Home > Khai Thị Phật Học > Phan-Biet-Cong-Duc-Yeu-Luoc
Phân Biệt Công Đức Yếu Lược
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ


A Di Đà Phật,
Kính bạch Sư ông

Con xin Sư ông giảng giải cho chúng con hiểu rõ hơn về phẩm “phân biệt công Đức” thứ 17.

Con thường thắc mắc đoạn:

7. Lại, A Dật Đa! Nếu có người nghe nói Đức Phật thọ mạng dài lâu, hiểu ý thú của lời nói đó, người này được công đức không có hạn lượng, có thể sinh huệ vô thượng của Như lai.

- "Ý thú" nghĩa thế nào thưa Sư ông?  Và..

A Dật Đa! Nếu thiện nam tử, thiện nữ nhơn nghe Ta nói thọ mạng dài lâu, sanh lòng tin hiểu chắc, thời chính là thấy Đức Phật thường ở núi Kỳ Xà Quật, cùng chúng Bồ tát lớn và hàng Thanh văn vây quanh nói pháp.

Lại thấy cõi Ta bà này đất bằng lưu ly ngang liền bằng thẳng, dây vàng Diêm phù đàn để ngăn tám nẻo đường, cây báu bày hàng, các đài lầu nhà thảy đều các thứ báu hiệp thành, chúng Bồ tát đều ở trong đó. Nếu có người quán được như thế, phải biết đó là tướng tin hiểu sâu chắc.

Có nghĩa là cõi Ta Bà này cũng rất trang nghiêm, chỉ vì mình chưa chứng, chưa giác nên không nhìn thấy được cái trang nghiêm của cõi Ta Bà của Ngài Bổn sư này?

Xin Sư ông cho chúng con được thấu hiểu nghĩa này. Nam Mô Liên Hoa Hội Thượng Phật Bồ Tát

Đáp:

Đó là hiểu ý thú về sự thọ mạng dài lâu của Như lai.

Và nếu có người tin và hiểu rõ về thọ mạng dài lâu của Như lai, thì người ấy sẽ thật sự thấy đức Phật trụ trên núi Linh thứu đang thuyết (thật) pháp cho các vị bồ tát và hàng thanh văn vây quanh.

Không những thế còn thấy cảnh giới thanh tịnh trang nghiêm của thế giới Ta bà. Nếu quán thấy hai cảnh giới trên thì đó là hiện tướng của đức tin sâu thật.

Kinh Pháp hoa mở bày thật trí tức Phật tri kiến cho chúng sinh, để chúng sinh phát sinh thật trí quán chiếu được thật pháp.

Khi chúng sinh được mở bày Phật tri kiến, thật trí này sẽ khiến chúng sinh tin và hiểu thật pháp đồng với nhất thiết chư Phật, và như thế chúng sinh sẽ chuyển thành Phật, cảnh giới Ta bà cũng hóa thành tịnh độ trang nghiêm.

Phẩm này nối tiếp phẩm thứ 16 "Như lai thọ lượng" nói về sự thành Phật đã từ lâu xa và thọ mạng của đức Phật thì vô lượng. Phẩm Phân biệt công đức nói về công đức vô biên của những người tin hiểu về thọ lượng của Như lai. Công đức này rất khác biệt với các công đức mà chúng sinh có thể nghĩ bàn được, vì vậy mà phẩm này mang tên "phân biệt công đức".

Để hiểu rõ về công đức biến Ta bà thành Tịnh độ, và luôn thấy đức Phật thuyết kinh Pháp hoa trên đỉnh Linh thứu này, chúng ta phải dùng Phật tri kiến để tri (hiểu) và kiến (thấy) các việc hy hữu kể trên, và nhờ vậy mới thông suốt được sự chân thật phân biệt công đức.

Có hai loại phân biệt công đức.

Trước nhất là cách phân biệt của chúng sinh. Chúng sinh thường dùng ý thức hữu hạn để phân biệt mọi vật có hình tướng khác nhau, rồi dùng ngã chấp (mạt na) làm công cụ tính toán, đo lường phân biệt công đức nhiều hay ít, cao hay thấp. Sau đó  thức và ngã chấp sẽ chọn các thứ phúc có tính lợi kỉ để hành. Ví dụ như nghe cúng chùa có phúc hơn bố thí hay phóng sinh thì sẽ chọn cúng chùa, vì phúc hơn có nghĩa mình được lợi nhiều hơn. Xét cho cùng thì làm phúc vì mình hơn là chỉ nhằm đến sự cứu giúp mọi loài, hơn nữa đã vì lợi mình thì có khả năng làm cả việc ác để có lợi, nhất là khi thấy có lợi lớn cho mình.

Do những đặc tính này mà các việc thiện của chúng sinh không được gọi là thanh tịnh pháp, mà chỉ đơn thuần tạm gọi là thiện pháp. Và như thế phúc đức của các thiện pháp này được gọi là các nhân duyên thiện căn yếu kém.

Tín chúng tu học đại thừa cần lưu ý rằng mọi công đức thuộc thiện pháp đã hữu hạn do thoạt hành thoạt không, lại hồi hướng bồi đắp cho cái ngã có thọ mạng hữu hạn, nên kết quả là sự hưởng phúc đó cũng rất ư hữu hạn, Phật giáo gọi phúc hữu hạn này là phúc hữu lậu (hữu lậu hàm nghĩa giới hạn) hay phúc báo nhân thiên. Và nó chính là thứ kinh Di Đà gọi là các nhân duyên thiện căn yếu kém.

Kế tiếp là cách phân biệt công đức của Bồ tát. Bồ tát không dùng ý thức mà dùng thật trí để vô phân biệt các sự tướng khác nhau nhưng đồng thể. Dụ như người thanh niên mù chữ Lư huệ Năng đã đáp lời chê bai của ngũ tổ Hoằng Nhẫn "chú là dân man di mà đòi làm Phật ư" bằng thật trí "Hòa thượng và đệ tử tuy có người quý kẻ hèn, nhưng Phật tính thì vốn đồng". Ngũ tổ dùng quyền pháp phân biệt giai cấp để thử thách, và khi nghe câu đáp bằng thật pháp vô phân biệt của Huệ Năng, Ngũ tổ nhận ra kẻ mù chữ trước mặt mình có khả năng thành Phật vì người này có thật trí nhận ra chỗ đồng trong mọi tướng bất đồng, và đó chính là thật trí của chư Phật.

Thức chỉ thấy và phân biệt được các thứ bất đồng, trí mới nhận ra chỗ đồng của mọi thứ bất đồng.

Thức lấy lợi kỉ làm thước đo để phân biệt công đức, đối với chúng sinh công đức nhiều ít được tính bằng lợi của bản thân, vì thế công đức có muôn ngàn khác biệt.

Trí không dùng ngã làm thước đo công đức, mà nhận ra mọi phúc đức đều bình đẳng trên căn bản, nên phúc nào cũng hành, gọi là "nguyện tu nhất thiết thiện". Như vậy sự phân biệt công đức của thật trí vốn thật sự là bình đẳng không phân biệt.

Thức phân biệt công đức để hồi hướng cho ngã. Trí vô phân biệt công đức để hồi hướng cho thanh tịnh pháp. Thức và ngã đều giới hạn và vô thường. Trí và tịnh pháp đều vô hạn và thường hằng. Chúng sinh là thức và ngã vô thường. Phật bồ tát là trí và thanh tịnh pháp thường hằng.

Nói chung thức và ngã vô thường tạm bợ, ngắn ngủi trong cảnh giới bất tịnh, nhiễu nhương do họa phúc lẫn lộn của thế giới Ta bà. Trí và tịnh pháp thường hằng chân thật, thanh tịnh trong cảnh giới thật báo trang nghiêm, không gì không là công đức.

Vì vậy vọng thức và ngã chấp chỉ thấy biết mọi thứ bất tịnh của Ta bà. Ngược lại thật trí và tịnh pháp thấy biết mọi thứ đều thanh tịnh trang nghiêm.

Điểm phân biệt công đức lớn nhất của thật trí (Phật tri kiến) và chúng sinh tri kiến chính là: Với thật trí Ta bà ác thế cũng là tịnh độ, sinh tử cũng là niết bàn. Với vọng thức và ngã chấp thì trang nghiêm tịnh độ cũng thành ngũ trược ác thế, và niết bàn cũng hóa sinh tử luân hồi.
Minh chứng rõ ràng nhất là thật pháp của kinh Pháp hoa mà Phật quá khứ Đa Bảo và bảo tháp của ngài xuất hiện để chứng minh cho thật pháp này, cũng vẫn bị vọng thức của thế gian che mờ khiến mọi người trì tụng vẫn chỉ thấy kinh như một câu chuyện cổ tích, nên không thể thành tựu công đức để biến Ta bà thành tịnh độ và thấy hội Pháp hoa được.

Do đâu biết rằng tin hiểu thọ mạng vô lượng của Như lai sẽ có công đức vô lượng, biến uế cảnh thành tịnh cảnh, và thấy hội Pháp hoa...?

Mọi thứ thuộc chúng sinh đều giả tạm và hữu hạn, từ sinh mạng đến hiểu biết cũng rất giới hạn, nên không thể thấy và hiểu được thật pháp vô giới hạn, do vậy chư Phật phải hóa hiện thân hữu hạn, nói pháp hữu hạn (quyền pháp) để dẫn dắt chúng sinh đến với thật pháp vô hạn theo Phổ môn pháp.

Do chúng sinh quen với các pháp phân biệt và hữu hạn, nên hóa Phật và hóa pháp (quyền pháp) cũng hữu hạn, nên chi chúng sinh thấy Phật có đản sinh, xuất gia, thành đạo và rồi niết bàn, họ không biết đó chỉ là hóa Phật và hóa pháp không phải thật Phật và thật pháp vốn vô sinh diệt, không hề thật có đản sinh cho đến niết bàn.

Các tướng thành đạo từ đản sinh cho đến niết bàn chỉ là thị hiện (hóa hiện) theo tinh thần Phổ môn nên hiện thân nào để độ thì hiện thân ấy độ. Mọi hóa thân tức giả thân đều sinh từ một thật, đó là chân thân Phật, tức thanh tịnh pháp (thân). Hóa thân hữu hạn có sinh có diệt, song chân thân vốn bất động vô sinh vô diệt*.

Do chân thân vốn vô sinh diệt nên nói Như lai thọ mạng vô lượng. Do chân thân là thanh tịnh pháp nên Phật là công đức thanh tịnh, tự tại giải thoát. Cảnh giới của thanh tịnh pháp thân (Phật) dĩ nhiên cũng thanh tịnh trang nghiêm.

Thế nên nếu có người tin và hiểu về sự thọ mạng vô lượng của chân Phật, đồng nghĩa với tin và hiểu được thật pháp thì sẽ đạt được công đức chân thật vô giới hạn như chư Phật, nên thấy mọi sự đều thanh tịnh, Ta bà thành tịnh độ.

Pháp hoa hội khai mở thật trí và thật pháp. Sự khai mở này vô giới hạn, khg như chúng sinh hữu hạn thấy hội Pháp hoa có khởi đầu và kết thúc một cách hữu hạn. Người được khai phát thật trí luôn thấy mọi thứ dưới nhãn quan thật pháp, đồng với thấy hội Pháp hoa luôn hiện hữu.

Người tụng kinh Pháp Hoa dùng chúng sinh tri kiến phân biệt thật pháp của kinh, nên thật pháp cũng thành giả pháp, như thế bảo sao không thể thấy nổi cảnh giới thanh tịnh của chư Phật, dù cảnh giới trang nghiêm đã được đức Phật hiển bày trước mắt, và càng không thấy được hội Pháp hoa vẫn đang hiện hữu.

Tóm lại mọi công đức chân thật vô giới hạn còn gọi là vô lậu công đức đều sẵn có và đầy đủ trong thật trí (Phật tri kiến) hay bồ đề tâm, vì vậy có phát tâm bồ đề công đức mới phát khởi và thành tựu*, như thiền tông lục tổ Huệ Năng nói "đừng lầm phúc đức với công đức, phúc đức do xây chùa, tạo tháp, bố thí, cúng dường mà thành, còn công đức thì từ tự tính phát sinh (tự tính tức Phật tính)."

Đại thừa đệ tử mà cứ mải mê ôm giữ và tu tập quyền pháp, trau giồi quyền trí thì đều là quyến thuộc của hàng tăng thượng mạn, xiển đề đã từ bỏ hội Pháp hoa ra đi.

Chúng sinh tri kiến thấy Pháp hoa chỉ thuần là một quyển kinh văn để trì tụng, cầu phúc, ngoài quyển kinh này không có Pháp hoa. Phật tri kiến thấy Pháp hoa là thật pháp bàng bạc khắp mười phương ba đời, biến khắp trong mọi giả pháp của các sắc tướng, vượt khỏi khuôn khổ văn tự của kinh văn, không đâu không phải Pháp hoa, vì thế hội Pháp hoa hiển hiện khắp mọi nơi chưa bao giờ tắt diệt**. Kinh thật pháp này phải được trì tụng bằng thực hành trong việc khai mở Phật tri kiến cho chúng sinh, theo tinh thần Phổ môn "ưng dĩ hà thân đắc độ giả tức hiện hà thân nhi vị thuyết pháp" mà không chỉ thuần là kinh văn chuyên tụng bằng môi lưỡi theo truyền thống của chúng sinh tri kiến.

Trải qua bá thiên vạn kiếp nay mới gặp chân kinh, mới nghe thật pháp, thực là đại nhân duyên công đức, cận kề với sự nghiệp giải thoát, mà nếu bỏ qua cơ duyên này thì quả là đại ác nghiệp, như kẻ gục chết trước cánh cửa giải thoát, há không phải đau đớn lắm sao?! Hãy trân quý và tận dụng cơ duyên hy hữu này để cứu mình và cứu muôn loài.

PVVT
Báo Ân 24.3.2021


Chú thích

*Chân thân vốn bất động vô sinh vô diệt, nên hội Pháp hoa chân thật cũng không hề sinh diệt, vì vậy bằng thật trí quán chiếu sẽ thấy Pháp hoa chân thật hội vẫn thường hằng.

** Hoa nghiêm kinh "ly bồ đề tâm, nhất thiết sở tác giai thành ma nghiệp" lìa bồ đề tâm thì mọi việc làm đều thành nghiệp của ma.
Bồ đề tâm là bản thể của bồ tát đạo, bồ tát đạo là con đường duy nhất đến quả Phật.
Bồ đề tâm là nhân, Phật là quả.

***Đức Phật nói: "Sau khi ta diệt độ, nếu có người thọ trì, đọc tụng, giải nói cho người khác...cúng dường kinh này, thời (người này) chẳng cần xây dựng chùa tháp, tạo lập tăng phòng cúng dường chúng tăng".

Bởi nếu đúng pháp thọ trì kinh này, tất nhiếp hết mọi pháp sự, đạt thành công đức vô lậu. Ngược lại nếu chỉ xây chùa tháp cúng dường kinh quyển mà không hành đúng pháp thì chỉ được phúc hữu lậu tạm bợ.