Nguyên do vì đâu kinh Pháp Hoa ví chúng sinh là cùng tử và chư Phật là Trưởng giả?. Trước hết cần hiểu rõ các ẩn dụ bên trong từ cùng tử và trưởng giả.
Thế nào là cùng tử?
Cùng tử là kẻ bần cùng, không tài sản, vô gia cư, phiêu bạt đó đây, xin ăn qua ngày. Chúng sinh cũng có những đặc điểm này như trôi nổi khắp sáu nẻo luân hồi, không có nơi trụ cố định, lang bạt xin xỏ ngũ dục hết đời này sang kiếp khác, xin được đời nào tiêu được đời nấy, đời sau lại trắng tay như ăn mày vô sản, của cải xin được chỉ dùng trong một ngày, không biết chốn về vì vô gia cư, cứ thế mà hết đời này sang đời khác đi kiếm ăn trong cõi luân hồi. Do những lý lẽ này chúng sinh được ví là cùng tử.
Thế nào là trưởng giả.
Trưởng giả là bậc giàu có, với tài sản đồ sộ, của cải dư giả, trưởng giả không biết đến xin mà chỉ biết ban bố cứu giúp những kẻ khốn cùng, lại với dinh cơ nguy nga tráng lệ, trưởng giả không cần lê bước đi đâu mà chỉ trụ tại tư gia đón tiếp nuôi dưỡng những kẻ cơ nhỡ. Chư Phật cũng có những đặc điểm trên, như với tài sản công đức dụng bất tận, chư Phật là đại thí chủ của nhất thiết chúng sinh, ngài không biết cầu xin chỉ biết ban cho chúng sinh mọi thứ tài sản theo nhu cầu của người xin, từ những thứ đủ sống qua ngày cho đến bảo vật vô giá, đó là công đức, ngài chưa từng lìa cung trạch vô trụ niết bàn, có đi cũng không phải để tha phương cầu thực mà để đem những kẻ cùng tử khốn cùng về cố hương, chốn an lạc trang nghiêm.
Tâm trưởng giả và tâm cùng tử.
Trụ tại vô trụ xứ niết bàn, bất động trước mọi ngoại cảnh, ngoại duyên, thường quán sát rõ biết nguyên nhân khổ não của những kẻ lạc loài rời bỏ trụ xứ niết bàn an lạc, khéo dùng phương tiện thiện xảo hiện thân nói pháp theo căn tính chúng sinh để dẫn kẻ lạc lối trở về gia hương, đó là tâm của bậc trưởng giả.
Lang thang bất định, vô phương hướng chẳng biết đâu là nẻo đi chốn về, đã quên mất thân thế nguồn gốc lại chẳng biết quê nhà nơi đâu, cứ lang bạt trôi nổi theo nhu cầu sinh hoạt của kẻ hành khất, của cải có được chỉ đủ cho từng ngày, cứ thế mà cật lực cầu xin mỗi ngày cho đến trọn đời điêu linh, đó là tâm của kẻ cùng tử.
Tâm trưởng giả an trụ trong nhàn nhã, tùy hoàn cảnh của những kẻ cùng tử mà ra tay cứu giúp. Tâm cùng tử tìm đến các trưởng giả cúi đầu khom lưng cầu xin ban bố, chưa hề biết đến thế nào là ban bố cứu giúp, cùng tử cả đời lao nhọc đã chẳng thấy đủ thì nói gì tới một lần được trải nghiệm sự ban bố cho kẻ khác.
Sự khác biệt ấy chẳng qua do một tâm an trụ, thanh tịnh cứu vớt kẻ cùng tử, tâm kia bất trụ bỏ nhà chạy theo dục lạc bốn phương, những tưởng sẽ có hạnh phúc nào dè những dục lạc nọ chỉ là thứ phù phiếm, chợt đến chợt đi, thoạt có thoạt mất, cứ thế mà vui trước buồn sau. Chỉ cần hồi đầu là gia hương, cùng tử phát tâm sẽ trở lại trưởng giả, phát tâm chính là tâm hồi đầu đồng thời cũng là tâm chuyển mê thành ngộ.
Cha và con, cố hương và tha phương.
Cha là người gánh vác trông coi và duy trì sự nghiệp của giòng giống, cũng là người dạy dỗ nuôi dưỡng con trẻ. Con là những người cần được nương tựa chở che và giúp đỡ từ bậc cha ông. Thế nên Phật được ví là cha, vị trưởng giả dưỡng dục che chở cho con trẻ, chúng sinh được ví như bầy con thơ ham chơi, tham hưởng và vô trách nhiệm. Cha con tất nhiên có chung gốc gác, huyết thống, cũng vậy chư Phật và chúng sinh có chung gốc là bản tâm, Phật tính và cùng quê nhà là niết bàn, nên ví Phật như cha và chúng sinh như con.
Cố hương là quê nhà nơi an trụ và chốn về. Tha phương là nơi viễn xứ, phương trời xa lạ. Cố hương được ví là niết bàn, tha phương được coi là cõi mộng ảo. Phật trụ nơi niết bàn vô trụ xứ, chúng sinh phiêu dạt trong cõi mộng ảo.
Trở về.
Trưởng giả tạo mọi phương tiện để đưa gã con cùng tử trở về nhà cũ, giúp chúng phục hồi trí nhớ như xưa, cả thân lẫn tâm đồng trở về chốn cũ. Chư Phật từ vô trụ niết bàn thị hiện vào chốn mộng ảo thức tỉnh kẻ cùng tử hồi phục trí não quay về cõi thật, kinh Pháp Hoa gọi là khai thị chúng sinh ngộ nhập Phật tri kiến, trí huệ phục hồi là ngộ Phật tri kiến, trở về nhà xưa là nhập vô trụ niết bàn. Vì thế kinh nói đại nhân duyên thị hiện vào thế gian của trưởng giả chỉ để khiến mọi kẻ cùng tử ngộ nhập Phật tri kiến. Đệ tử chân chính của chư Phật đều nhận biết nhân duyên hy hữu này nên phát tâm theo ngài trở về bản tâm, đó là hoàn thành sự kết hợp mối lương duyên khai thị ngộ nhập giữa ta và Phật, giữa cùng tử và trưởng giả.
Trở về là sự hồi đầu của tâm tính, chuyển hóa vọng tâm thành chân tâm, xem ra thực giản đơn và dễ dàng, tuy nhiên cùng tử do si mê thâm căn cố đế nên rất sợ hãi khi nghĩ đến hai chữ phát tâm, vì vậy mà ngày t về trở nên quá xa vời, đức Phật vị trưởng giả đã than "trở về không khó nhưng khó vì không chịu phát tâm về".
Trở về đơn giản là phát tâm bồ đề, và tâm này chính là bản tâm xưa nay, nói rõ hơn phát tâm chính là phát tâm hồi đầu trở về chốn cũ, Thai tông gọi là quy bản. Phát tâm lập tức phát sinh công đức, vì sao? Vì phát tâm trưởng giả này tự dưng dễ dàng "đương nguyện chúng sinh" tất cả vì lợi ích hữu tình nên công đức tự thành trong từng cử chỉ động niệm, mà đâu phải chỉ cúng tăng hay chùa chiền mới có. Phát tâm lập tức trừ hết nghiệp tội, vì sao? Vì tâm bồ đề không có ngã chấp, nên trừ tuyệt mọi thứ tham si nơi ngã, mau chóng thành tựu vô dục, mà đâu cần gian khổ kềm chế ngã bằng tỳ kheo giới. Đây là chỗ vi diệu của đại thừa Bồ tát đạo, vì chỉ duy nhất có phát tâm mới làm thành các vị đại Bồ tát mà chúng sinh ngưỡng mộ thờ kính, mà giới tỳ kheo không thể làm được, do đó đồ chúng đại thừa nên giác ngộ mà tôn trọng học tập Bồ tát giới, và đừng quên gieo duyên với Bồ tát giới mới thực sự là gieo duyên xuất gia.
Một số người thiếu huệ chủ trương chỉ nên kết duyên với Bồ tát bằng ngã tu giới Thanh văn, và bác bỏ phát tâm bồ đề cùng hành Bồ tát đạo, những người đó không hiểu rằng gieo duyên với Bồ tát giới hay Bồ tát đạo mới thành Phật quả, bởi gieo duyên với Bồ tát là chọn nhân bỏ pháp, gieo duyên với Bồ tát đạo là chọn pháp bỏ nhân theo đúng lời dạy của đức Phật "y pháp bất y nhân". Dụ như gieo duyên với bác sĩ thì chỉ là bệnh nhân, nhưng nếu gieo duyên với y học thì thành bác sĩ, cũng vậy gieo duyên với Bồ tát thì là chúng sinh, gieo duyên với Bồ tát đạo thì thành Bồ tát.
Trở về trước nhất là tiếp nhận sự khai thị của đức Phật, tin vào bản tâm sẵn có bồ đề đạo quả, để xả bỏ cái mê tâm che lấp bản tâm xưa nay mà ta nhận lầm là tâm khiến ta từ trưởng giả tử bỗng dưng thành kẻ cùng tử tha phương, hãy giác ngộ điều này để hạ quyết tâm trở về bằng con đường duy nhất là phát tâm, tâm này là viên ngọc báu trong chéo áo cùng tử, đồ chúng hãy gieo duyên trở về bằng phát tâm bồ đề, tu Bồ tát giới, hành Bồ tát đạo, vì đó là cách độc nhất và cũng là nhân duyên duy nhất mà chư Phật thị hiện nơi đời để chỉ bày cho đám cùng tử, hãy đừng hồ đồ gieo duyên với Thanh văn giới mà ngây ngô ngỡ đó là gieo duyên xuất gia và kết duyên với Bồ tát.
Tuy rằng cùng tử cương cường khó độ, điên đảo thâm sâu nên sợ hãi phát tâm, nhưng với tâm từ bi độ hóa hữu tình vô động chuyển, chư Phật vị cha già vẫn thiết lập mọi phương tiện cho đến khi nào bầy con cùng tử chấp mê kia chịu phát tâm trở về.
VTA 17.6.2023