Niệm Phật thì nên ngay vào lúc công danh, phú quý đắc chí, hãy một dao cắt đứt lìa, mạnh mẽ phát đại tâm, tận lực hành đạo này. Ðối với những thứ sở hữu trong đời: Vợ con, của báu, đầu, mắt, tủy, não, thậm chí thân mạng, chẳng tự keo tiếc, quyết chí cầu sanh. Há có nên đợi mãi đến lúc hối tiếc, rủi ro, bất đắc dĩ mới toan dùng cái tâm cẩu thả để tu ư? Thật đáng thương quá!
Nếu có thể nhân lúc tham tiếc đó, buông bỏ ngay, phát sanh kiến giải tìm đến chốn của báu Ðại Thừa, lập thành tâm quyết định Bất Thoái Chuyển, như chiếc thuyền đã xuôi giòng, thuận gió, lại thêm chèo chống thì há chẳng mau đến đích, may mắn chi bằng? Buông bỏ chỉ là buông bỏ nghiệp duyên thế gian, há phải là buông bỏ tâm tinh tấn hiểu đạo ư?
* Hãy nên quán sát đúng đắn hai cõi khổ - vui, tịnh - uế. Ðối với hai cảnh đó, sanh hai tâm: Một là tâm nhàm chán, hai là tâm vui ưa. Do nhàm chán cõi Sa Bà này, nên có thể tùy thuận Chiết Môn của đức Thích Ca đã dạy; sanh tâm vui ưa, nên có thể tùy thuận Nhiếp Môn đức Di Ðà đã chỉ. Ðối với hai môn đó, tinh tấn tu tập ngày đêm chẳng nghỉ, tùy thuận lời Phật dạy.
Đối với các cảnh sắc thanh cõi này, tưởng là địa ngục, tưởng là biển khổ, nhà cháy. Ðối với các vật báu, tưởng là đồ gây khổ. Tưởng thức ăn, y phục như máu, mủ, da sắt. Ðối với quyến thuộc tưởng là quỷ Dạ Xoa, La Sát nuốt người. Cõi này lại sanh tử chẳng trụ, bôn ba, phiêu bạt nhiều kiếp dài lâu, thật đáng chán lìa!
Từ nơi tri thức, kinh sách, nghe đến nguyện lực, cõi nước trang nghiêm của đức Phật kia; trong mỗi niệm, nhắc nhở nghĩa lý ấy, sanh ý tưởng an ổn, tưởng là chốn có của báu, là gia nghiệp, là nơi giải thoát. Tưởng Di Ðà Như Lai, Bồ Tát, thánh chúng như cha mẹ nhân từ, tưởng như cầu, thuyền tiếp dẫn. Tưởng trong khi sợ hãi, nạn gấp, hễ xưng danh, [Phật, Bồ Tát] liền ứng hiện, mau đến cứu giúp; tưởng hễ nghĩ đến liền xuất ly. Công đức vô lượng như thế thật đáng vui ưa.
Nếu nhàm lìa chẳng sâu thì nghiệp hệ Sa Bà chẳng thoát; vui ưa chẳng tha thiết thì thắng cảnh Cực Lạc khó đạt. Muốn sanh về Tịnh Ðộ, thành tựu Niệm Phật tam-muội, hãy thực hiện đầy đủ hai môn này để làm bước ban đầu phát khởi công hạnh vậy. Nếu có thể chán, ưa quyết liệt, viên tu Quán Huệ, thì không những đã vãng sanh, mà còn được Thượng Phẩm nữa!
* Nếu là người xuất gia muốn tu Niệm Phật tam-muội, muốn được thanh tịnh ba nghiệp, cởi mở oan kết để sanh về Tịnh Ðộ, lẽ nào chẳng dứt được việc giết hại để ăn uống đến nỗi lúc lâm chung tự bị chướng ngại? Kinh có dạy đầy đủ các giới, đầu tiên là dạy đoạn sát thì mới vẹn toàn các giới được. Tu tam-muội ắt phải các giới thanh tịnh thì mới có thể thành được. Dẫu cho túc nghiệp sâu dầy, chẳng thể đoạn ngay, thì cũng nên lập các phương tiện để dứt bỏ. Giới đức tuy đủ, nhưng nếu chẳng giữ cho thân tâm lặng định, dứt các kỹ năng, tạp thuật thế gian, cho đến nếu như chẳng trừ sạch hết thảy ý niệm phân biệt dù thiện hay ác, làm sao có thể nhất tâm tu tam-muội này cho được? Tam-muội bất nhất, vãng sanh bằng cách nào đây?
Tinh tấn là chẳng bị bát phong thế gian[3] làm lui sụt. Lại chẳng bị kiến giải khác lạ trong thân và tâm, hết thảy bệnh duyên lớn nhỏ khiến cho hạnh lười nhác. Nếu do túc nghiệp sai sử khiến cho hạnh khiếm khuyết, hãy nên nhất tâm tụng Bạt Nhất Thiết Nghiệp Chướng Căn Bản Ðắc Sanh Tịnh Ðộ Ðà Ra Ni. Trì một biến trừ được tất cả hết thảy các tội Ngũ Nghịch, Thập Ác… nơi thân. Trì mười vạn biến, liền được chẳng quên mất Bồ Ðề tâm. Trì hai mươi vạn biến, khiến cho mầm Bồ Ðề nảy sanh. Trì ba mươi vạn biến thì A Di Ðà Phật thường trụ trên đảnh, quyết sanh Tịnh Ðộ.
* Sao gọi là Chánh Hạnh? Hạnh là phải khiến cho thân tâm thanh tịnh. Vào đạo tràng, trước hết phải quán ta cùng hết thảy chúng sanh tột cùng cõi hư không thường ở trong biển lớn sanh tử, không chỗ quay về, không ai cứu vớt, nếu chẳng làm cho họ đều được giải thoát hết thì gọi là Chánh Hạnh sao được? Vì thế, coi oán lẫn thân bình đẳng, khởi tâm đại bi như hư không che chở khắp cả.
Tiếp đó, xét kỹ chánh hạnh niệm Phật của các vị tiên hiền, chọn lấy chốn tịch tịch, tự nhiên, chọn cuộc đất từ trước chưa từng bị nhiễm uế. Ðối với phí tổn thì trước hết phải dốc sạch hết những gì ta có rồi mới có thể xin người khác [giúp cho]. Ðúng như pháp kiến lập đạo tràng sao cho cực nghiêm tịnh. Ðem hết thảy tất cả thiện căn từ vô thỉ hồi hướng cho khắp tất cả chúng sanh vãng sanh Tịnh Ðộ, trang nghiêm hạnh nguyện. Ngay khi đó, ba tâm (thâm tâm, chí thành tâm, hồi hướng tâm) phát khởi trọn vẹn. Năm vóc gieo xuống đất, quán tướng hảo của Phật, hồ quỳ, chắp tay, vận tâm duyên khắp hết thảy chúng sanh và thân mình: “Từ xưa đến nay trôi nổi chẳng ngừng, thật đáng đau đớn!” Buồn bã khóc lóc cầu Phật rủ lòng Từ, mổ bụng, rửa ruột, phát lộ tội lỗi. Ngày đêm sáu thời định kỳ luyện hạnh.
Nếu vì chướng sâu chưa cảm ứng được thì lấy đến lúc chết làm kỳ hạn, trong suốt khoảng thời gian ấy chẳng có sát-na nào nghĩ đến ngũ dục thế gian. Nhất tâm như thế, ắt được vãng sanh. Nếu căn cơ chẳng xứng, hạnh thù thắng khó vẹn toàn, cũng nên ở nơi tịnh thất, sao cho trong ngoài sạch làu, tùy ý lập hạnh, lễ Phật, sám hối. Hoạch định mỗi ngày [thời khóa] mấy lượt, tinh tấn nhất tâm, thề chẳng hối hận giữa chừng: Hoặc chuyên tụng kinh, hoặc chuyên trì chú, hoặc chỉ chấp trì danh hiệu, một dạ cầu vãng sanh. Nếu được thấy tướng hảo bèn biết là tội diệt, duyên sâu, cũng sẽ sanh về cõi ấy.
Lại có người chưa thể đoạn sạch duyên đời thì cũng nên tu điều lành thế gian, tin tưởng cõi Cực Lạc chắc chắn chẳng nghi, niệm niệm luyến mộ chẳng quên. Ðối với những hạnh môn đã nói ở trên, tùy ý tu tập trong bốn oai nghi, lấy đó làm chỗ quy hướng. Tiếp xúc cảnh, liền thấu hiểu uyên nguyên của nó, gặp việc tận lực dùng phương tiện thì lúc lâm chung cũng sẽ được sanh về cõi kia.
Tuy các hạnh có tỏ tường hay đại lược, nhưng pháp lực của chúng vốn đồng; nhưng do có cái tâm hoãn đãi hay mau chóng, nên Phật cũng sẽ ứng hiện chậm hay mau.
* Nếu đang ở nơi đất khách, hoặc không ở cố định một nơi thì chẳng cần phải trang nghiêm đạo tràng, chỉ một bề thanh tịnh thân tâm. Tùy sức mặc áo sạch đẹp nhất, hương đèn dù có hay không cũng chẳng sao, đừng cố chấp! Nếu là chỗ có tượng hay đem tượng theo bên mình, hãy nên miệng tụng, thân lễ, đối trước tượng mà tu. Nếu không có tượng Phật thì hoặc là đối trước quyển kinh, hoặc chỉ hướng về Tây lễ vọng; hoặc chỉ trừ hướng Ðông ra, lễ về phương nào cũng được.
Nếu đang đi đường hay ngồi thuyền và hết thảy các việc làm lụng để nuôi thân bất đắc dĩ chẳng thể bỏ được thì cùng làm thế sự lẫn Phật sự. Tiếng tụng niệm tùy theo người chung quanh và hoàn cảnh để cân nhắc, hãy nên nửa niệm ra tiếng, nửa niệm thầm, niệm thật khẽ tiếng để người hai bên chẳng nghe thấy. Chớ nên nói nhiều với người khác. Những lúc khác thì phải nên ngồi một mình, đi một mình, xa lìa chỗ ồn tạp và xúm xít tán nhảm, giỡn cười, ca vịnh khiến hành nhân quên mất những chuyện chánh niệm.
Ðêm đến, người yên, cảnh lặng, chính là lúc nên dụng công. Ðã coi sanh tử là việc lớn, há có nên mặc tình ngủ nghỉ? Dù gặp lúc lạnh buốt hay nóng gắt, cũng chớ nên cởi áo. Pháp phục, xâu chuỗi nên để ở gần bên. Khăn tay, nước sạch chẳng để xa chỗ mình ngồi. Tất cả những thứ cần đến đều nên sắp sẵn. Lại nên quán sát tín căn của người khác là sâu hay cạn, chẳng làm phiền người khác, chẳng làm cho người khác chán ngán. Ðối với những điều ấy đã không trở ngại rồi thì hãy khẽ lên tiếng niệm khiến cho thiên thần hoan hỷ giáng xuống hộ trì; quỷ thần, súc sanh nghe tiếng được giải thoát. Công đức ấy rất sâu!
Ðối với người lòng tin nông cạn, chớ nên khăng khăng khuyên tu. Ðối với người tin sâu, lại chớ nên chẳng ngầm chỉ bảo khiến cho họ quyết tâm. Chẳng nên quy công về mình; như mùa Xuân tăng trưởng vạn vật, nhưng chẳng thấy mình có công. Ở chỗ tạm bợ mà tiến tu thì gọi là tu hành trong nghịch cảnh, công còn lớn hơn nữa.
* Nếu như trong lúc niệm Phật, tuy vận dụng cả thân lẫn miệng, mà tâm niệm rối bời chẳng thể tự khống chế thì nên dụng tâm như thế nào để khỏi bị tán loạn?
Ðáp: Nên vận dụng thân khẩu mà niệm, chẳng cần quan tâm đến tán loạn, cứ chẳng gián đoạn, tự có thể một lòng mà niệm thì cũng gọi là Nhất Tâm. Chỉ lấy việc thực hành chẳng ngơi làm chừng, cố nhiên bất tất phải lo đến tán loạn! [Nghĩ đến Phật hiệu] như mẹ chôn con yêu, như rồng bị mất mạng châu[4] thì chẳng mong nhất tâm mà tâm tự nhất, cần gì phải chế ngự tâm cho nó quy nhất? Tâm này vốn chẳng thể chế ngự, thật sự chỉ là do hành nhân siêng hay lười mà thôi!
Nếu như có tu tập mà vô hiệu, là do tín căn cạn mỏng, cái nhân chẳng thật, chưa từng lập hạnh, chưa gì đã muốn được người khác biết, trong tâm kiêu căng, bên ngoài thích phô trương để người khác cung kính, cúng dường, hòng được của cải. Thậm chí nói bịa thấy được tịnh cảnh, hoặc thấy tiểu cảnh và tướng lành trong mộng; chưa biết đúng sai mà đã toan giảng trước. Những gã hèn kém như vậy ắt bị bè bạn ma mê hoặc, nguyện hạnh thoái thất, lại đọa trong nẻo khổ sanh tử, chẳng nên dè dặt sao?
Dẫu có nghi thức trì tụng, sám nguyện trong đạo tràng cũng chẳng nên để người khác biết; nếu phải trình bày ra thì chỉ là chuyện bất đắc dĩ, há nên phô phang hình tích, khiến cho quán hạnh bị bại hoại ư! Hãy nên tự xét kỹ điều ấy, kín đáo, chân thật ngấm ngầm tự hành, ôm lòng hổ thẹn, chẳng phô đức mình, tận cho đến lúc về nhà (vãng sanh) chẳng bị hai thứ ma mạnh bạo hay mềm mại làm lầm lạc!
Trong lúc tu tập, lúc túc chướng sắp diệt, sẽ thấy vài tướng hảo nho nhỏ, nếu chẳng biết tích đức, khoe cho người khác biết thì hạnh ấy lại bị vùi lấp. Bởi thế, ngài Huệ Viễn ba lần thấy thánh tượng nhưng lúc bình thời chẳng hề nói, chỉ trừ lúc lâm chung mới thố lộ mà thôi!
* Niệm Phật tam-muội tuy mang tên là Nhất Hạnh, nhưng cũng nên lấy hết thảy vô lượng pháp môn thế gian, xuất thế gian, các hạnh công đức để làm trợ đạo thì chánh hạnh vãng sanh sẽ mau [thành tựu]. Vì vậy, hết thảy các hạnh đều do vì Tịnh Ðộ mà tu, [đem công đức ấy] hồi hướng Cực Lạc sẽ đều được vãng sanh.
Hơn nữa, tam-muội này thể tánh tuy viên, nhưng kiến giải nên rộng lớn, về hạnh nên thực hành trọn hết các điều khoản vi tế, vứt bỏ các điều bỉ ổi, tệ hại; thậm chí đối với tội nhỏ cũng đem lòng sợ hãi lớn lao. Lại nên có kiến giải Ðại Thừa, nhưng hạnh giống như người học Tiểu Thừa. Kinh dạy: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện Nghiệp, thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi, phát Bồ Ðề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Ðại Thừa, khuyến khích hành giả”. Mỗi một câu trên đây là một pháp hạnh.
Lại nên hộ trì cái tâm của người khác, chớ khiến cho họ khoe khoang, ganh ghét, hãy nên thân cận bạn lành, thưa hỏi bậc tiên giác, chẳng chấp vào sự hiểu biết của mình, chẳng cậy sở trường của chính mình. Giữ chí nhẫn nhục, hành theo đúng kinh, lắng nghe chánh pháp, chẳng hủy báng Tăng, Ni; dứt bỏ các sự lành tạp nhạp thế gian, chẳng tham danh lợi, xa lìa tà ác. Xử sự phải trung tín, quy điều lỗi về mình, hết sức thận trọng tránh nói thêu dệt, nhất tâm bất loạn, xem người khác như Phật, buông bỏ tài khéo, chỉ cầu vãng sanh, thân ắt thanh tịnh. Vô lượng thiện hạnh như thế đều phải nên tu tập để phụ trợ chánh đạo.
Nếu lại có thể cắt bỏ tâm nhiễm thế gian, đối với hai cảnh yêu và ghét không còn bị vướng vít, lặng tâm như nhất, ắt sẽ sanh về Tịnh Ðộ.
* Vừa muốn hiểu thấu đáo Ðạo thì ma cảnh đã hiện trước, tâm thiếu cẩn trọng đối với một chuyện thì vạn thiện đều mất. Vì thế, căn cứ vào kinh, lập ra mười hạnh gây trở ngại lớn, đặt tên là Thập Bất Cầu Hạnh:
1. Một là nghĩ đến thân, chẳng cầu không bệnh. Không bệnh thì tham dục sanh, ắt phá giới, thoái đạo. Biết tánh của bệnh là Không, bệnh chẳng não hại được. Vì thế, lấy bệnh làm thuốc hay.
2. Hai là ở đời chẳng cầu không nạn. Ðời không nạn thì kiêu ngạo, xa xỉ nổi dậy, ắt muốn chèn ép hết thảy. Hiểu nạn vốn là vọng thì nạn cũng chẳng làm gì được. Vì thế, hoạn nạn là giải thoát.
3. Ba là cứu xét tâm, đừng cầu không chướng. Tâm không chướng thì học qua loa, chưa đắc mà nói đã đắc. Hiểu chướng chẳng có cội rễ thì chướng tự lặng. Vì thế, dùng chướng ngại để tiêu dao.
4. Bốn là lập hạnh chẳng cầu không có ma sự. Hạnh không có ma sự thì nguyện chẳng kiên cố, ắt sẽ chưa chứng mà nói là đã chứng. Thấu hiểu ma là giả có, ma nhiễu sao nổi! Vì thế, lấy quần ma làm pháp lữ.
5. Năm là mưu sự chẳng cầu dễ thành. Sự dễ thành thì chí khinh mạn, ắt sẽ xưng ta có tài. Hiểu rõ việc được thành tựu vốn tùy thuộc nghiệp, chứ chẳng phải do tài năng. Vì thế, lấy sự khó làm điều an vui.
6. Sáu là giao tình chẳng cầu ta được lợi. Mong lợi mình sẽ thiếu đạo nghĩa, ắt sẽ thấy người khác sai trái. Xét rõ tình vốn có nhân thì tình sẽ nương theo duyên. Vì thế, lấy mối giao tình tệ bạc làm tư lương.
7. Bảy là chẳng cầu người khác thuận thảo với mình. Người ta thuận thảo thì trong lòng ta sẽ kiêu căng, ắt chấp mình là phải. Chúng ta sống trong đời, người khác chỉ đáp trả mình. Vì thế, lấy kẻ nghịch làm vườn rừng.
8. Tám là thí đức, chẳng cầu báo đáp. Làm điều công đức mà mong được báo đáp chính là có ý đồ, ắt muốn phô trương tiếng tốt. Hiểu rõ đức vô tánh, mà cũng chẳng thật. Vì thế, coi việc thí đức như bỏ đôi dép rách.
9. Chín là thấy lợi chẳng cầu được hưởng phần. Ðược hưởng phần lợi thì tâm si phát động, ắt bị tham lợi hủy hoại mình. Thấu hiểu lợi vốn là không, chẳng mong cầu lợi. Vì thế, coi lợi sơ bạc là phú quý.
10. Mười là bị chèn ép chẳng cầu kêu oan. Bị chèn ép mà kêu oan thì còn giữ lòng nhân ngã, ắt oán hận sẽ nẩy nở. Chịu đựng chèn ép, khiêm tốn, thì sự chèn ép tổn thương gì được mình? Vì thế, lấy việc bị chèn ép làm hạnh môn.
Như thế thì chịu đựng chướng ngại mà lại trở thành thông suốt, cầu thông suốt mà lại bị chướng ngại. Những chướng ngại ấy đều trở thành diệu cảnh. Bởi lẽ đó, đức Như Lai đắc Bồ Ðề đạo ngay trong chướng ngại. Dù là lũ La Sát, Ca Lợi, hay bọn Ương Quật, Ðề Bà[5] đến tạo nghịch, đức Phật đều thọ ký, giáo hóa họ trở thành Phật, há chẳng phải là lấy cái nghịch kia làm cái thuận cho mình, lấy cái hủy báng của họ làm điều thành tựu cho chính mình ư?
Huống hồ, lúc thời bạc, thế ác, nhân sự dị thường, lẽ nào người học đạo không có chướng ngại? Nếu chẳng đã ở trước trong chướng ngại thì làm sao bài trừ nó cho được, khiến cho đại bảo của Pháp Vương vì đó bị mất đi, chẳng tiếc lắm ư!
Nhận định:
Bộ luận này bị thất truyền đã lâu, Tổ Vân Thê Liên Trì mong được đọc nhưng không được đọc. May nhờ ngài Linh Phong ghép nó vào tác phẩm Niệm Phật Thập Yếu, nó mới được lưu truyền rộng rãi. Xin hãy thọ trì hai hạnh Chánh và Trợ trên đây, chớ coi thường. Lại nên dùng mười Ðại Ngại Hạnh (Bất Cầu Hạnh) trên đây để nhất nhất tự nghiệm thì quả thật, ngay trong lúc bệnh hoạn, gặp nạn, cho đến lúc bị ép uổng thì tâm niệm Phật chỉ càng tăng thêm, hiểu khổ, quán Không, chẳng oán, chẳng hiềm, không vướng mắc, không ngăn ngại, giống như đắc tam-muội, ắt được sanh về Tây.