Lần trước chúng ta thăm viếng giáo hội đạo Islam (Hồi Giáo) có được tiếng vang rất tốt.  Từ đó có thể thấy xã hội đại chúng chẳng phân chủng tộc, biên giới quốc gia, chẳng phân tôn giáo tín ngưỡng, mọi người đều hy vọng xã hội an định phồn vinh, thế giới hòa bình.  Việc này ấn chứng cho sự suy nghĩ và cách làm của chúng ta là chính xác.  Cho nên phải nỗ lực tinh tấn thêm, làm cho văn hóa đa nguyên kính trọng lẫn nhau, kính ái lẫn nhau, giúp đỡ hợp tác, nỗ lực đẩy mạnh sự nghiệp cùng tồn cùng vinh này.

Chuyện này là Phật sự, Phật sự là sự nghiệp giác ngộ chúng sanh, giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui.  Việc chúng ta làm chính là giúp đỡ chúng sanh mở rộng tâm lượng, thương mình thì càng thương người; thương gia đình mình thì càng yêu thương xã hội, tiêu trừ hết thảy những sự hiểu lầm, mâu thuẫn, xung đột để cùng nhau đạt đến mục tiêu hòa bình.  Chúng ta đẩy mạnh chuyện này nhất định phải dựa căn bản trên ‘tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi’, đây mới là Phật sự, mới là sự nghiệp của Bồ Tát.

Ðối với bản thân của chúng ta nhất định phải có sự cảnh giác cao độ.  Hàn Quán Trưởng từ lúc sanh bịnh đến lúc vãng sanh đều tỉnh táo, việc này rất khó được.  Bà hiện thân thuyết pháp và nói cho chúng ta biết một người lúc lâm chung ngay cả trở mình [nằm lật qua tư thế khác] cũng chẳng làm nổi, cũng cần phải có người giúp đỡ.  Chuyện này làm tôi nghĩ đến [cho dù] người trong thế gian có phước báo lớn hơn, quyền lực lớn hơn thì lúc lâm chung vẫn phải chịu sự sắp đặt của người khác, chẳng có cách nào lìa khỏi hoàn cảnh nguy hiểm này.  Phật dạy chúng ta lúc bấy giờ là thời khắc quan trọng nhất của một đời người, quan hệ đến đời sau sẽ sanh vào chốn nào.

Duyên của Hàn Quán Trưởng thù thắng, được ba mươi mấy vị xuất gia dùng tâm chân thành, thanh tịnh niệm Phật giúp cho bà, bảo vệ bà, cho nên từ lúc bà sanh bịnh đến lúc vãng sanh chúng tôi nhìn thấy được rất nhiều tướng lành.  Thứ nhất, kinh Ðịa Tạng nói lúc người ta lâm chung sẽ nhìn thấy những thân bằng quyến thuộc đã qua đời, những người này chẳng phải là bà con thiệt mà là những oan gia chủ nợ của mình biến ra quyến thuộc để dụ dỗ, trả thù mình.  Chuyện này xảy ra rất nhiều.  Từ lúc Hàn Quán Trưởng sanh bịnh đến vãng sanh chẳng có hiện tượng này, đây là nhờ chúng tôi bảo vệ được hiệu quả.  Thứ hai, bà nhìn thấy đức Phật A Di Ðà hai lần, nhìn thấy Liên Trì hải hội một lần nên bà khẳng định đã vãng sanh Tịnh Ðộ.  Sự thị hiện của bà cảnh giác chúng ta, bà có phước báo nên lúc lâm chung được nhiều người có niềm tin chân chánh, chăm sóc đúng lý đúng pháp, đây là quả báo bà có được sau ba mươi năm hộ trì chánh pháp.  Sau này mỗi lần giảng kinh tôi đều hồi hướng cho bà, tôi luôn luôn ghi nhớ chẳng quên sự giúp đỡ của bà lúc trước, ân đức của bà giúp cho tôi thành tựu.

Chúng ta quay lại thử nghĩ về mình, ngày này chắc chắn sẽ đến, lúc đó nếu mình không có phước báo, duyên phận như bà thì phải làm sao đây?  Ðây là việc quan trọng nhất trong đời của mình, chẳng thể không chuẩn bị trước.  Từ xưa đến nay có không ít người niệm Phật thị hiện cho chúng ta, thị hiện lúc lâm chung chẳng có bịnh khổ cho chúng ta xem, chẳng cần phải nhờ người khác chăm sóc, dự biết thời giờ ra đi, tự tại vãng sanh.  Chúng ta nhất định phải đi theo con đường này thì mới đáng tin cậy, mới chắc ăn.

Cuốn ‘Ảnh Trần Hồi Ký Lục’ ghi pháp sư Ðế Nhàn có người đệ tử niệm Phật vãng sanh, vị này trước khi xuất gia làm thợ vá nồi.  Người này cả đời sinh sống vô cùng khốn khổ, trung niên xuất gia, chẳng biết chữ, và cũng chưa được nghe giảng kinh, việc gì cũng chẳng biết.  Pháp sư Ðế Nhàn chỉ dạy cho ông niệm một câu ‘Nam Mô A Di Ðà Phật’ và nói với ông: ‘Ông cứ niệm riết câu này, niệm mệt thì nghỉ, hết mệt thì niệm tiếp tục, tương lai chắc chắn sẽ có lợi ích ’.  Ông này là người nhà quê, thật thà chất phác, chẳng có vọng tưởng tạp niệm, chịu nghe lời dạy và niệm tới cùng.  Ông niệm được ba bốn năm thì thành công.  Chẳng có bịnh khổ, dự biết trước giờ ra đi, sau khi vãng sanh còn đứng ba ngày chờ pháp sư Ðế Nhàn đến để lo hậu sự cho ông.  Cụ Ðế khen ông và nói: ‘Kể ra thì ông chẳng uổng phí đã một phen xuất gia, ông làm được như vậy ngay cả những đại hòa thượng, phương trượng trụ trì, đại pháp sư giảng kinh thuyết pháp đều chẳng sánh bằng ông’, đây là sự thật.

Tại Ðài Bắc Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn, Ðài Loan, cư sĩ Lý Tế Hoa vãng sanh cũng là tấm gương tốt cho chúng ta.  Lý cư sĩ dự biết trước giờ vãng sanh, trước lúc vãng sanh đã khẩn thiết khai thị cho mọi người trong pháp hội, nói xong thì chào biệt mọi người và nói: ‘Tôi sẽ về nhà’.  Thính chúng cứ tưởng là ông mệt rồi nên muốn về nhà nghỉ ngơi, đâu ngờ ông ngồi trên ghế dài trong phòng khách Liên Hữu Niệm Phật Ðoàn, ngồi được một chút thì vãng sanh.

Ðây là hai chuyện thật, một vị là người xuất gia, vị kia là người tại gia, họ đã làm được thì chúng ta cũng có thể làm được, chúng ta phải học theo.  Chỉ có dùng phương thức này mới thiệt là an toàn, chẳng phải nhờ người khác sắp đặt, lúc người ta sắp đặt nếu duyên chẳng tốt đẹp thì nhất định sẽ bị nạn.

Sau khi hiểu rõ chân tướng sự thật thì phải nghĩ xem những gì gây chướng ngại cho chúng ta, san bằng những chướng ngại này thì chúng ta cũng có thể sanh tử tự tại.  Có thể làm được việc này tức là việc mà trong Phật pháp gọi là: ‘chuyện cần làm đã làm xong’ (sở tác dĩ biện), những chuyện gì mình cần làm đều đã làm xong xuôi, sau đó mới yên tâm đi làm những chuyện lợi ích cho chúng sanh.  Nếu chuyện của mình làm chưa xong, có thể hy sinh mình giúp cho người thì cũng là một chuyện tốt, nhưng những gì mình làm lúc bấy giờ đều là phước báo, vẫn chẳng thể thoát ra khỏi lục đạo.  Nếu ‘chuyện cần làm đã làm xong’ tức là nhất định đã nắm chắc việc vãng sanh, thì làm các sự việc giúp đỡ hết thảy chúng sanh mới là công đức chân thật, chẳng phải thọ báo trong tam giới.  Cho nên nhất định phải nhắc nhở chính mình, bất luận là giờ nào chốn nào, trong bất cứ trạng huống nào tự mình phải nắm chắc vãng sanh được, tránh hết tất cả đau khổ, tất cả những dày vò do người tạo nên.  Nếu muốn làm được điểm này thì nhất định phải ‘nhìn thấu, buông xuống’.

Ðịa Tạng Kinh Khoa Chú Luân Quán nói: ‘Một niệm tự tánh, thể vốn trạm tịch’ [40].  Nếu thật sự niệm niệm đều tương ứng với tánh thể trạm tịch, hết thảy tác dụng có thể tương ứng với tâm tánh, thì mới nắm chắc việc vãng sanh.  Lục Tổ Huệ Năng đại sư nói còn rõ hơn nữa: ‘Vốn là chẳng có một vật, chỗ nào nhuốm bụi trần’[41], hai câu này nói về tâm thanh tịnh và tâm bình đẳng.  Tâm thanh tịnh chẳng nhiễm, tâm địa thanh tịnh chẳng vướng bận, trong tâm ‘vốn chẳng có một vật’.  Dùng tâm thanh tịnh nhất tâm niệm Phật thì việc này có thể làm được.

Nhất định phải hiểu rõ hết thảy pháp thế gian và xuất thế gian đều là giả hết, thân thể của chúng ta cũng giả.  ‘Mượn giả để tu chân’, vãng sanh Tây phương Cực Lạc thế giới là chân, trừ việc này ra thì hết thảy đều là giả, chúng ta phải nhận thức rõ ràng.

Hiện nay tai nạn dồn dập, chúng ta phải tu nhanh lên, đoạn hết thảy ác, tu hết thảy thiện, dùng tâm thanh tịnh niệm Phật.  Buông xuống vạn duyên là đoạn hết thảy ác, dùng tâm thanh tịnh để niệm Phật là tu hết thảy thiện.  Tự mình nắm chắc có thể vãng sanh rồi mới dốc toàn tâm toàn lực khuyên người khác, thị hiện cho người khác làm tấm gương tốt, đó là việc thiện nhất trong những việc thiện, chẳng có việc thiện nào lớn hơn việc này.  Không chỉ có người học Phật nhìn thấy làm cho họ phát tâm muốn xuất ly; trong văn hóa đa nguyên những người chưa có dịp tiếp xúc với Phật pháp nhìn thấy cũng sẽ động tâm, cũng sẽ quay lại hết lòng học tập, đây là chuyện nhà Phật thường gọi là ‘phổ độ chúng sanh’.  Hy vọng chúng ta khuyến khích lẫn nhau, hết lòng nỗ lực làm cho bằng được.

_______________________
[40] (Nhất niệm tự tánh, thể nguyên trạm tịch)

[41] (Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nhạ trần ai)
 
Trích từ: Học Vi Nhân Sư Hành Vi Thế Phạm
Báo Lỗi Đánh Dấu Đã Đọc

Thẻ

Khuyên Giữ Giới Sát Sanh
Đại Sư Linh Phong Ngẫu Ích Trí Húc

Nhận Thức Về Tái Sanh Chứng Ngộ Vãng Sanh
Hòa Thượng Thích Giác Khang

Liễu Sanh Tử
Hòa Thượng Thích Tịnh Không

Vãng Sanh
Hòa Thượng Thích Tịnh Không