Home > Khai Thị Phật Học > Phong-Sinh--Dieu-Phai-Biet
Phóng Sinh Điều Phải Biết
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ


Đức Phật dạy "duy tuệ thị nghiệp" chỉ duy có trí tuệ là sự nghiệp. Trí tuệ là sự hiểu biết rõ về bản chất thật của mọi pháp, bất luận là pháp thiện hay ác, do vậy không bao giờ có sai lầm trong sự tu thiện đoạn ác, điều này nêu rõ tính thanh tịnh của trí tuệ. Tính thanh tịnh này cụ thể hóa qua các hành động cứu độ chúng sinh được gọi là từ bi, và mọi hành động của Bồ tát đều nhằm vào cứu khổ, nên tất cả sự hành của Bồ tát đều là từ bi, từ bi là nhất cử nhất động của Bồ tát, nên là ngàn tay của Bồ tát. Và phóng sinh là một cánh tay trong ngàn tay thực hiện pháp cứu, dĩ nhiên Bồ tát không hành pháp cứu từ bi này để cầu an cầu lợi cho bản thân mà vì để cứu khổ ban vui, lợi lạc chúng sinh. Phàm phu do vô huệ nên không hề hiểu và hành pháp từ bi, làm mọi thiện đều vì lợi thân, vì vậy một đời hành thiện vẫn không được công đức vô lậu mà chỉ có chút phúc báo hữu lậu, cứ nhìn xem Bồ tát phóng sinh công đức vô lượng, phàm phu phóng sinh phúc như đom đóm so với công đức cứu sinh của Bồ tát như mặt trời chiếu soi, sở dĩ khác biệt như vậy do Bồ tát phóng sinh vì từ bi, phàm phu hành vì tính toán cho bản thân, Bồ tát vì cứu khổ cho muôn loài, phàm phu chỉ lo cho một thân mình, bảo sao công đức có được lại khác nhau đến cả một trời vực. Đa phần tín đồ bao quát tục gia lẫn xuất gia không nỗ lực tu bi học huệ, chỉ lo tu sao cho lợi thân, học cách hiểu biết thị hiếu của mọi người hầu kết phe đảng, đó là hiện tượng của thời mạt pháp.

Mục đích chân chính của người học Phật là trí huệ sự hiểu biết chân thật; và sự tu tập đúng pháp là hành từ bi, nói chung là học huệ tu bi. Vì lẽ này chúng ta học trí huệ Phật trong pháp cứu và hành pháp từ bi này đúng với đại bi tâm của chư Phật. Đây là những điều bó buộc phải biết và phải làm mới là đệ tử chân chính của chư Phật.

Phật pháp không chỉ dùng phóng sinh làm phương tiện cứu khổ ban vui như mọi người thường nghĩ, đó chỉ đơn thuần là chuyện làm phúc, nhưng hơn thế nữa pháp cứu này còn là phương tiện thiện xảo độ sinh khi dùng pháp này gieo duyên với Bồ tát đạo cho muôn loài, do nhờ vào duyên này mà súc loại mới thoát khỏi kiếp súc sinh trở về kiếp người, vì thế phóng sinh không chỉ là chuyện làm phúc để cầu phúc mà là chuyện cứu độ giải thoát để thành tựu công đức vô lậu, đây là pháp phóng sinh cứu độ của Phật pháp, mà người tu Bồ tát đạo thường hành, dĩ nhiên người không phát tâm bồ đề là người không tu học Bồ tát đạo sẽ không sao thông hiểu điều này nên vẫn hòa theo quan niệm thế tục coi phóng sinh chỉ là sự cầu phúc cho bản thân khi đang phải đối diện với vấn đề khổ nạn, trái hẳn với tinh thần cứu khổ nạn của đại bi tâm mà đệ tử Phật cần tu trì trong sự nghiệp giải thoát cho ta và người. Những thứ hiểu biết và phóng sinh theo thế tục ấy bị đức Phật quở "đó khác gì sự mua bán đổi chác ở chốn chợ búa" (kinh Ưu Bà Tắc giới).

Bồ tát sở dĩ tôn quý hơn chúng sinh vì mọi nghĩ suy hay hành động đều đem đến sự diệt khổ ban vui cho muôn loài, kết thành công đức vô lậu giải thoát cho ngài và hữu tình, như kinh Hoa Nghiêm dạy "bất vị tự thân cầu khoái lạc, đản nguyện cứu độ chư chúng sinh", không cầu hưởng lạc nơi bản thân mà chỉ mong cứu giúp chúng sinh, trái lại phàm phu thấp hèn vì mọi suy nghĩ và hành động đều chỉ vì lợi ích riêng tư, kết thành nghiệp hữu lậu đẩy họ và muôn loài vào chốn khổ đau. Do vậy mà kinh Địa Tạng mới nói "mọi suy nghĩ hành động của chúng sinh đều là nghiệp tội cả".

Ta có thể nhận ra có hai pháp phóng sinh, một của Bồ tát đạo thuộc đại thừa Phật giáo là hành động vì cứu khổ nạn cho hữu tình, đây thuộc pháp vô vi có công đức vô lậu của Bồ tát đạo, tạm gọi là chính hành phóng sinh. Hai là của thế tục được thực hiện do muốn giải nạn hay cầu lợi cho bản thân, đó là pháp hữu vi với phúc báo hữu lậu của phàm nhân, tạm gọi là tạp hành phóng sinh. Pháp phóng sinh của Bồ tát đạo được chư Phật xưng tán, pháp phóng sinh của thế tục bị Phật quở là thứ đổi chác ở chợ.

Bồ tát và phàm phu.

Để phân biệt giữa Bồ tát và phàm phu cần nhận ra những điểm chính sau:

Bồ tát coi trọng tâm thanh tịnh, lấy tâm này làm trọng điểm tu hành, mọi hành động cao thượng, cứu khổ ban vui đều hướng đến sự tăng trưởng tâm thanh tịnh. Chúng sinh trọng sắc thân, dùng tâm là công cụ phục vụ cho thân nên mọi suy nghĩ hành động đều hướng đến lợi bản thân tạo thành sự đấu đá tranh đoạt của cải, danh vọng, quyền lực, sắc đẹp; thân càng tham muốn tâm càng nhầy nhụa trong cảnh uế.

Do tâm thanh tịnh Bồ tát hành mọi sự thanh tịnh, sự lý thanh tịnh, thân tâm thanh tịnh sẽ mở ra cõi giải thoát thanh tịnh an lạc cho Bồ tát và chúng sinh. Phàm phu do tâm ô nhiễm, hành động ô uế, lý sự nhiễm ô, thân tâm ô nhiễm sẽ mở ra thế giới cấu nhiễm đầy tham sân bất ổn cho nhau.

Tâm là đấng sáng tạo mọi cảnh giới và muôn loài, từ khổ đau đến an lạc không gì nằm ngoài tâm. Bồ tát là bậc có tâm thanh tịnh nên sáng tạo ra chính báo là thân tâm thanh tịnh và y báo là cõi tịnh độ. Chúng sinh là hàng có tâm ô nhiễm nên sáng tạo ra chính báo là thân tâm hữu lậu bất tịnh và y báo là cảnh giới hữu lậu bất an.

Bồ tát là bậc phát tâm bồ đề thanh tịnh, chúng sinh là hàng từ chối phát tâm cho đến không biết phát tâm là gì, thế nên phàm phu chấp nhận phụng sự cho tâm ý bất tịnh, hành mọi pháp nhiễm theo ý muốn của tâm nhiễm ô.

Bồ tát tích lũy công đức, nên tâm thanh tịnh, trải qua nhiều đời công đức càng tăng trưởng, chúng sinh nhờ vậy càng được cứu giúp. Chúng sinh tích lũy của cải dục lạc, làm tâm ô nhiễm, trải qua bao đời của cải và dục lạc đã không tăng thì chớ, mà còn dễ dàng mất sạch, chỉ có ô nhiễm nơi tâm tăng trưởng theo thời gian, và tiếp nối qua nhiều đời. Do ác nghiệp phàm phu hay nghi ngờ thiện pháp nhưng nhẹ dạ thậm chí cuồng tín với điều ác.

Bồ tát do tích lũy công đức trong quá khứ nên có căn tính thanh tịnh, chỉ cần được khai mở là ngộ nhập thanh tịnh pháp, phát tâm bồ đề tu Bồ tát đạo nhiêu ích hữu tình. Chúng sinh góp chứa tham si trong quá khứ nên căn tính bất tịnh, khế hợp với các nhiễm pháp tham dục, chỉ cần nghe có lợi là lao vào bất kể thiện hay ác, căn tính này luôn từ chối phát tâm và tẩy chay Bồ tát đạo.

Bao giờ mùa hè tuyết rơi, rùa mọc lông, thỏ mọc sừng vẫn không thể có việc Bồ tát cầu chúng sinh cứu giúp. Nhưng chúng sinh coi chuyện cầu cứu Bồ tát là chuyện thường tình như trẻ thơ cầu cha mẹ. Người xuất gia nếu cả ngày chỉ biết cầu xin thì đó chỉ là phàm tăng như mọi phàm phu, lẽ ra họ phải nhận ra giá trị cao quý của Bồ tát đạo và họ may mắn là những người được hành trì, nên phải nỗ lực làm chỗ dựa cho chúng sinh, thế nhưng thật đáng tiếc họ như gã mù trong kho báu, vẫn sống nhờ trong pháp bảo nuôi dưỡng thế gian.

Đệ tử Phật phải học theo chư Phật từ phát tâm cho đến lập nguyện độ sinh, đó là chuyện của người xuất gia. Chuyện cầu nguyện Bồ tát cứu giúp không phải là chuyện của người xuất gia, mà là chuyện tạm chấp nhận cho người tại gia.

Phóng sinh theo Bồ tát đạo.

Bồ tát lấy từ bi làm bản nên mỗi niệm mỗi hành đều phát sinh công đức do vì lợi ích cho hữu tình, sự tu tập tâm đại bi được gọi là Bồ tát đạo. Sở dĩ đồ chúng phụng thờ lễ bái Bồ tát cũng do đại bi tâm nơi ngài cứu mọi khổ nạn cho muôn loài mà không quản mọi thiệt hại cho bản thân, như vậy lẽ ra đồ chúng phải giác ngộ Phật pháp tôn quý nhờ vào Bồ tát đạo, và chúng ta quy y không phải chỉ đổi thờ Phật lấy dục lạc mà quy y để được giải thoát, để kẻ cùng tử lâu nay chỉ biết xin xỏ cho bản thân trở thành vị trưởng giả không còn cần đến bất cứ thứ gì ngoài sự cứu khổ chúng sinh, lợi lạc hữu tình. Tài sản, danh thanh, sắc đẹp nào an toàn hạnh phúc lâu dài hơn được sự giải thoát này.

Bồ tát tu tập tăng trưởng tâm từ bi lấy pháp cứu làm phương tiện thiện xảo, càng cứu tâm bi càng kiên cố, công đức càng tăng thượng, thế nên Bồ tát coi chúng sinh là ân điền, bởi nhờ cứu khổ hữu tình mà thành tựu Bồ tát đạo, và chúng sinh cũng nhờ vậy mà kết nhân duyên với Bồ tát đạo vì đã hỗ trợ cho Bồ tát thành tựu đại bi tâm, điều này đồng nghĩa với họ đã cúng dường vị Phật tương lai, nên đây là nhân duyên đắc độ của họ trong lai thế. Vì vậy để báo ân chúng sinh, Bồ tát phóng sinh và bố thí vừa để cứu chúng thoát khổ ngay hiện tại vừa để tạo nhân duyên độ chúng trong đời sau. Loài vật nhờ vào sự phóng sinh của Bồ tát mà có được nhân duyên hộ pháp cho hành giả tu Bồ tát đạo, nên sau khi xả báo thân mối nhân duyên ấy sẽ đưa chúng tái sinh về cõi nhân thiên, tiếp tục thân cận với Bồ tát đạo, như vậy dựa vào pháp phóng sinh của Bồ tát đạo sẽ giúp loài vật được giải thoát khỏi kiếp súc loại mà nếu không nhờ vào sự phóng sinh đó thì đến muôn đời chúng vẫn không có ngày ra khỏi. Hơn thế nữa sau khi tái sinh thân người còn là bạn lữ đồng hành của người tu Bồ tát đạo, những lương duyên này ngay đến tín đồ cũng không dễ gì có được, bằng chứng phần đông đồ chúng chẳng hay chẳng biết gì về Bồ tát đạo, đi chùa cũng đi, học đạo cũng học, thờ kính Bồ tát nhưng đáng tiếc vì thiếu lương duyên nên Bồ tát đạo vẫn nằm ngoài suy nghĩ và hành động của biết bao đồ chúng. Đây là điều tu học Phật phải biết và phải hành.

Phóng sinh theo thế tục.

Bản chất của thế tục là lợi kỷ, nên phàm có lợi cho bản thân thì thiện ác nào cũng làm, ngay cả khi làm thiện cũng chẳng vì lợi ích cho đối tượng mà hoàn toàn cân nhắc xem có lợi mình không mới hành. Mọi thứ thiện pháp như bố thí, phóng sinh cho đến cúng dường tam bảo nhất nhất đều vì cầu lợi, nên luôn kèm theo sự khấn vái kể lể xin xỏ.

Phàm phu phóng sinh vì cầu phúc cho bản thân, nên biến pháp cứu này thành pháp cầu, biến sự cao thượng vì chúng sinh thành sự thấp hèn vì mình, khiến công đức vô lậu hóa thành phúc báo hữu lậu; khi tham dục tăng trưởng sẽ làm ô nhiễm sự thanh tịnh, tất cả mọi điều tệ hại phá hủy pháp thanh tịnh giải thoát này đều do kẻ phóng sinh là một phàm phu mang nặng tâm vị kỷ, nên kinh Hoa nghiêm cảnh cáo "ly bồ đề tâm nhất thiết sở tác giai thành ma nghiệp", lìa tâm bồ đề mọi việc làm đều thành nghiệp của ma. Đây là điều người hành phóng sinh cần biết trước nhất và quan trọng nhất mà không hề là những chuyện bên lề như có nên đặt cá để phóng sinh không, hay nếu cá bị bắt lại thì sao?

Do nặng tâm tham si, mọi pháp tu đều được phàm phu chọn lựa kỹ thứ nào có lợi cho mình, thay vì chọn lựa các pháp nhiêu ích hữu tình như các tiền thân đức Phật và các vị Bồ tát thường tu hành. Người học đạo ngày nay chủ trương thân cận đêm ngày thờ Phật lễ bái cúng dường cầu nguyện cho bản thân, còn chuyện chúng sinh đầy phiền não không phải là chuyện của ta, bỏ nó đi để khỏi lây phiền, những người này thiểu trí không hiểu bản hoài của Phật pháp là độ sinh, đạo Phật lấy lợi ích chúng sinh làm lợi ích chính mình. Đức Phật từng nói với bà Kiều đàm di "Như lai tri ân chúng sinh, nếu không có chúng sinh thì ta không thể thành Phật, để báo ân Như lai thệ độ nhất thiết chúng sinh". Các tiền thân của đức Phật khi tu Bồ tát đạo trong mỗi niệm đều đương nguyện chúng sinh, nên mọi hành động đều lợi lạc hữu tình, nay người tu vô trí hiểu biết ngược với chư Phật, bỏ qua sự nghiệp độ sinh cao thượng, quả là ngoại đạo trong nhà Như lai.

Những kẻ ngoại đạo vô huệ ấy không hiểu ý chỉ của chư Phật nên trong tư duy chỉ có đạo đức thế tục mà thiếu vắng bi trí, họ nào có nhận ra lợi ích to lớn nơi pháp phóng sinh của Bồ tát, nên đem cái khối óc thế tục nghĩ suy và dạy nhau những thứ chướng ngại do tư duy vụng về thiểu trí tự tạo ra, họ vẽ ra các vấn đề trong phóng sinh, như pháp này chỉ là phúc báo nhân thiên, là tạp hành đối với người tu tịnh độ, và rồi phóng sinh sao bằng bố thí, bố thí sao bằng cúng dường, họ nào hiểu trên hiện tượng thì ba thứ trên khác nhau nhưng nơi bản là tâm hành thiện thì đồng vì đều là thiện tâm. Hơn nữa do họ hành thiện trên phương diện thế tục lợi kỷ nên phân biệt phóng sinh phúc không bằng bố thí, và bố thí phúc không bằng cúng dường, đành rằng trên mặt phúc hữu lậu có khác biệt, nhưng khi hành thiện theo Bồ tát đạo không bận tâm đến phúc hữu lậu của bản thân mà chỉ nỗ lực tăng trưởng tâm đại bi, vì vậy Bồ tát hành ba pháp đó bình đẳng và pháp nào cũng đạt được công đức như nhau, đó là tăng trưởng đại bi tâm, kẻ vô trí chỉ chọn tu cúng dường vì lợi nên càng tu càng tăng trưởng tâm lợi kỷ và chỉ gặt hái được thiểu phúc hữu lậu, Bồ tát hành cả ba nên tăng trưởng từ bi và công đức vô lậu. Bồ tát phóng sinh bố thí khiến chúng diệt khổ được vui đó là phụng sự chúng sinh, cúng dường tam bảo là phụng sự chư Phật, trên phụng Phật, dưới sự chúng sinh, mọi sự hành của Bồ tát đều khiến chư Phật cùng nhất thiết chúng sinh được hoan hỷ. Bồ tát do tu tâm đại bi nên hành nhất thiết thiện, hoàn thành được đại công đức trên. Bồ tát dùng sắc thân hữu lậu làm công cụ tu tập tăng trưởng pháp công đức vô lậu mà không cầu phúc hữu lậu, hạng vô trí lấy pháp vô lậu làm công cụ cầu phúc cho sắc thân hữu lậu nên đánh mất tâm đại bi khiến pháp vô lậu trở thành hữu lậu, vì thế tuy tu hành một đời nhưng vẫn không có khả năng lợi sinh, chung cục chỉ là gã ngoại đạo trong nhà Như lai, những kẻ này không thể thấy được Phật. Đây là điều muốn tu học chính pháp phải biết, Bồ tát tu tập để tăng trưởng pháp (thân), phàm phu tu hành cầu thân tâm được hưởng lạc.

Lợi ích của phóng sinh.

Đã biết rõ về hai pháp phóng sinh thì chớ làm mất công đức vô lậu của phóng sinh vì lo cầu phúc hữu lậu, mọi phúc của sắc thân đều hữu lậu nên sẽ cùng tận, vì sắc thân vốn cũng hữu lậu, tất nhiên phúc của thân hữu lậu hẳn cũng hữu lậu, vì thế đừng bao giờ cầu cho thân tâm hữu lậu mà hãy nguyện cho pháp vô lậu cứu khổ cứu nạn, lợi lạc hữu tình này càng kiên cố bất thối, và luôn tăng trưởng, nên công đức của pháp vô lậu cũng vô lậu không cùng tận, do vậy phóng sinh mới thực sự là pháp vô vi thành tựu công đức vô lậu giải thoát cho ta và chúng sinh.

Mỗi lần phóng sinh là một phen tăng trưởng tâm đại bi, khiến hữu tình an vui, càng phóng sinh, chúng sinh càng ân triêm, công đức càng thù thắng. Đừng quên sắc thân sẽ phải vứt bỏ dưới ba thước đất cho giòi bọ nhậu nhẹt, chỉ có tâm đồng hành với ta qua đời sau, vì vậy hãy chọn lựa tâm, nếu tâm ác nó dẫn ta đến cảnh giới bất ổn khổ đau thậm chí là địa ngục, nhưng nếu là tâm thiện thì sẽ đưa ta đến cảnh giới an lạc hay cõi trời và nếu là tâm cứu nó sẽ dẫn ta tới cõi Phật. Do người trí huệ nhận ra bản chất của khổ lạc nên càng chuyên hành cứu pháp thì càng an lạc. Người ngu để tâm bê bết bần cùng thiện pháp chỉ mải lo tiền tài lợi dưỡng cho sắc thân, để rồi cuối cùng bỏ lại khối tài sản cứ ngỡ là của mình, ra đi cùng tâm bạc phúc nghèo nàn mà cả đời vẫy vùng cố thoát khỏi, đến cõi điêu linh bần hàn chờ sẵn trong tương lai, còn cái thân một đời chau chuốt nọ giờ làm bạn với giòi bọ, rữa thối.

Phóng sinh là pháp tu cứu khổ của Bồ tát, đừng biến nó thành pháp đổi chác cầu lợi của phàm phu. Khi nói pháp cứu mặc nhiên phải hiểu thực hiện vì sự an lạc của chúng sinh, cớ sao lại lợi dụng pháp cứu để tính toán cho tự kỷ. Do hiểu và hành phóng sinh theo pháp đổi chác của thế tục mà không chỉ hàng tại gia làm hỏng pháp cứu mà ngay đến nhiều người xuất gia kẻ thì dạy tín đồ hành pháp đổi chác, người thì bài bác và đe tín đồ pháp cứu chỉ mang lại phúc báo nhân thiên cản trở giải thoát nên pháp ấy không phải là chuyện cho người cầu pháp giải thoát tu tập. Ôi! Mỉa mai làm sao những kẻ này một mặt lạy lục Bồ tát cứu khổ nạn, mặt khác lại đả kích và dạy bảo đồ chúng rằng pháp cứu không phải chuyện của chúng ta mà đó là chuyện của Bồ tát, còn chuyện của ta là chuyên tâm lo cầu xin Bồ tát.

Dù thờ Phật đi nữa nhưng do tâm vị kỷ không thích cứu giúp tạo phúc thì đời sau cũng chỉ làm ăn mày ngồi trước cổng chùa niệm Phật cầu xin cơm áo và bạc lẻ. Những kẻ hành thiện cầu phúc cho dù không thờ Phật đi nữa tương lai cũng sẽ là đại gia ở dinh thự, nhưng sống mê muội theo mấy cục đá phong thủy, lệ thuộc vào ngày giờ, phương hướng tốt xấu, không tự tại đi đứng hành động, để rồi khi lìa đời dù có chuẩn bị hướng và ngày giờ sẵn đi nữa, nhưng tử thần vẫn quyết định và hướng nào của gã cũng chỉ đến mộ huyệt, ngủ giấc thiên thu trong lòng đất giữa đống giòi bọ, bỏ lại của cải người thân và dinh thự có thanh long bạch hổ trấn giữ, nhưng long hổ này chỉ biết trố mắt nhìn tử thần đến và chúc chủ nhân đời sau được may mắn. Ngày giờ phương hướng nào có nghĩa gì với thần chết. Khi người mẹ sinh con không hề chọn ngày giờ hay phương hướng, mỗi đứa trẻ đều mang theo sẵn nghiệp quá khứ để thọ báo, nên đứa thọ phúc, kẻ thọ khổ, chúng nào có mang ngày với hướng theo đâu và cũng đừng đổ thừa tại người mẹ sinh không chịu xem ngày, nằm không xem hướng. Muốn ba đời đều tốt lành hãy dựa vào tịnh pháp thay vì phong thủy hay thiết tha cầu trời khấn Phật.

Muốn hạnh phúc và an lạc vĩnh viễn thì bó buộc phải vĩnh viễn đồng hành với thiện pháp, mà không do ngày hay hướng nào giữ được hạnh phúc vĩnh cửu, xem ngày và hướng tốt để đi khủng bố thì mọi hướng đều đến địa ngục, và ngày tốt nào cũng là thảm họa, trái lại nếu phải đi vào ngày và hướng xấu để cứu người thì hướng nào cũng là hướng đến cao thượng và ngày ấy là ngày tốt đem lại nhiều hạnh phúc. Tốt nhất hãy phụng thờ chân thân Phật tức bản chất thanh tịnh trí huệ thường lợi lạc hữu tình, nhờ thế mà đời đời công đức tăng trưởng, bi trí lợi sinh, người này khiến mọi phong thủy hóa tốt, cảnh khổ thành cõi trời, địa ngục hóa tịnh độ. Nhìn xem chả phải Bồ tát thường nhắm hướng địa ngục, hướng khổ não tìm đến, Bồ tát xuất hiện nơi nào nơi ấy được an vui, ma quỷ giặc cướp vào chùa, chùa trở thành hang ổ của yêu tinh, thế mới biết chẳng có hướng và ngày giờ nào tốt hay xấu mà do tâm thiện hay ác. Bồ tát với tâm bi trí không hề bận tâm với phương hướng và ngày tốt xấu, ăn mày ngày nào cũng là ngày xấu vì đói, đại gia ngày nào cũng tốt vì tiền của trôi đến mỗi ngày. Vậy mà đại gia vẫn mê tín vào ngày lành hướng tốt thực là khôi hài, ăn mày quá đói nên đánh liều đi xin bất kể ngày hay hướng gì nên vẫn no qua ngày.

Ngẫm xem cầu cúng quỷ thần, dựa vào phong thủy, ngày giờ phương hướng, những thứ này giả như có đem lại phúc lợi thì cũng chỉ là thứ hữu lậu, khi được khi mất, và chết là mất sạch. Nương vào quỷ thần, phong thủy để riêng mình được hưởng phúc hữu lậu chẳng bằng dựa vào pháp cứu của chính mình giúp cho ta và muôn loài được cộng hưởng an vui, pháp cứu và công đức này sẽ cùng ta đồng hành tới tận vị lai, đến đời nào, đời ấy ta và chúng sinh đồng hưởng an lạc giải thoát, nên nói công đức phóng sinh là vô lậu vượt trội các phúc báo hữu lậu mà chúng sinh trăm phương ngàn kế cầu tìm. Liên tông thập tổ Hành Sách đại sư nói "trong muôn hạnh lành, hạnh phóng sinh là hơn cả".

Chuyện mua cá phóng sinh.

Có lý luận nghe qua thấy rất đạo đức và hợp lý được nhiều người nghe theo, đó là không nên đặt số lượng cá để phóng sinh, với lý do ngư dân sẽ đi bắt về cho người phóng sinh, như vậy là gián tiếp xui người đánh bắt cá. Chúng ta hãy cứu xét điều này kỹ lưỡng như sau:

Trước hết ngư dân mỗi ngày đều đánh bắt cá để mưu sinh, họ đánh được càng nhiều càng tốt vì luôn có người tiêu thụ từ nhà đến tiệm ăn và cả đến các công ty chế biến thực phẩm, ngư dân sống nhờ vào sự tiêu thụ sát sinh mà không nhờ vào sự phóng sinh, số lượng phóng sinh chỉ là 1 trên cả chục triệu, có bao nhiêu người phóng sinh trong một tháng và phóng được bao nhiêu kí? So với mỗi ngày số cá bị giết ăn nhiều gấp vài chục năm số được phóng sinh gộp lại, ngư dân đánh bắt nhắm vào con số để ăn, còn chờ người phóng sinh mới đi bắt có mà chết đói mục xương lâu rồi.

Nay lại chủ trương thấy thì cứu, mà chẳng biết bao giờ thì thấy, và thấy thì có mua hết chợ để phóng sinh không? Hay khi thấy đôi ba con thì ra tay phóng, như thế sẽ nâng tỷ lệ cá phóng sinh so với cá bị giết là 1 trên vài tỷ, giúp cho tiệm ăn và mọi người sẽ tha hồ ăn cá, may ra có con cá nào dư ra mới được cứu. Chuyện này hy hữu bởi không ai rảnh rang mỗi ngày đều vào chợ cá chực chờ coi còn sót con nào để thả không.

Phật giáo đồ có thói quen phóng sinh vào các dịp lễ và ngày rằm, vì sao ngư dân không đánh bắt nhiều hơn vào ngày rằm mà để tình trạng người mua thả và kẻ mua ăn tranh nhau? Họ muốn lắm chứ nhưng làm hết công suất rồi, còn chuyện ai mua làm gì ngư dân không bận tâm. Và đừng quên ngày nào họ cũng cật lực đánh bắt không phân biệt số này để phóng sinh và số kia để ăn, cho dù không ai đặt ăn hay phóng sinh họ vẫn đánh bắt, vì họ biết khách mua ăn không bao giờ cạn, còn khách phóng sinh thì năm thì mười họa mới xuất hiện, nên họ bắt cá vì người ăn mà không hề vì người phóng sinh, phải hiểu rằng với người bán cá con số thu hoạch từ tiền bán cho người phóng sinh chỉ tạm ổn qua ngày, còn đối với ngư dân thì con số này không đủ để trang trải phí tổn cho một chuyến đánh bắt nói gì đến duy trì đời sống cho gia đình họ dù chỉ trong một ngày. Như vậy mấy ngài đạo đức thiểu trí kia nên dạy đồ chúng ăn chay thay vì dọa đồ chúng gây tội trong vấn đề phóng sinh. Những ai nhìn nhận đặt cá để phóng sinh là sai đạo đức và thiếu thông minh hãy nên suy nghĩ lại về những điều trên, để thấy phóng sinh hay nhất, hiệu quả nhất không phải là đặt hay không đặt số cá mà chính là hãy ăn chay hay chí ít đừng ăn cá, bởi ăn cá mới thực sự là động lực xui người đi đánh bằt mỗi ngày và cả tỷ mạng chết dưới dao nhọn và trên lò nướng, cớ sao lại đổ thừa cho người đặt cá gây nên, khiến người phóng sinh chùn bước, ngần ngừ hành thiện, gây tổn thất sinh mạng cho chúng thủy tộc, đó là tội gián tiếp sát sinh. Kẻ ăn cá ung dung mổ nướng cá không lo phải chịu bất kỳ trách nhiệm nào, vì trách nhiệm cá bị đánh bắt thuộc về đám phóng sinh đặt mua rồi, những lý luận nhảm ấy thực chẳng khác gì gã giặc cướp lại đi buộc tội người khác là trộm vặt, trí khôn của những người dọa dẫm và nghe theo này ngủ mê đến bao giờ mới thức đây?

Lại nữa cá biển không thể phóng sinh vì về đến bờ đều đã ra ma, cá sông thì ngày nay trên thế giới đa phần đều được nuôi trong ao hồ để bán cho nhà hàng hơn là nhọc nhằn đánh bắt trên sông mỗi ngày, và như thế việc đặt cá để phóng sinh không dính dáng gì với việc đánh bắt cá, chỉ có những ai nấu nướng nhai nuốt chúng sinh mới phải chịu trách nhiệm về mọi nghiệp ác gây chết chóc cho loài thủy tộc, ấy vậy mà thay vì giảng dạy cho đồ chúng biết tránh ác nghiệp đó, lại đi dọa dẫm người làm thiện khiến cho những kẻ vô trí đâm hiểu lầm không dám làm nữa hay giới hạn việc phóng sinh, những kẻ hù dọa đó nên biết họ là môi mép tay mắt của ma, là kẻ gián tiếp giết hại chúng sinh.

Cuối cùng là người phóng sinh thường đặt cá nơi các hàng cá ngoài chợ, ngoài chợ lại đặt chợ đầu mối, và chợ đầu mối thường không khi nào đặt ra số lượng cho ngư dân, họ luôn vét sạch số cá ngư dân đánh được trong ngày, họ bán lại cho các chợ mà không cần biết người bán cá mua làm gì, và ở chợ mỗi hàng cá chỉ chứa được tối đa bao nhiêu ký, muốn nhiều hơn cũng không được, nên chuyện đặt cá không hề tạo ra vấn đề xui ngư dân đánh bắt thêm, nhất là người phóng sinh không đặt trực tiếp với ngư dân, mà có đặt cũng không làm tăng số cá bị đánh bắt.

Chuyện sợ bị bắt lại.

Nhiều vị xuất gia khuyên đồ chúng không nên đặt chim phóng sinh, việc này rất đúng, vì khác với cá, chim không có trại nuôi mà chúng luôn sống trong thiên nhiên, dân thường cũng như dân nhậu đều ít ăn chim, vì vậy chim dù có khổ chim lồng nhưng không bị nạn ăn giết, tuy nhiên nếu chúng ta đặt thì họ sẽ đi bẫy.

Nhiều vị quá khích chủ trương không phóng sinh để tránh chim cá bị lưới bẫy và phóng xong sẽ bị bắt lại. Nếu bị bắt lại thì sao? Thì phóng tiếp, không thể chỉ thả với điều kiện chúng phải an toàn tuyệt đối, như lương y trị bệnh dù biết bệnh nhân có khả năng tái phát vẫn tận tâm chữa trị, nếu gặp thầy thuốc từ chối chữa bệnh với lý do chữa rồi cũng bệnh lại hoặc cũng sẽ chết, thiên hạ sẽ bảo bác sỹ khùng, như vậy những người đòi hỏi sau khi phóng sinh, chim cá không thể bị bắt lại hoặc bị chết mới phóng sinh cũng khùng y như thầy thuốc nọ. Những người khùng này không thấy Bồ tát cứu chúng sinh "lì" đến mức nào sao, vừa cứu nó xong, nó tức tốc tạo tội, vào ra địa ngục như đi chợ, những chúng sinh cương cường khó độ, lì lợm kiên cố đó khiến Bồ tát phải lì hơn mới cứu chúng nổi. Bồ tát chưa từng từ chối cứu độ chúng sinh vì lý do cứu xong nó lại vào địa ngục tiếp thì sao?. Lòng từ bi của Bồ tát chỉ thấy cứu vô điều kiện khi chúng sinh chịu khổ, ngài không suy nghĩ như phàm phu đòi hỏi đủ thứ điều kiện để cứu, nhưng khi làm ác thì phàm phu làm vô điều kiện, ai cũng có thể là nạn nhân của mình, giá như phàm phu phát tâm hăng hái cứu người như cứu bản thân thì ngài phàm phu này sẽ không còn chỗ trong đám phàm tục nữa, vì ngài phàm ấy nếu không thành Bồ tát thì ít nhất cũng được gọi là thánh phàm. Người tu học nên bỏ thói nghĩ quá kĩ, đòi hỏi quá nhiều trước khi cứu, hãy phát tâm cứu dễ như khi phát tâm cầu lợi, nhưng hãy nên suy nghĩ thật kĩ và đòi hỏi nhiều điều kiện trước khi làm việc gì chỉ vì lợi kỷ. Đó là điểm khác biệt giữa người chân thành học đạo với người không biết đạo là gì dù mang danh tín đồ như nhau.

Trở về với chuyện bị bắt lại, đối với chim chỉ chịu khổ cảnh chim lồng, nhưng kẻ bắt chim không thường xuyên như người đánh cá, họ thường chỉ bắt vào các ngày lễ lớn ở chùa, vì chỉ bán được vào những dịp đó, nên việc đi bắt chim mỗi ngày không đủ nuôi thân. Tuy nhiên khi phóng sinh đã giúp cho chúng điểu này được quy y Tam bảo, kết duyên với Bồ tát đạo và cuối cùng là bố thí cho kẻ nghèo nọ, hồi hướng cho cả họ lẫn chúng điểu được hữu duyên với chính pháp, qua pháp phóng sinh hiện tại.

Về phần cá nếu bị bắt lại thì sao? Mỗi con cá có mỗi nghiệp khác nhau, có con không thoát được nghiệp bị giết mổ, có con chết già trong làn nước trong mát, vấn đề như đã nói trong phần trên là khi phóng sinh chim và cá đã được quy y, nên kết thành duyên hỗ trợ cho hành giả tu Bồ tát đạo, do vậy đây là thân cá cuối cùng của chúng, đó là điều Bồ tát muốn thực hiện để cứu chúng, còn chết là lẽ dĩ nhiên của muôn loài, chết thế nào là nghiệp riêng của mỗi chúng sinh, không ai can thiệp được. Phàm phu tưởng mình đạo đức khi đặt vấn đề sợ chúng bị bắt lại và bị giết mà mặc nhiên để chúng muôn kiếp làm cá với nghiệp dữ ấy bằng kết luận khỏi phóng sinh, quả là điên rồ mê muội, một thứ đạo đức ma quái, lừa dối kẻ vô trí băn khoăn chùn tay hành thiện, khiến bao sinh linh mất mạng, mất luôn cả cơ hội được kết thiện duyên với Bồ tát đạo. Đừng quên một vạn con cá được trưởng giả Lưu Thủy phóng sinh đã chết hết sau đó và sinh về cõi trời, nhờ vào công đức trợ thủ cho Bồ tát Lưu Thủy tiền thân của đức Phật hành Bồ tát đạo mà chúng nhanh chóng bỏ thân cá thành chư thiên, thường theo hộ cho đến khi ngài thành Phật và một vạn thiên chúng này được đức Phật thọ ký ở pháp hội Kim quang minh, thế nên sau khi đã quy y và thả chúng về với tự nhiên đừng lo chuyện hậu vận của chúng nữa, những người thích làm thiện cần có trí huệ để nhận chân được mọi vấn đề.

Tóm lại.

Phóng sinh là cứu pháp của Bồ tát, mọi chúng sinh đều từng là thân bằng quyến thuộc của ta hãy thương yêu và cứu vớt chúng sinh. Chúng ta cảm thấy thực may mắn và hạnh phúc khi nhận được sự cứu giúp vô điều kiện từ tha nhân, và chúng ta rất âu lo khi người giúp ta tạo ra đủ điều kiện, chúng sinh cũng thế, ta hãy đem may mắn và hạnh phúc ban trải vô điều kiện đến cho muôn loài. Đừng đắn đo suy nghĩ như kẻ dở hơi muốn cho người nghèo khổ cơm ăn nhưng thắc mắc sau khi ăn hết bạn đói lại thì sao? Thôi thì trước sau bạn cũng đói nên tôi có cho bạn bây giờ cũng vô ích nên khỏi cho vậy, Phật giáo đồ không thể có hiểu biết và lập luận ngu ác, bó não như vậy.

Lẽ ra đối với người tu học Phật, phóng sinh không phải là vấn đề để tranh luận hay cần đến giải thích mà là một phương tiện pháp để đệ tử Phật tu tập công đức. Mong rằng qua những sự giải thích trên những người có ý định phóng sinh không còn bất kỳ thắc mắc nào gây cản trở cho sự hành thiện pháp nữa.

Hành Sách đại sư tổ Liên tông thập tổ nói "trong muôn hạnh lành, phóng sinh là hạnh lớn nhất"

VTA 13.9.22

Từ Ngữ Phật Học Trong: Phóng Sinh Điều Phải Biết