở. Đến sau cùng Ngài rất từ bi, Ngài nói: “Như vầy thì tốt hơn, chú chủ nhật mỗi tuần đến nhà tôi đây, tôi sẽ dạy chú học hai giờ đồng hồ’. Cho nên tôi học triết học là ở bàn tròn nhỏ trong phòng khách nhỏ của nhà thầy, một thầy giáo một học sinh, như vậy mà truyền dạy. Lúc đó tôi không hiểu, về sau học Phật rồi mới biết đây gọi là sư thừa. Vì sao Ngài không cho tôi đến trường học để dự thính vậy? Ngài muốn ngăn chặn ô nhiễm, việc này hiện tại gọi là hoàn bảo. Tôi đến trường học nhất định sẽ quen biết rất nhiều thầy giáo, nhất định sẽ quen biết rất nhiều bạn học, khi vừa tiếp xúc thì sẽ thường nói chuyện, trong lòng liền bị ô nhiễm, cho nên ông muốn đơn độc dạy, chỉ nghe một mình ông. Hay nói cách khác, ngoài một mình ông ra, bất cứ người nào tôi cũng không có cơ hội tiếp xúc, xem sách thì chỉ có một mình ông chỉ đạo, đó là sự thương yêu của ông đối với học sinh, chân thật được lợi ích. Nghe hai vị thầy bạn liền sẽ khởi vọng tưởng, hai vị thầy hai người giảng không giống nhau, rốt cuộc thì vị nào đúng, vị nào không đúng? Như vậy thì phiền não liền đến. Ba vị thầy là ngã ba đường, bốn vị thầy là ngã tư đường, bạn sẽ không biết theo ai, đến sau cùng nhất định không được thứ gì. Một vị thầy đi một con đường, đó chân thật là từ bi, cho nên tôi rất là biết ơn đối với thầy.

Học trò đối với thầy giáo phải tin theo một trăm phần trăm. Thế nên tôi từ chỗ Phương tiên sinh biết được chỗ tốt của Phật pháp, nhận biết Phật pháp rồi, tin tưởng Phật pháp rồi thì tôi nghiên cứu Phật Kinh. Xem như tôi có vận may rất tốt, chỉ xem Kinh Phật có một tháng thì có một người bạn giới thiệu cho tôi quen biết với Đại Sư Chương Gia. Đại Sư là một vị Đại đức của Mật Tông, chân thật có học vấn có đạo đức. Dáng vẻ của Đại Sư lúc đó khoảng sáu mươi mốt hoặc sáu mươi hai. Lúc đó tôi 26 tuổi. Cũng giống như Phương tiên sinh vậy, mỗi một tuần Đại Sư dạy cho tôi hai giờ đồng hồ, Đại Sư chỉ dạy tôi đọc Kinh. Khi có câu hỏi thì mỗi một tuần gặp mặt một lần, tôi nêu ra vấn đề và Đại Sư giải đáp cho tôi. Đại Sư dạy tôi một số yếu lĩnh tu học, nền tảng Phật học của tôi là do Đại Sư Chương Gia định đặt. Tôi theo Đại Sư ba năm, chỉ một thầy. Sau ba năm thì Đại Sư Chương Gia viên tịch, tôi lúc đó không còn cách gì nên lại đi tìm một thầy giáo. Lão cư sĩ Châu Kính Vũ giới thiệu tôi đến Đài Trung tìm Lão cư sĩ Lý Bỉnh Nam, tôi theo lão sư Lý mười năm. Lần đầu gặp mặt lão sư Lý liền hỏi tôi, chú về trước học tập với những ai? Học được những thứ gì? Tôi đơn thuần chỉ theo một người, lão sư Lý cũng rất là bội phục đối với Đại Sư Chương Gia, nhưng tuy là theo một mình Đại Sư cũng không được.

Lão sư Lý nêu ra các điều kiện với tôi:

Thứ nhất, nếu chú muốn theo tôi học thì tính từ hôm nay, chú chỉ có thể nghe một mình tôi giảng Kinh nói pháp, ngoài tôi giảng Kinh nói pháp ra, bất cứ Pháp sư, cư sĩ, Đại đức nào giảng Kinh đều không được nghe.

Thứ hai thì chú xem sách, không luận là xem sách gì, nếu không được sự đồng ý của tôi thì không được xem.

Điều thứ ba còn hà khắc hơn, những gì hồi trước chú học với Đại Sư Chương Gia tôi không thừa nhận, đều phủ định, chú phải ở nơi đây học lại từ đầu.

Tôi nghĩ vị lão sư này rất hà khắc, rất lợi hại, nhưng cuối cùng nghĩ lại vẫn là tiếp nhận điều kiện của Lão sư, làm học trò của Lão sư. Thế là Lão sư nói với tôi là tôi phải tuân thủ ba điều này trong thời gian là năm năm, hơn nữa Lão sư rất khách sáo mà nói với tôi: “Năng lực của tôi có thể dạy chú năm năm”. Đây chính là sư thừa. Bây giờ đến nơi nào để tìm một vị lão sư? Học sinh nào chịu tiếp nhận những điều kiện này? Tôi nếm được loại giáo dục này nên tôi tiếp nhận, Lão sư vừa đưa ra điều kiện thì tôi liền tiếp nhận. Sau khi tiếp nhận khoảng nửa năm thì chân thật được lợi ích, được điều hay, cho nên tôi mới giác ngộ ra là từ trước Phương tiên sinh, Đại Sư Chương Gia đối đãi với tôi đều rất chân thành từ bi, chăm sóc đến cùng, ngăn chặn tà tri tà kiến để tôi đi một con đường chánh lộ. Cho nên ở nơi lão sư Lý tôi đạt được kết quả, dưới hội của lão sư Lý tôi sâu sắc cảm nhận được sự lợi ích tốt đẹp từ loại giáo học này. Lão sư yêu cầu tôi tuân thủ năm năm, tôi tự mình gia hạn thêm năm năm nữa, tôi tuân thủ mười năm. Mười năm tuyệt đối không trái phạm quy củ của Lão sư. Sau mười năm thì đích xác là tương đối thuần thục, đặc biệt là ở trên giảng đài có thể biểu hiện ra được, muốn sao làm được vậy, tất cả đều trôi chảy. Trước kia giảng Kinh phải chuẩn bị rất kỹ, mười năm sau không hề chuẩn bị, không hề viết nháp. Cho nên hiện tại nếu có người mời tôi đi diễn giảng mà muốn tôi viết giảng cảo, tôi tuyệt đối không đi, tôi không có thói quen này, tôi không có giảng cảo. Hơn nữa tôi còn có thói quen gì? Nhất thời đưa ra đề mục, nhất thời giới hạn thời gian đưa ra đề mục, bảo tôi giảng hai giờ hay ba giờ đồng hồ, tôi nhất định sẽ không giảng kém đi một giây một phút, đến giờ thì tôi giảng xong. Khi trước giảng Kinh thì phải chuẩn bị, sau mười năm thì không còn, đây là được lợi từ sư thừa. Loại phương pháp giáo học cổ xưa này so với phương pháp giáo học của khoa học hiện đại cao minh hơn rất nhiều.

Thế nên tôi khuyên mọi người một môn thâm nhập, trước tiên tụng một bộ Kinh Vô Lượng Thọ ba ngàn lần. Dụng ý ở đâu vậy? Sau ba ngàn biến thì tâm của bạn định lại, tụng Kinh chính là trì giới, tụng đến tâm thanh tịnh thì tự nhiên khai trí tuệ, đến lúc đó bạn vừa nghe Kinh thì khai ngộ, thì liền hiểu. Nếu như tâm của bạn không thanh tịnh, vọng tưởng tạp niệm quá nhiều, dù chư Phật Bồ Tát đến giảng Kinh bạn cũng sẽ không khai ngộ, đạo lý ngay chỗ này. Còn có một vấn đề thường thức mà đồng tu học Phật cần thiết nên biết, đó chính là nghệ thuật giáo học của Phật pháp. Loại giáo học truyền thống như vầy chính là nghệ thuật. Thầy giáo tuyệt đối chịu trách nhiệm đối với học sinh, rất xem trọng đối với học sinh, dẫn dắt họ được định, dẫn dắt họ khai ngộ. Thầy giáo thì đích thực cao minh, có trí tuệ, có kỹ năng, họ chỉ ra cho bạn một con đường phá mê khai ngộ. Thế nhưng nếu như bạn không nghe lời, không tiếp nhận thì không còn cách gì. Cho nên bạn nhất định phải hợp tác, thầy giáo dạy như thế nào thì bạn học như thế đó, như vậy mới có thể thành công. Đây chính là nghệ thuật của giáo học. Ngoài việc này ra, có thể nói Phật ở vào trước 2500 năm trước, tất cả giáo học đều đạt đến nghệ thuật tối cao. Ví dụ như âm nhạc Phạm âm của nhà Phật (đáng tiếc là Phạm âm của nhà Phật đã bị thất truyền), âm nhạc Phạm âm của nhà Phật lúc đó không như hiện tại, hiện tại chúng ta nghe những thứ xướng niệm này, nếu bạn tỉ mỉ mà nghe thì sẽ thấy tạp loạn rối rắm. Chúng ta xem thấy ghi chép trong sách xưa, người thời xưa nghe được Phạm âm này tâm thanh tịnh, cho nên Phạm âm có thể tịnh hóa thân tâm, đó là âm nhạc, dùng thứ này để đạt đến Giới Định Huệ tam học.

Dùng mỹ thuật, điêu khắc, bạn xem tạo tượng của Phật pháp, tượng của Phật, tượng của Bồ Tát, tượng của A La Hán, tượng của Thiên thần là biểu pháp, là giáo học. Nhưng ngày nay chúng ta xem thành thần minh để cúng bái, bạn nói xem là có đáng lo ngại không? Đã sai đến mức độ nào? Chúng ta nêu ra một thí dụ rất phổ biến, thí dụ bạn bước vào một tự viện, tự viện chính là trường học của nhà Phật thuở trước, vì sao phải xây dựng hình thức cung điện? Bởi vì lão bá tánh thời xưa của Trung Quốc tôn kính nhất là Hoàng đế, nơi Đế Vương ở là cung điện, cho nên nơi mà Phật Bồ Tát giáo hóa chúng sanh cũng xây dựng hình thức cung điện, đạo lý là như vậy. Vì sao gọi là chùa? Chùa ở vào triều nhà Hán là tên gọi cơ cấu làm việc của chính phủ, hiện tại nó đã biến thành miếu rồi, ý nghĩa này là sai rồi. Chùa là cơ quan làm việc của chính phủ. Tự của Phật giáo chính là giáo dục của Phật Đà, công việc chủ yếu trong đó chính là truyền bá giáo dục của Phật Đà. Phật tự chính là một bộ phận giáo dục của Phật giáo.

Phật tự chính là một bộ phận giáo dục của Phật giáo. Sau đời hậu Hán thì Trung Quốc có hai loại giáo dục then chốt. Giáo dục của nhà Nho là quốc gia chọn lấy Khổng Tử làm chủ đạo, trong sáu bộ dưới Thủ Tướng có một bộ gọi là Lễ Bộ. Lễ Bộ là Bộ Giáo dục của quốc gia, còn Tự là do Hoàng Đế trực tiếp quản lý. Dưới Hoàng Đế có 9 Tự, Tự quan lớn gọi là Khanh, cửu Khanh. Sau khi Phật giáo đến Trung Quốc, lúc đó có Hồng Lô Tự tiếp đãi khách đến từ nước ngoài (Hồng Lô Tự tương đương với Bộ Ngoại giao ngày nay), về sau Trung Quốc chúng ta muốn để họ thường lưu lại Trung Quốc, không để cho họ đi, vậy thì phải là thế nào? Hồng Lô Tự không thể tiếp đãi dài lâu, nên liền xây dựng một Tự khác, thế là dưới Hoàng Đế liền biến thành mười Tự. Vậy thì Tự này tên gọi là gì? Lúc đó Ngựa trắng kéo Kinh Phật tượng Phật từ Tây vực đến Trung Quốc, bạn từ nơi đây có thể thấy được hậu đạo của lòng người Trung Quốc. Công lao của Ngựa trắng chúng ta không thể nào quên ân nó, nên Tự này liền được đặt tên là Bạch Mã Tự. Đây là Phật Tự thứ nhất của Trung Quốc.

Cho nên Tự là cơ cấu giáo dục của Phật giáo, không phải là Miếu Thần, cần phải hiểu điều này cho rõ ràng, hiểu cho thấu đáo. Vậy thì đại điện của Tự là lễ đường, cúng ngay ở giữa là tượng Phật, bạn xem tượng Phật chúng ta là một vị Phật hai vị Bồ Tát, vì sao không cúng hai vị Phật vậy? Không cúng thêm nhiều vị Bồ Tát hơn? Phải nhất định là một vị Phật hai vị Bồ Tát. Phật biểu thị cái ý như vậy? Phật đại biểu cho bản thể tự tánh, Phật đại biểu bản tánh chân tâm của chúng ta, hai vị Bồ Tát đại biểu hai loại đức năng lớn trong tự tánh của chúng ta là trí tuệ và từ bi. Bạn xem chúng ta thờ, nếu như nói thông thường thờ Thích Ca Mâu Ni Phật thì hai bên là Bồ Tát Văn Thù và Bồ Tát Phổ Hiền. Bồ Tát Văn Thù đại biểu trí tuệ, Bồ Tát Phổ Hiền đại biểu thực tiễn, một vị là giải, một vị là hành, tri hành hợp nhất. Thờ hai Ngài là biểu thị cái ý này. Tây Phương Tam Thánh, ngay giữa là Phật A Di Đà đại biểu bản thể tự tánh, Quán Âm Bồ Tát đại biểu từ bi, Bồ Tát Đại Thế Chí đại biểu trí tuệ, vô lượng vô biên trí tuệ đức năng, hai vị Bồ Tát thì đã đại biểu đầy đủ rồi, không cần phải ba vị. Việc này phải biết không phải là thần minh, các Ngài là giáo học, các Ngài để bạn nhìn thấy tượng Phật thì liền biết là các Ngài dạy bạn việc gì.

Thích Ca Mâu Ni Phật tên gọi này chính là giáo học của Phật giáo, chính là phương châm giáo học của giai đoạn này. Bởi vì người thế gian chúng ta khiếm khuyết lòng từ bi, tự tư tự lợi, cho nên phương châm giáo học của Phật giáo là nhân từ, Thích Ca có nghĩa là nhân từ. Thứ hai là tất cả chúng sanh tâm không thanh tịnh, một ngày từ sớm đến tối nghĩ tưởng lung tung, tham sân si mạn, cho nên trong danh hiệu Phật có chữ Mâu Ni, Mâu Ni có nghĩa là tâm thanh tịnh. Có thể thấy được Phật Bồ Tát làm gì có danh hiệu, danh hiệu chỉ là phương châm giáo học của giai đoạn hiện tại, bất cứ người nào ở nơi đây thành Phật, danh hiệu của họ đều phải gọi là Thích Ca Mâu Ni Phật. Đây là dựa vào tâm bệnh của chúng sanh chúng ta, tuỳ bệnh mà cho thuốc. Mỗi một vị Bồ Tát, mỗi một vị Phật đều đại biểu nghĩa thú thâm sâu của giáo học, nếu sau khi bạn hiểu rồi thì vừa nhìn thấy là được rồi, không cần phải nói chuyện. Giáo học này của Phật pháp bạn sẽ đạt được viên mãn tròn đầy.

Chúng ta nêu ra một thí dụ rất rõ ràng, thông thường chúng ta bước vào một Tự Viện, trong sơn môn thứ nhất là xây điện Thiên Vương, Tứ Đại Thiên Vương. Tứ Đại Thiên Vương gọi là Thần Hộ Pháp, hộ pháp cho ai vậy? Hộ chính mình, các Ngài dạy chúng ta làm thế nào giữ gìn chính mình. Đông Phương Trì Quốc Thiên Vương Ngài đại biểu cho việc tận hết trách nhiệm. Con người chúng ta ở xã hội này, không luận bạn ở một cương vị nào, bạn phải tận hết bổn phận của mình, dốc hết chức trách của bạn thì đúng. Người người đều có thể tận hết trách nhiệm, tận hết chức vụ, thì xã hội làm sao mà không phồn vinh, không hưng vượng chứ? Cho nên chúng ta phải biết cái đạo lý này, Ngài đại biểu cho việc gánh vác trách nhiệm. Nam Phương Tăng Trưởng Thiên Vương đại biểu cho tiến bộ, ngày mới càng mới, không ngừng cầu tiến bộ. Không thể nói việc này tôi làm tốt rồi thì hết việc, không được vậy, mà vẫn phải cầu phát triển, vẫn phải cầu tiến bộ. Vị thứ ba là Quảng Mục Thiên Vương, vị thứ tư là Đa Văn Thiên Vương. Bạn xem qua cái danh tự này thì liền biết được, Quảng Mục nghe nhiều thấy nhiều, đọc ngàn quyển sách đi vạn dặm đường, bạn phải có thể đem công việc của chính mình làm cho được tốt, phải nghĩ bạn chính mình ngày ngày đang tiến bộ, thấy nhiều nghe nhiều, Ngài biểu thị cái ý này. Cho nên nếu bạn hiểu rồi, thì bạn sẽ cảm thấy càng thú vị.

Trên tay các Ngài đều có cầm đạo cụ, mỗi đạo cụ đều có ý nghĩa. Bạn xem Trì Quốc Thiên Vương bảo bạn gánh vác trách nhiệm, thì trên tay Ngài cầm cây đàn Tỳ Bà. Tỳ Bà đại biểu cái gì? Điều tiết âm nhạc, đại biểu tất cả đều phải thích hợp, bạn xem dây đàn không thể quá căng vì căng thì sẽ đứt, cũng không thể quá lỏng vì sẽ kêu không thanh, cho nên phải điều chỉnh thích hợp. Điều này chính là dạy bạn đối nhân xử thế tiếp vật phải chú trọng trung đạo, không được thái quá cũng không được bất cập, Ngài biểu thị cái ý này. Nam Phương Tăng Trưởng biểu thị tiến bộ, thì trên tay cầm thanh kiếm, bảo kiếm trí tuệ. Bạn không có trí tuệ thì bạn không thể tiến bộ. Nếu bạn muốn tiến bộ thì trước tiên phải có trí tuệ, do đó kiếm là đại biểu trí tuệ. Phương Tây Quảng Mục Thiên Vương bảo bạn phải xem nhiều, thì trên tay Ngài cầm một con rồng hoặc là một con rắn. Chỗ này đại biểu cho cái gì? Rồng rắn đều là biến hóa, đại biểu sự biến hóa phức tạp, trong xã hội này tất cả người tất cả việc đều biến hóa vô chừng. Nếu bạn tỉ mỉ mà quan sát, thì sẽ thấy tay kia Ngài cầm một hạt châu, biểu thị trong biến hóa có bất biến. Những nguyên lý nguyên tắc này, bạn phải nắm vững nó thì bạn mới có thể khống chế được rồng rắn này. Phương Bắc Đa Văn Thiên Vương thì cầm một cây dù, cây dù là để ngăn chặn ô nhiễm. Ở trong xã hội phức tạp, phải giữ gìn thân tâm mình thanh tịnh, không nên bị ô nhiễm.

Hiện tại mọi người đều xem các Ngài là thần minh để cúng bái, bạn nói xem có oan uổng hay không? Có mấy người hiểu được đạo lý này? Ngay giữa đại điện là thờ Bồ Tát Di Lặc. Bồ Tát Di Lặc mặt cười hoan hỷ, cái bụng thật to. Ngài đại biểu cái gì vậy? Đại biểu tâm hoan hỷ, nhìn thấy bất cứ người nào trên mặt phải thường nở nụ cười, cái bụng to biểu thị có thể bao dung. “Sanh tâm bình đẳng, thành tướng vui vẻ”, một đệ tử Phật đối nhân xử thế tiếp xúc mọi vật phải có thể bao dung, phải sanh tâm hoan hỉ đối với tất cả chúng sanh, bạn xem cái kiến trúc thứ nhất chính là một bài giảng.