Home > Khai Thị Phật Học
Nền Tảng Học Phật
Hòa Thượng Thích Tịnh Không | Cư Sĩ Vọng Tây, Việt Dịch


Sau khi Học Hội Tịnh Tông thành lập, chúng ta vì các đồng tu chuyên tu Tịnh Độ đã định ra năm khóa mục trong cuộc sống hàng ngày. Năm khóa mục này chính là nêu ra từ trong Tịnh Độ năm Kinh.

I. Thứ nhất là Tam Phước

Tam phước là lấy ra từ trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh, vô cùng quan trọng, đây là nền tảng của tu hành, căn bản của căn bản. Trong Kinh Phật nói rõ với chúng ta, ba điều này là “Ba đời chư Phật chánh nhân tịnh nghiệp”, câu nói này rất là quan trọng. Ba đời là quá khứ, hiện tại, vị lai, hay nói cách khác, bao gồm tất cả người thành Phật, các Ngài tu như thế nào? Các Ngài đều là dùng Tam Phước này làm nền tảng. Chúng ta đã biết tu học bất cứ pháp môn nào cũng đều có thể thành Phật, có vô lượng pháp môn để có thể thành Phật, vậy thì vô lượng pháp môn này đều là xây dựng ở trên nền tảng này, đều có cùng một nền tảng, cho nên chúng ta nhất định không thể xem thường.

Phước thứ nhất trong Tam Phước là phước báo trời người. Nếu bạn muốn làm Phật làm Bồ Tát thì trước hết phải làm một người tốt, người mà cũng không làm được tốt thì Phật Bồ Tát không có phần. Điều kiện cơ bản làm người, Phật nói với chúng ta bốn câu: “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu thập thiện nghiệp”. Chúng ta phải làm cho được bốn điều này, phải thật làm mới được. Sau khi nghe rồi trở về nhà thì phải học “hiếu dưỡng cha mẹ, tôn kính thầy giáo”, tiếp nhận giáo huấn của thầy. Thế nhưng hiện tại cái hiếu đạo này không còn nữa, sư đạo cũng không còn, đây là bi ai của người thời đại này chúng ta, đây là thực tế rõ ràng, người hiện đại ngay trong mắt của họ không có tôn trưởng thì làm sao họ có thể thành tựu?

Giáo dục của thời xưa là gia trưởng cùng phối hợp mật thiết với thầy giáo để đứa bé này giáo dục thành người, đơn phương không thể làm được.

Thí dụ bạn làm cha mẹ, con cái bạn nếu như không hiếu thuận thì bạn sẽ rất khó khi mở miệng nói: con là con cái của ta, vì sao con không hiếu thuận ta vậy? Lời này cha mẹ không nói được ra miệng, phải do ai nói vậy? Thầy giáo nói. Thầy giáo là người thứ ba, thầy giáo dạy học trò hiếu thuận cha mẹ, nhưng thầy giáo cũng không thể có yêu cầu đối với học trò là: em là học trò của thầy, em phải tôn sư trọng đạo. Thầy giáo cũng không thể nói ra lời này, phải do ai nói vậy? Cha mẹ nói. Cha mẹ dạy con cái tôn kính thầy giáo, thầy giáo dạy họ trò hiếu thuận cha mẹ, hai người phối hợp với nhau thì mới dạy tốt được.

Hiện tại, thành thật mà nói, cha mẹ nuôi dưỡng con cái nhưng không hề quan tâm đến sự dạy dỗ nó, khi gặp được một thầy giáo tốt muốn nỗ lực nghiêm khắc một chút để dạy bảo. Những học sinh đã bị sự uốn nắn này về nhà cáo trạng với cha mẹ, thì thầy giáo còn phải đi hầu quan. Hiện tại làm thầy giáo không dám dạy học trò. Tôi ở Đài Loan đi dạy hết năm năm, những thầy giáo chúng tôi thường hay cùng nhau rất cảm khái mà nói ra lời thật lòng của chúng tôi, khi làm thầy nhận tiền lương, mỗi một tháng nhận bao thư tiền lương đem về thì được rồi, còn học sinh thì sao? Điểm số thì cứ cho nó đạt chuẩn thì là được rồi, thì hoan hỉ rồi, đôi bên đều rất hoan hỉ, học trò gạt thầy giáo, thầy giáo gạt học trò, trường học gạt phụ huynh, phụ huynh gạt trường học, gạt đến gạt lui như vậy thì trở thành thế giới lừa gạt. Cái thế giới như vậy có thể có tiền đồ không? Ngày nay xảy ra đến hiện tượng như vậy, chúng ta có thật lòng muốn giúp đỡ cũng không thể giúp được.

Có rất nhiều người, ngay đến nhiều pháp sư đạo hữu ở Trung Quốc đại lục đều khuyên tôi giảng đại Kinh, không phải tôi không muốn giảng mà tôi muốn giảng rất nhiều năm mà không có cơ hội, ở trong Phật pháp gọi là chưa đủ cơ duyên, cũng chính là nói chưa có những điều kiện này, không có hoàn cảnh này. Mọi người cần phải có phước báo. Phước báo là phải chân thật giác ngộ, có thể làm đến được hiếu kính. Hiếu thân và tôn sư là một sự việc, ngày trước thì xem trọng nhưng hiện tại thì không biết, quên hết rồi, không có người giảng. Bạn xem thời xưa, lấy thí dụ về triều nhà Thanh, cuối triều nhà Thanh, đầu năm dân quốc, khi người đi học thi đỗ được công danh, như cử nhân, tiến sĩ (học vị thấp nhất vào triều nhà Thanh là Tú tài), thì việc đầu tiên mà họ làm là phải hồi quy bái tổ, không quên nguồn gốc, đó là tận hiếu. Con cháu được công danh thì đó là dốc hết hiếu đạo. Việc lớn thứ hai khi thi đỗ công danh là phải đi bái tạ thầy giáo. “Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”, nếu hai câu nói này đều không thể làm được thì trên đường học Phật của bạn cũng không được gì, cái học Phật đó là nói huyền thuyết diệu, không lợi ích gì, là giả, không phải là thật.

Chân thật học Phật phải chính từ ngay đây mà làm, nếu bạn không biết cái gì gọi là hiếu, vì sao phải hiếu thì bạn nên đi đọc Kinh Địa Tạng. Bồ Tát Địa Tạng có ba bộ Kinh, ngoài Kinh Địa Tạng Bồ Tát Bổn Nguyện ra, còn có Đại Thừa Địa Tạng Thập Luận Kinh, Triêm Sát Thiện Ác Nghiệp Báo Kinh, đây là Địa Tạng ba Kinh, trong đây giảng rõ cho chúng ta nghe cái đạo lý này. Từ ngay nơi cái nền tảng này nâng cao lên thêm phước nhị thừa, đây cũng chính là nói chúng ta có điều kiện tốt đẹp để làm người rồi, vậy mới có thể học Phật, mới có thể trở thành đệ tử Phật, mới có thể vào cửa Phật.

Phước thứ hai

Điều kiện vào cửa Phật trước phải thọ trì Tam quy, sau đó phải trì giới giữ quy củ, không phạm oai nghi. Cho nên điều thứ hai có ba câu: “Thọ trì Tam quy, cụ túc chúng giới, bất phạm oai nghi”. Tôi nghĩ rất nhiều đồng tu đều đã thọ qua Tam quy rồi, đó thật đều là quy giả không phải quy thật, đều là hình thức, không có nội dung, không có thật chất, hay nói cách khác, là quy y giả, giả mạo đệ tử Phật, không phải là thật. Nội dung ý nghĩa của Tam quy, chúng ta sẽ tìm một thời gian khác để giảng riêng đề tài này một lần, rất là quan trọng. “Quy” là quay đầu, quay đầu là bờ; “Y” là nương tựa. Quay lại từ chỗ nào vậy? Từ ngay nơi tất cả sai lầm mà quay đầu lại. Chúng ta đối với vũ trụ nhân sanh suy nghĩ sai, thấy sai, nói sai, làm sai thì chúng ta phải từ nơi tất cả sai lầm này mà quay đầu lại, nương vào Tam Bảo, sửa đổi tất cả sai lầm của chúng ta, đó gọi là nương tựa.

Tam Bảo là gì vậy? Mọi người đều biết gọi là Phật Pháp Tăng. Mọi người biết được Phật Pháp Tăng, nhưng không biết ý nghĩa của ba chữ Phật Pháp Tăng, vậy thì theo cách khác mà nói là bạn vẫn là chưa có Quy y. Phật Pháp Tăng không phải là nói ở bên ngoài. Phật ở bên ngoài hiện tại là tượng Phật bằng gỗ, bằng xi măng. Có câu rằng: “Bồ Tát đất qua sông còn khó giữ được thân”, bạn nương vào đó thì bạn làm sao có thể nương được chứ? Không thể nương được. Pháp Bảo là Kinh sách, từ xưa đến nay Kinh sách bị thiêu hủy có đến bao nhiêu? Cho nên cũng không thể nương được. Người xuất gia là phàm phu, đời sống của họ còn phải dựa vào tín đồ các vị, không có tín đồ thì họ sẽ chết đói, họ có thể nương được không? Cũng không thể nương được. Cho nên trong Phật môn thường nói: Tín đồ tại gia là cơm áo cha mẹ. Dùng hết phương cách để nắm giữ tín đồ, không thể để tín đồ đi mất. Tín đồ đi mất thì sao vậy? Thì đời sống của họ cũng đi mất, việc này gọi là “Hòa thượng không làm trò, cư sĩ không đến lạy”, vậy thì làm sao có thể nương được chứ? Vậy thì Tam Bảo là gì, ý nghĩa ra sao vậy? Phật giảng rõ ràng cho chúng ta là “Tự Tánh Tam Bảo”. Phật dạy bạn quy y là nương vào Tự Tánh Tam Bảo của bạn, không phải bên ngoài tâm tánh của bạn. Phật là ý nghĩa của giác ngộ, tự tánh Giác chính là Phật bảo, tự tánh Chánh chính là Pháp bảo, tự tánh Tịnh chính là Tăng bảo. Cho nên, Phật Pháp Tăng (Tam Bảo) là Giác Chánh Tịnh.

Từ triều đại nhà Đường có thể đã xảy ra ngộ nhận, mọi người đều nhận lầm, đều đem hình tượng Phật Bồ Tát, Kinh sách, người xuất gia xem thành Tam Bảo, khi quy y rồi thì đó là thầy quy y của tôi, ông kia không phải. Ở ngay đó khởi lên vọng tưởng, phân biệt, chấp trước. Chúng ta làm sao biết được, ngay lúc đó liền có cái sai lầm này. Chúng ta đọc Lục Tổ Đàn Kinh xong thì phát hiện, lúc Lục Tổ Đại Sư truyền thọ Tam quy y này cho người, Ngài đã không nói là Phật Pháp Tăng. Vì sao Ngài không nói Phật Pháp Tăng? Ở ngay trong tưởng tượng của chúng ta thì có lẽ Ngài nhất định là sợ cái danh từ này sẽ khiến cho mọi người sanh ra ngộ nhận, nên Ngài giảng là Giác Chánh Tịnh, Ngài dùng cái danh từ này. Quy y Giác, Quy y Chánh, Quy y Tịnh, các vị đọc Đàn Kinh thì sẽ xem thấy.

Danh từ này khi chúng ta nghe thì sẽ không xảy ra hiểu lầm, rất rõ ràng. Sau đó Lục Tổ nói với chúng ta: Phật là Giác vậy, Pháp là Chánh vậy, Tăng là Tịnh vậy. Khi giải thích ra thì Giác Chánh Tịnh chính là Phật PhápTăng, đây là đem tự tánh Tam Bảo thị hiện ra cho chúng ta.

Cho nên nói quay đầu thì chúng ta liền sẽ rất rõ ràng là giác mà không mê. Chúng ta từ mê hoặc điên đảo thì quay đầu lại nương vào tự tánh giác, hay nói cách khác, chúng ta đối nhân xử thế tiếp vật ngay trong cuộc sống thường ngày, chúng ta phải nương vào lý trí, không nên dùng tình cảm, đó chính là quy y Phật. Phật là trí tuệ, Phật là giác ngộ, cảm tình làm việc là mê hoặc điên đảo. Tam quy y này là như vậy mà dạy chúng ta. Pháp là chánh tri chánh kiến, cũng chính là chúng ta đem cách nghĩ, cách làm sai lầm sửa đổi lại, nhất định phải có tư tưởng chính xác, cách nhìn chính xác, đó gọi là quy y Pháp. Tăng là sáu căn thanh tịnh không nhiễm một bụi trần. Cho dù là người xuất gia như thế nào đi chăng nữa thì chính chúng ta phải mỗi giờ mỗi phút phải gìn giữ tâm thanh tịnh của mình, trong lòng không nên bị ô nhiễm, tinh thần không nên bị ô nhiễm, tư tưởng không nên bị ô nhiễm, kiến giải không nên bị ô nhiễm, trước sau luôn giữ gìn một tâm thanh tịnh, đó gọi là quy y Tăng. Tăng là ý nghĩa của thanh tịnh. Đây gọi là Tam quy y.

Khi các vị quy y thì nghĩ quy y với một vị Pháp sư, vị Pháp sư này là thầy quy y của tôi, vậy thì không đúng rồi. Bạn xem, đó là bạn quy y MêTà Nhiễm, tâm của bạn bị vị Pháp sư này ô nhiễm rồi. Đây là sư phụ của tôi, kia thì không phải, tâm của bạn không phải bị ô nhiễm rồi sao? Cho nên các vị quy y là gì vậy? Là Mê Tà Nhiễm, đó gọi là đệ tử Phật hay sao? Đệ tử Phật là Giác Chánh Tịnh, giác mà không mê, chánh mà không tà, tịnh mà không nhiễm, đây mới là đệ tử Tam Bảo. Cho nên ngày nay học Phật, ngay từ ngày quy y thì đã sai rồi, sai đến cuối cùng. Như vậy còn muốn làm Phật sao? Thật còn kém quá xa, còn kém xa lắm, không đọa địa ngục đã xem là quá tốt, phiền phức này sẽ không nhỏ. Cho nên nhất định phải làm cho rõ ràng tường tận, Tam Quy Y này là vào cửa, sau khi vào cửa rồi thì đây vẫn là nền tảng.

Phước thứ ba

Nâng cao thêm lên là nền tảng Đại Thừa. Đại Thừa có bốn câu: “Phát Bồ Đề tâm, thâm tín nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả”, là bốn câu này. Đây là cảnh giới sau khi bạn quy y, nâng cao lên thêm một tầng nữa là phải dạy bạn phát tâm Bồ Đề.

Phát Bồ Đề tâm

Cái gì gọi là Tâm Bồ Đề? Bồ Đề là tiếng Phạn của Ấn Độ, dịch âm ra ý nghĩa là giác ngộ, nhất định không thể mê hoặc. Cho nên tu học Đại Thừa thì tâm Bồ Đề là căn bản. Bạn xem chúng ta vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc, trong 48 nguyện của Phật A Di Đà thì quan trọng nhất chính là nguyện thứ 18, nguyện thứ 19. Nguyện thứ 18 chính là nói mười niệm sẽ vãng sanh, còn nguyện thứ 19 chính là phát tâm Bồ Đề. Bạn xem thấy ở trong Kinh nói ba bậc vãng sanh: bậc thượng, bậc trung, bậc hạ. Trong ba bậc vãng sanh đều phải “phát tâm Bồ Đề, một lòng chuyên niệm”.

Các vị xem Kinh văn thì biết, ba bậc vãng sanh đều là một câu nói này. Vậy thì theo đây mà biết, điều kiện vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc chính ngay tám chữ này. Bạn không phát tâm Bồ Đề thì niệm Phật cũng không thể vãng sanh.

Tâm Bồ Đề là gì? Là giác ngộ. Phải làm thế nào mới xem là giác ngộ? Trong đây có một số nguyên tắc quan trọng:

Thứ nhất phải biết thế gian này là khổ, cái thế gian này là khổ thật. Người tuổi tác như chúng tôi đây đã nếm đủ đắng cay rồi, người hai ba mươi tuổi thanh niên các vị không biết, các vị sanh ra sau khi đại chiến thứ hai, không gặp phải những khổ nạn này, xem như là người rất có phước báo. Thế nhưng phước báo của bạn, bạn có thể bảo đảm hưởng được đến già không? Ai bảo đảm về sau bạn sẽ không còn gặp phải tai nạn không? Dự ngôn của đông tây phương đều nói năm 1999 là ngày tàn thế giới, năm nay là 1996 rồi, khi đại tai nạn này đến thì người trên toàn địa cầu phải chết hai phần ba, cho nên bạn thử nghĩ xem, phước báo của bạn có thể giữ được đến già không? Lời tiên đóan này là lời tiên đóan của người xưa, lời tiên đoán của mấy trăm năm trước, nhưng lời tiên đoán của Trung Quốc cũng sắp gần hơn một ngàn năm trước, đều nói ở vào thời đại này có tai nạn, nhưng lời tiên đoán của Trung Quốc chúng ta thì không có nói đến ngày tàn, không nói nghiêm trọng đến như vậy, lời tiên đoán của phương tây thì nói rất nghiêm trọng, nói là ngày tàn đã đến.

Thế nhưng chúng ta không quan tâm đến những điều này, chúng ta tỉ mỉ mà quan sát xã hội hiện tại, chúng ta dùng lý tánh để quan sát thì có thể biết được. Chúng ta phải xem từ đâu? Từ nhân tâm mà xem. Thật là đáng sợ! Chỉ cần hướng về 30 năm trước mà so sánh, lòng người của 30 năm trước thuần hậu chất phác hơn so với người hiện tại; lòng người hiện tại so với lòng người của 30 năm trước hoàn toàn không như nhau. Lòng người hiện tại thì tự tư tự lợi, lợi mình hại người, người thời trước nghĩ lợi mình nhưng vẫn không đến nỗi hại người, hiện tại thì phải tổn hại người khác, vậy thì còn gì để nói. Cả thế giới động loạn, ngay đến khí hậu của toàn địa cầu cũng đều thay đổi, đều không bình thường, việc này chúng ta cần phải đề cao cảnh giác. Nếu như không nỗ lực chăm chỉ đoạn ác hướng thiện, thành thật niệm Phật, e rằng khi tai nạn vừa đến thì không cách gì tránh khỏi thì thật đáng sợ. Tuy là thời gian rất gần, còn có ba năm nữa thôi, nhưng ba năm vẫn còn kịp, chân thật nỗ lực mà làm thì vẫn còn có thể kịp. Nếu hiện tại không nỗ lực mà làm thì sẽ không kịp vì thời gian quá ngắn. Cho nên phát tâm Bồ Đề, giác ngộ thứ nhất là biết được thế gian này là khổ, biết được Thế giới Tây Phương Cực Lạc an vui, nếu chúng ta muốn lìa khổ được vui, đó là chân thật giác ngộ.

Giác ngộ thứ hai là phải lợi ích chúng sanh, phải có thể hy sinh mình vì người. Vậy chúng ta thử nghĩ xem, chúng sanh ngày nay cần thiết nhất là điều là gì? Là giáo dục của Phật Đà, không có thứ nào quan trọng hơn. Bên đây chúng ta cũng có mấy vị đồng tu cũng tương đối đáng quý, họ xây dựng học hội Tịnh Tông nơi đây, hy vọng có thể đem Phật pháp kiến lập ở nơi đây, rất khó được! Họ tìm đến tôi, tôi tùy duyên, mọi người có cái tâm này thì tôi liền đến giúp một tay, các vị không có cái tâm này, tôi sẽ đi đến nơi khác, nơi nào có duyên thì đi đến nơi đó. Thế nhưng quan trọng nhất là phải bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp, “người có thể hoằng đạo, đạo không thể hoằng người”. Ngày nay kỹ thuật in ấn phát triển, chúng ta đã in ra rất nhiều Kinh điển, lưu truyền đi khắp thế giới, nhưng không có người giảng thì mọi người vẫn là xem không hiểu, vẫn là hiểu sai ý nghĩa.

Cho nên cần thiết phải có người giảng, do đó ngày nay lợi ích chúng sanh lớn nhất không gì hơn được là bồi dưỡng nhân tài giảng Kinh, công đức này là công đức đệ nhất, không gì so sánh. Tôi mong muốn ở nơi đây, đồng tu của học hội Tịnh Tông bên đây hướng đến mục tiêu này mà làm. Tâm lượng chúng ta phải lớn, không phải vì một cái đạo tràng của ta, không phải vì một quốc gia, vì một khu vực này, mà chúng ta phải vì toàn thế giới. Một quốc gia được tốt, các nơi khác không tốt thì ngày tháng của chúng ta cũng sẽ rất khó mà trải qua. Mọi người đều tốt thì ngày tháng của chúng ta sẽ rất tốt. Lời xưa Trung Quốc thường nói: “Một nhà no ấm ngàn nhà oán”, bạn là một người giàu có, còn người khác thì bần cùng, thì người bần cùng sẽ đố kỵ bạn, oán hận bạn, giờ nào phút nào cũng muốn hại bạn, ngày tháng của bạn làm sao bình yên được? Mọi người đều giàu có thì ngày tháng của chúng ta sẽ rất tốt. Cho nên tầm nhìn phải lớn, phải thấy được xa, hy vọng cả thế giới này đều tốt thì chúng ta sẽ tốt. Vậy thì chúng ta bắt đầu từ đâu vậy? Bắt đầu từ bồi dưỡng nhân tài hoằng pháp, đây là việc hy hữu khó được. Khi người hoằng pháp nhiều rồi, người giảng Kinh nhiều rồi thì mọi người sẽ hiểu rõ đạo lý Phật pháp, dần dần giác ngộ thì mới có thể phá mê khai ngộ, mới có thể lìa khổ được vui, đây gọi là phát tâm Bồ Đề.

Tin sâu nhân quả

Đây là nói đến Bồ Tát. Bồ Tát mà vẫn không tin nhân quả hay sao? Thiện có thiện báo, ác có ác báo, chúng ta đều tin tưởng, nói Bồ Tát tin tưởng nhân quả không phải là nói nhân quả này của chúng ta. Là nhân quả gì vậy? Niệm Phật là nhân, thành Phật là quả, đích xác loại nhân quả này. Chúng ta xem ở trong Kinh luận, thấy có rất nhiều Bồ Tát đều không biết nhân quả này. Cho nên phải tin tưởng niệm Phật là nhân, vãng sanh Thế giới Tây Phương Cực Lạc nhất định thành Phật là quả.

Đọc tụng Đại Thừa

Người tu Đại Thừa Tịnh Độ chúng ta chỉ đọc Đại Thừa Vô Lượng Thọ Kinh, một môn thâm nhập. Nếu như bạn cảm thấy không đủ thì Tịnh Độ năm Kinh một luận là đủ rồi, đã rất là phong phú rồi, không cần phải cầu nhiều hơn nữa. Ở ngay đây cắm gốc khai hoa kết quả, đem nó mở mang rộng lớn, một Kinh thông thì tất cả Kinh đều thông đạt. Sau cùng là Khuyến tấn hành giả

Do đây mà biết, toàn bộ phía trước đã nói thuộc về tự lợi, câu sau cùng bảo chúng ta phải đem những gì mà chúng ta có được, chỗ tốt chỗ lợi ích phải truyền đạt cho người khác, làm lợi ích tất cả chúng sanh để họ nhận thức Phật pháp, hiểu rõ Phật pháp, tu học Phật pháp, thành tựu Phật pháp. Thành tựu Phật pháp là thành tựu vô lượng vô biên pháp môn trí tuệ, là cái ý như vậy, đây là Tam Phước, đây là một khóa mục trong năm khóa mục của chúng ta.

Trong Kinh Quán Vô Lượng Thọ đã nói ra Tam phước. Ba phước này rất là then chốt, không luận là tu học một tông nào, một pháp môn nào cũng đều không thể khiếm khuyết. Giống như trên Kinh Phật đã nói: “Ba đời chư

Phật chánh nhân tịnh nghiệp”. Câu nói này đã nói rất rõ ràng, ba đời là chỉ quá khứ, hiện tại, vị lai, pháp môn tu hành thành Phật rất nhiều nhưng đều xây dựng trên cái nền tảng này.

Nhưng chúng ta cũng cần phải biết, có được nền tảng này rồi thì hiện tại chúng ta vẫn chưa thành Phật, vẫn chưa rời khỏi thế giới này. Thực tế mà nói, cho dù thành Phật rồi cũng không rời khỏi chúng sanh, Phật phải phổ độ chúng sanh thì làm sao có thể rời khỏi chúng sanh chứ? Giả như nếu ở chung với chúng sanh thì làm thế nào để có thể cùng ở chung được tốt, ở chung được hòa thuận? Phật chế định cho chúng ta có sáu giới điều.

II. Thứ hai là Lục Hòa Kính

Lục hòa kính gồm:

Kiến hòa đồng giải
Giới hòa đồng tu
Thân hòa đồng trụ
Khẩu hòa vô tranh
Ý hòa đồng duyệt
Lợi hòa đồng huân

Sáu điều giới này thực tế mà nói, không chỉ là dùng trong đoàn thể Phật giáo mà có thể phổ biến rộng khắp, dùng trong tất cả các đoàn thể xã hội. Trong nhà Phật gọi là Chúng, bạn xem, khi chúng ta quy y Tam Bảo có câu “Quy y Tăng chúng trung tôn”. Ý nghĩa của chữ “Chúng” này chính là ngày nay chúng ta gọi là xã đoàn, đoàn thể.

Khi mọi người cùng tụ hội lại với nhau, đó gọi là chúng. Đoàn thể lớn nhỏ của thế gian và xuất thế gian, ở trong xã hội thông thường này của chúng ta mà nói, thì đoàn thể nhỏ nhất là gia đình, đoàn thể lớn thì là một quốc gia, một quốc gia cũng là một đoàn thể, to lớn hơn nữa thì tổ chức ngày nay của chúng ta có Liên Hiệp Quốc. Đây chính là nói rõ, thế giới là một đoàn thể, là một đoàn thể mà chúng ta cùng nhau sinh sống ở trên địa cầu này. Vì sao nói trong rất nhiều các đoàn thể này thì đoàn thể Phật giáo là tôn quý nhất? Bởi vì Thế Tôn đã vì đoàn thể Phật giáo chế định ra sáu giới điều, mỗi một phần tử trong đoàn thể đều cần phải tuân thủ. Do đó, trong tất cả đoàn thể, đoàn thể Phật giáo đích thực là tôn quý nhất, đáng được đại chúng tôn kính, là mô phạm của đại chúng.

Trong sáu điều giới luật này, điều thứ nhất chính là “Kiến hòa đồng giải”. Đây cũng chính là người hiện đại chúng ta gọi là “xây dựng cùng hiểu”, hay nói cách khác, ngay trong đoàn thể này, bất cứ một phần tử nào, cần thiết phải tư tưởng kiến giải, cách nghĩ cách nhìn rất gần nhau. Đây mới là một nền tảng hòa thuận. Nếu như cách nghĩ, cách nhìn của mỗi người không giống nhau thì khi mọi người cùng ở với nhau sẽ không tránh khỏi có sự bất hòa, không tránh khỏi có sự xung đột. Như vậy thì đoàn thể này không thể hòa hợp, cho nên đem nó xếp ở thứ nhất. Trong “kiến hòa đồng giải”, chữ Kiến này cũng có rất nhiều những tiêu chuẩn khác biệt. Thí dụ nói một gia đình thì lấy sự hưng vượng của gia đình làm mục tiêu, nếu như có sự cùng hiểu này thì cái gia đình này sẽ rất mỹ mãn. Nếu như là một công ty thương nghiệp thì mục tiêu của họ là kiếm tiền, chỉ cần mọi người có thể đoàn kết với nhau thì có thể sẽ kiếm được nhiều tiền hơn, đó là cùng hiểu của họ. Vậy thì do đây mà biết, đoàn thể không giống nhau thì tiêu chuẩn cũng không giống nhau.

Vậy thì ở trong nhà Phật có một tiêu chuẩn tuyệt đối, cái tiêu chuẩn này khiến cho chúng ta cảm thấy Thích Ca Mâu Ni Phật đích thực là rất thông minh, rất có trí tuệ, đó là người học Phật khi bước vào cửa Phật thì danh vọng lợi dưỡng, năm dục sáu trần của thế gian này thảy đều buông bỏ. Chúng ta phải từ nơi nào để xây dựng cùng hiểu vậy? Nếu như Thích Ca Mâu Ni Phật nói với chúng ta, các người đều là mê hoặc điên đảo, kiến giải sai lầm, ta là đại trí đại giác, các người phải y theo kiến giải của ta mà kiến giải, cách nói như vậy thì chúng ta có phục được không? Đương nhiên có một bộ phận thừa nhận Phật là đại thánh nhân, là người trí tuệ viên mãn, còn lại một số người thì sao? Cảm thấy chưa chắc. Chúng ta tán thán trí tuệ đức năng của Phật là vạn đức vạn năng, có không ít người nghe được câu nói này cho đây là tán thán Thích Ca Mâu Ni Phật, tuyệt nhiên không phải là sự thật. Như vậy thì kiến giải này sẽ có rất nhiều khác biệt lớn, làm thế nào có thể xây dựng cùng hiểu chứ? Do đó Thế Tôn cao minh, Ngài cao ở chỗ nào vậy? Chúng ta chỉ cần đem tất cả cách nhìn, cách nghĩ của chính mình thảy đều buông bỏ hết, vậy chẳng phải bình đẳng rồi sao? Phương pháp này đích thực là cao minh.

Phật không nói tri kiến của ta là chính xác, tri kiến của ông không chính xác, khi mọi người đem tri kiến đã có thảy đều buông bỏ thì liền quay về một mối. Ngài đã kiến lập ngay trên nền tảng này, chân thật gọi là “Bát Nhã Vô Tri”. Ngay khi nó khởi tác dụng là “Vô sở bất tri”, khi không khởi tác dụng cũng chính là không có người thỉnh giáo họ, không có người hỏi họ thì tâm của họ thanh tịnh, một niệm không sanh, tâm của mỗi một người đều thanh tịnh, đều không có một vọng tưởng, không có một tạp niệm. Cái này đích thực là cùng hiểu, cùng hiểu của đoàn thể nhà Phật là xây dựng trên nền tảng này. Việc này sau khi chúng ta nghe rồi chân thật bội phục, không ai theo ai cả, cũng không ai sỏ mũi ai kéo đi. Chúng ta ở trong tất cả đoàn thể cũng tìm không ra, thật là không có cái thứ hai. Lấy tôn giáo ra mà nói, tôn giáo vẫn còn phải đi theo Thượng Đế, bạn không thể bình đẳng với Thượng Đế. Phật không bảo bạn đi theo Ngài, đây là chỗ chúng ta rất bội phục ở Ngài.

Điều thứ hai là “Giới hòa đồng tu”.

Giới mà chỗ này nói có nghĩa rộng, có nghĩa hẹp. Nghĩa hẹp chính là Phật Đà răn dạy đối với chúng ta, giáo huấn trong tất cả các kinh đã nói, chúng ta phải thấu hiểu, phải tuân thủ, đây là cách nói theo nghĩa hẹp. Nói theo nghĩa rộng là thủ pháp, giới chính là pháp luật, chính là quy củ, chế độ thậm chí đến bao gồm tất cả phong tục tập quán của thế gian này của chúng ta, chúng ta đều phải vâng giữ. Đặc biệt là chúng ta sống trong thời đại hiện đại này, do vì giao thông thuận tiện, thông tin phát triển, không gian hoạt động của chúng ta không hạn cuộc ở một quốc gia mình, chúng ta thường hay đi đến khu vực quốc gia khác để tham quan. Cho dù đến một nơi nào, chúng ta nhất định phải tuân thủ pháp luật của cái địa phương đó, vâng giữ phong tục tập quán của địa phương đó, như vậy thì chúng ta mới có thể cùng sống hòa thuận với người địa phương đó, mới nhận được hoan nghênh của người địa phương đó, mới nhận được sự tôn kính của người địa phương đó. Điều giới luật này của Phật rất là thực tế và hữu dụng đối với cuộc sống của chúng ta.

Chúng ta xem thấy chân thật có thể sanh tâm hoan hỉ. Cho nên nhà Phật giảng nói giới luật không phải là khô cứng. Nói năm giới, mười giới, Tỳ Kheo giới, Bồ Tát giới thì phạm vi này xem thấy quá nhỏ hẹp. Cho nên việc trì giới này, nếu dùng lời hiện đại mà nói, chính là thủ pháp. Thủ pháp chính là trì giới. Người thủ pháp thì không có nơi nào mà không hoan nghênh, người người đều hoan nghênh. Cho nên ý nghĩa chân thật của trì giới là thủ pháp, vì vậy nên mới nói “Thân hòa đồng trụ, Khẩu hòa vô tranh, Ý hòa đồng duyệt”. Đây là sống trong một đoàn thể, đôi bên hỗ trợ lẫn nhau, không có tranh luận, không có ý kiến đương nhiên là không có tranh luận, cùng nhau tu học, có một phương hướng, có một mục tiêu, mỗi ngày đều có tiến bộ thì đương nhiên sanh tâm hoan hỉ nên gọi là pháp hỉ sung mãn.

Điều sau cùng là “Lợi hòa đồng huân”. Lợi, ngày nay chúng ta gọi là đời sống vật chất, ở trong tăng đoàn các vị phải biết. Tăng đoàn cũng có nghĩa rộng, tuyệt đối không hoàn toàn chỉ người xuất gia, những người xuất gia đương nhiên là Tăng đoàn, thế nhưng ý nghĩa của nó không hạn cuộc ở người xuất gia; các đồng tu tại gia, nếu như người một nhà bạn đều học Phật, người cả nhà đều quy y thì cả nhà bạn chính là một tăng đoàn. Có thể thấy được danh từ tăng đoàn này dùng được rất rộng rãi. Vậy thì trong một công ty, từ ông chủ cho đến công nhân đều tu học Phật pháp thì công ty của bạn chính là tăng đoàn. Cho nên tăng đoàn là đoàn thể, nghĩa rất rộng lớn, không phải là nghĩa hẹp, chỉ cần tuân thủ sáu điều giới luật này thì đó chính là một tăng đoàn. Trong tăng đoàn chú trọng có lợi phải chia đều, cách chia đều này cũng không phải nói là mọi người đều một mực bình đẳng. Người xuất gia có thể nói là đời sống nhất mực bình đẳng. Ở trong một tự viện, từ trụ trì đến từng người trong chúng, đãi ngộ đời sống vật chất nhất định là bình đẳng, không có đặc quyền giai cấp. Nhưng trong công ty, từ ông chủ đến công nhân, chức vụ đương nhiên là không như nhau, vậy thì bình đẳng phải nói thế nào vậy? Bạn có thể có được đãi ngộ công bằng thì đó chính là bình đẳng. Do đây mà biết, trong Phật pháp mỗi câu mỗi chữ là sinh động, không phải là khô cứng. Tóm lại mà nói, thật sự phù hợp, hợp tình hợp lý, hợp pháp thì gọi là bình đẳng, đó là sáu phép hòa kính.

Phật dạy chúng ta khi ở chung với mọi người, chúng ta nhất định phải tuân thủ sáu phép hòa kính cho dù là người chủng tộc khác nhau, đoàn thể khác nhau, cho dù họ không có tu học sáu phép hòa kính, thì chúng ta đối nhân xử thế tiếp vật vẫn phải y theo tinh thần sáu phép hòa kính mà làm. Đây mới là một đệ tử Phật, không được trái với lời giáo huấn của Phật Đà. Không thể nói người khác không làm thì chúng ta cũng có thể không làm, việc này không thể nói như vậy được. Phật Bồ Tát làm ra tấm gương tốt nhất cho chúng ta, mẫu mực đẹp nhất. Còn chúng ta là đệ tử Phật, là người học Phật thì không luận là tại gia hay xuất gia, nhất định phải làm ra một tấm gương thật tốt cho người chưa học Phật, đây là tinh thần của Phật pháp. Đây chính là tự độ, độ người, hoằng pháp lợi sanh. Tuy là chúng ta không dùng lời nói để giáo hóa chúng sanh, nhưng đời sống của chúng ta, hành trì của chúng ta, nhất cử nhất động của chúng ta để cho người khác thấy, trong lòng họ tự sanh ra hiệu quả chuyển hóa thầm lặng, đó chính là chư Phật Bồ Tát ứng hóa ở thế gian, giáo hóa chúng sanh. Việc này đáng để chúng ta học tập, cần thiết phải học tập.

III. Thứ ba là Tam học Giới – Định – Huệ

Khóa mục thứ ba là Tam học. Tam học mọi người đều biết, tam học thì chân thật đã bước vào khóa trình của Phật pháp, hai điều phía trước là nền tảng. Bạn xem, trước khi học Phật thì trước tiên phải tu phước báo, không có phước không thể học Phật. Sau đó dạy bạn một số nguyên tắc, bạn phải tuân thủ những nguyên tắc này khi đối nhân xử thế tiếp vật, như vậy bạn mới có thể học Phật. Phật pháp không chỉ Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói, mà mười phương ba đời tất cả chư Phật đều nói, chúng ta đem quy nạp lại cũng không ngoài ba loại lớn. Kinh điển Phật giáo hiện tại của chúng ta ở Trung Quốc biên tập thành, gọi là Đại Tạng Kinh. Trong Đại Tạng Kinh đã phân làm ba bộ phận là Kinh tạng, Luật tạng, Luận tạng. Tạng cũng giống như cái kho vậy, Kinh, Luật, Luận cất vào trong đó. Phật Kinh truyền đến Trung Quốc sớm nhất là vào thời kỳ hậu Hán, khi đến Đường Tống thì công tác phiên dịch Kinh này đã hoàn thành khoảng 90%. Vào triều nhà Tống thì có người nghĩ ra là phải đem Kinh điển của Phật trùng tân phân loại, chỉnh lý lại. Do đó đã hình thành Đại Tạng Kinh, đem Kinh Phật phân làm ba loại lớn, y theo Kinh, Luật, Luận này phân làm ba loại lớn, nhờ đây đã có sự ảnh hưởng rất lớn.

Đối với văn học Trung Quốc, thời đại nhà Minh thì biên tập “Vĩnh Lạc Đại Điển”, khoảng năm Khang Hy nhà Thanh thì biên tập “Đồ Thư Tập Thành”, thời Càn Long thì biên tập “Tứ Khố Toàn Thư”. Cấu tưởng phân loại đó đều là học được từ trong Phật giáo, phân loại rõ nhất là từ nơi Phật giáo. Cho nên thời Càn Long biên tập “Tứ Khố Toàn Thư” của Trung Quốc chính là từ trên cấu tưởng đó mà làm ra tác phẩm này. Kinh tạng chủ yếu là nói về Thiền định, về định học; Luật tạng là nói giới học; Luận tạng là nói Huệ học, đây chính là Giới, Định, Huệ tam học. Bạn muốn nói, Phật giảng nhiều Kinh đến như vậy, nội dung là nói cái gì? Dùng ba chữ này để trả lời thì nhất định không sai, Phật giảng Giới, giảng Định và giảng Huệ. Trong giới học then chốt nhất là giảng qui luật, giảng trật tự. Địa cầu có bốn mùa thay đổi là Xuân, Hạ, Thu, Đông; con người cũng cần phải có trật tự, phải có qui luật thì con người mới trải qua được đời sống hạnh phúc mỹ mãn. Nếu như mất đi qui luật thì thế giới này đại loạn cho dù ngày nay bạn có phước báo có tiền của. Người xưa thường nói: “Giàu mà không vui”, bạn sống trong lo sợ, bạn không có cảm giác an toàn là do nguyên nhân gì vậy? Chúng ta đã bỏ mất đi trật tự. Trong giới học giảng giải đạo lý này cho chúng ta. Vì sao phải có trật tự này? Vì sao phải tuân thủ trật tự? Đạo lý, phương pháp, cảnh giới trong đó giảng nói được rất thấu triệt, sau khi đọc rồi chúng ta không thể không bội phục, cảm thấy những gì Phật đã nói rất có đạo lý. Thực tế mà nói. Giới Định Huệ tam học này đã đem sự việc hiển lộ phơi bày ra rồi.

Chúng ta học Phật là cầu cái gì? Là cầu trí tuệ! Phía trước nói trí tuệ cứu cánh viên mãn, chúng ta cầu cái này. Nếu trí tuệ này hiện tiền rồi, thì xác xác thực thực vũ trụ nhân sanh này không gì không biết, không gì không thể làm, chúng ta gọi là toàn tri toàn năng. Phật nói với chúng ta: “Tất cả chúng sanh đều có đức tướng trí tuệ Như Lai”, mỗi một người đều là toàn tri toàn năng. Toàn tri toàn năng là thật, không phải giả. Không những biết được hiện tại, biết được quá khứ, biết được vị lai, mà còn có thần thông không thể nghĩ bàn. Phật nói với chúng ta, đó là bản năng, bạn phải nên biết điều này. Thế nhưng hiện tại cái chúng ta nên biết thì không biết, trí tuệ đức năng của chúng ta đã mất hết. Phật dạy bảo chúng ta thực tế mà nói không gì khác hơn là chỉ để hồi phục lại trí tuệ năng lực vốn có của chính chúng ta mà thôi. Vì sao trí tuệ đức năng của chúng ta có thể mất đi vậy? Là mê mất, Phật nói chúng ta bị mê mất thôi. Hiện tượng của mê là gì vậy? Mê là tâm của bạn động. Các vị phải nên biết, Phật pháp nói mê, nói giác. Tâm giác là không động, tâm mê là động. Mắt chúng ta thấy sắc, tai nghe tiếng, sáu căn tiếp xúc với cảnh giới sáu trần bên ngoài thì khởi tâm động niệm. Cái khởi tâm động niệm chính là mê. Cho nên Phật dạy cho chúng ta làm thế nào ở trong tất cả cảnh giới có thể làm đến được không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, thì bản năng của chúng ta liền được hồi phục. Cảnh giới này thì gọi là định.

Do đó pháp môn tu hành trong Phật pháp rất nhiều. Định nghĩa của hai chữ tu hành này cũng phải hiểu cho rõ ràng. Hành là hành vi, tư tưởng kiến giải lời nói hành động đều là hành vi. Hành vi sai rồi, đem nó sửa đổi lại thì đó gọi là tu hành. Cho nên tu hành chính là sửa đổi lại cách nhìn, cách nghĩ, cách nói, cách làm sai lầm của chính mình. Tiêu chuẩn của tu sửa này là gì vậy? Tiêu chuẩn là giới, định. Giới là tiêu chuẩn của hình thức, định là tiêu chuẩn của tâm lý, định là tâm thanh tịnh. Cho nên tiêu chuẩn bên ngoài đương nhiên là quan trọng, nhưng quan trọng hơn nữa là tiêu chuẩn ở bên trong. Vì sao vậy? Bởi vì tiêu chuẩn bên trong mới có thể đạt đến mục tiêu tu học của chúng ta là khai mở trí tuệ. Trí tuệ là thứ mà chúng ta cầu. Cho nên nói do giới được định, do định khai trí tuệ, đây chính là đem tiêu chuẩn này nói cho chúng ta nghe một cách rõ ràng. Ngày đầu tiên đã giảng nói qua với các vị về A Nậu Đa La Tam Miệu Tam Bồ Đề, dịch sang tiếng Trung Quốc là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, trong Tam học thì điều này thuộc về huệ học.

Phải làm thế nào mới có thể đạt đến Chánh Giác, Chánh Đẳng Chánh Giác, Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác? Sức định này thực tế mà nói chính là tâm thanh tịnh. Độ thuần của tâm thanh tịnh đó là không giống nhau, cạn thì được chánh giác, cứu cánh viên mãn là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Trong Kinh Đại Thừa Phật nói với chúng ta, Bồ Tát từ khi sơ phát tâm, Bồ Tát sơ tín vị cho đến thành Phật phải trải qua 52 giai đoạn. 52 giai đoạn bắt đầu tính từ đâu vậy? Chính là từ sức định, từ tâm thanh tịnh nên độ thuần đó không như nhau, từ ngay chỗ này mà phân chia giai đoạn. Cho nên thảy đều là tu tâm thanh tịnh, việc này rất quan trọng, đây là tổng cương lĩnh của Phật pháp. Tóm lại mà nói, chúng ta học Phật phải biết được chính mình đang tu cái gì. Rời khỏi qui luật này, rời khỏi tâm thanh tịnh thì không phải học Phật. Cho dù là bạn tu học pháp môn nào, bạn niệm Phật cũng tốt, trì giới cũng tốt, đọc Kinh cũng tốt, trì chú cũng tốt, tham thiền cũng tốt, nhưng giả như nếu bạn không tuân thủ quy củ, không được tâm thanh tịnh thì đó đều là hình tướng, đều là giả, không phải là thật. Tuy là có học nhưng không có hiệu quả. Cũng giống như học trò đi học ở trong trường, rất dụng công ngày ngày đi học nhưng mỗi lần thi cử thì đều không đạt chuẩn, vậy thì có ích gì chứ? Không ích lợi gì cả.

Cho nên tu học của bạn, cho dù bạn tu pháp môn nào, nếu hiểu được quy củ, có thể giữ quy củ thì có thể được tâm thanh tịnh, tâm của bạn mỗi năm sẽ một thanh tịnh hơn, mỗi tháng mỗi thanh tịnh hơn. Một phần thanh tịnh thì được một phần trí tuệ, hai phần thanh tịnh thì được hai phần trí tuệ. Trí tuệ chân thật là tác dụng của tâm thanh tịnh, cho nên tâm không thể có phiền não, không thể có âu lo, không nên có dính mắc. Những thứ này Phật đã nói đó là vọng tưởng nên không thể thành tựu được việc, nó sẽ hại việc.

Thế gian có không ít người cho rằng, nếu tôi không ngày ngày nghĩ tưởng, ngày ngày chú ý thì làm sao tôi có thể được phú quý chứ? Họ cho rằng những giàu sang đó của họ đều là do vọng tưởng của họ mà được, đây không phải là sự thật. Phú quý của họ là do nhân đời trước tu, đời này được quả báo, họ không khởi vọng tưởng phú quý cũng tới. Nếu họ không có cái mạng phú quý đó thì có vọng tưởng thế nào cũng không thể có được. Bạn xem, người khởi vọng tưởng thì nhiều nhưng có mấy người được phú quý? Điều này đã được chứng minh rồi, có thể thấy được. Phú quý không phải do khởi vọng tưởng mà có được, không phải bạn nói nỗ lực thế nào đó thì bạn kiếm ra tiền được, không có đạo lý này. Về vấn đề này, các vị phải tỉ mỉ mà đọc qua “Liễu Phàm Tứ Huấn” thì liền hiểu rõ. Đọc qua Liễu Phàm Tứ Huấn một lần không đủ, ngày trước tôi dạy người phải một mạch đọc hết 300 lần thì ấn tượng mới sâu. Tỉ mỉ mà nghĩ thử xem, điều này có ý nghĩa.

Bạn phải tu nhân thì bạn mới có thể được quả báo.

IV. Thứ tư là Lục độ Ba La Mật

Phía sau của khóa mục này là Lục Độ. Lục độ là nói với bạn về tu nhân thì bạn được quả báo gì.

Thứ nhất, Bố Thí

Ý nghĩa của Bố thí cũng là nghĩa rộng, không phải là nghĩa hẹp. Bạn đến một nơi nào đó đóng góp một ít tiền thì đó chính là Bố thí, nhưng không phải vô lượng Bố thí. Bố thí chỉ là một loại, trên thực tế Lục độ này là sáu cương lĩnh của đời sống Bồ Tát, mỗi một điều trong đó phạm vi của nó đều là bao hàm toàn bộ cả đời sống, toàn bộ hoạt động của chúng ta. Chúng ta phải thấu hiểu ý nghĩa chân thật của nó. Thí dụ nói Bố thí, Bố thí là nói hy sinh phụng hiến, ngoài việc chúng ta dùng tiền có thể bố thí ra, dùng thể lực của chúng ta cũng là Bố thí. Bạn là một người chủ trong gia đình, mỗi ngày bạn ở trong nhà chỉnh lý việc nhà của bạn, để cho người cả nhà bạn sống được thoải mái thì bạn đang hành Bố thí. Nếu không phải là người học Phật, mỗi ngày làm những việc giống như vậy thì sẽ cảm thấy việc giặt quần áo, nấu cơm mệt chết đi được, mỗi ngày cảm thấy công việc này buồn chán không chịu nổi. Nếu như là người học Phật, mỗi ngày đang hành Bồ Tát đạo, mỗi ngày đang tu sáu phép Ba La Mật thì an vui không gì bằng. Cũng đồng là công việc như vậy, nhưng chuyển được ý niệm thì hoàn toàn khác. Đây là bạn đang tu Bố thí Ba La Mật, là bạn đang cúng dường người cả nhà bạn, không những cúng dường người cả nhà bạn, mà cả nhà bạn ngăn nắp nề nếp sẽ làm cho hàng xóm người thân bạn bè của bạn xem gia đình bạn là một mô phạm, có thể ảnh hưởng được họ, giáo hóa được họ. Có thể thấy được bạn làm việc này không phải lợi ích một chúng sanh, mà lợi ích tất cả chúng sanh. Một người là mô phạm cho tất cả người, nhà của ta là mô phạm cho tất cả gia đình trên thế giới. Bạn buôn bán thì cửa hàng của bạn là mô phạm cho tất cả người mở cửa hàng, công ty của bạn là mô phạm cho tất cả công ty trong thiên hạ, đó gọi là hành Bồ Tát đạo, là phổ độ chúng sanh.

Bạn biết được cảnh giới của sáu phép Ba La Mật rộng lớn đến như vậy, cho nên triển khai đến tận hư không khắp pháp giới, không chỉ là một cái địa cầu này, cái địa cầu này thì quá nhỏ. Bạn có tâm lượng lớn đến như vậy, có tầm nhìn lớn như vậy thì đó là Bồ Tát Đại Thừa. Thông thường

Phật đem những ý này quy nạp lại, tất cả Bố thí đều không ngoài ba loại lớn. - Thứ nhất là Bố thí tài. Trong tài bao gồm nội tài và ngoại tài. Ngoại tài là vật ngoài thân, nội tài là thân thể, mỗi ngày thân thể chúng ta làm những lao tác, làm những công việc này thì đó là nội tài Bố thí. Làm lợi ích người khác, không phải vì chính mình, thì quả báo Tài bố thí có được là tiền của, cho nên bạn có tiền của nhiều đến như vậy. Tiền của bạn từ đâu mà đến vậy? Là do bạn tu từ đời trước, trong mạng của bạn có. Trong mạng của bạn không có thì có nghĩ cách nào cũng nghĩ không ra.

Thứ hai là Pháp bố thí. Thông minh trí tuệ là quả báo của pháp bố thí. Pháp bố thí là chịu dạy người khác, không bỏn xẻn, không bòn pháp, ta tự động thôi, người khác muốn học với ta thì ta tận tâm tận lực đi dạy người khác. Cho nên quả báo của pháp bố thí thì được thông minh trí tuệ.

Thứ ba là Bố thí vô úy. Quả báo của bố thí vô úy là được khỏe mạnh sống lâu. Thế nào gọi là vô úy? Chúng sanh có lo sợ bất an, bạn có thể an ủi họ, bạn có thể bảo hộ họ khiến cho thân tâm của họ có cảm giác an toàn, loại hiệp trợ này gọi là Bố thí vô úy, quả báo là được khỏe mạnh sống lâu.

Chúng sanh muốn tiền của, muốn thông minh, muốn khỏe mạnh sống lâu, đây là quả báo. Quả ắt phải có nhân, nếu họ không chịu tu nhân thì không thể có được quả báo này. Ba loại nhân này đều tu thì ba loại quả báo đều viên mãn, con người này là người khiến cho người thế gian chúng ta ngưỡng mộ. Chúng ta tỉ mỉ mà quán sát thế gian này, người đầy đủ tất cả ba loại quả báo này không nhiều. Có rất nhiều người được tiền của lớn nhưng chính họ trái lại không có thông minh trí tuệ con người này đời trước tu phước không tu huệ. Thế nhưng có rất nhiều người thông minh đều phải làm việc thay cho họ, đều nghe họ chỉ huy. Có rất nhiều vị là người thông minh trí tuệ do đời trước tu huệ không tu phước. Tỉ mỉ dùng những gì Phật pháp đã nói mà quán sát những cảnh giới đạo lý này, nhân quả của người thế gian này tuy là rất phức tạp nhưng cũng dễ nhìn ra, sau đó xem là chính mình phải nên làm thế nào trải qua ngày tháng? Thực tế mà nói, trí tuệ quan trọng hơn phước báo. Tiền của là phước báo, thế nhưng làm thế nào chi phối tiền của? Làm thế nào vận dụng tiền của là trí tuệ cao độ? Nếu như không có trí tuệ, giao cho bạn một số tiền của lớn thì bạn sẽ tạo vô lượng vô biên tội nghiệp nhưng chính mình còn cho rằng đã làm rất nhiều rất nhiều việc tốt. Kỳ thật không phải vậy, không có trí tuệ thì không thể phân biệt chân vọng, không thể phân biệt tà chánh, không thể phân biệt thị phi, thậm chí đến thiện ác lợi hại đều không thể phân biệt, luôn luôn chính mình làm sai việc mà chính mình không biết. Những việc này trong Liễu Phàm Tứ Huấn đều giảng giải rất rõ ràng.

Trong Liễu Phàm Tứ Huấn nói về thiện và ác, có thật có giả, có khuyết có đầy, có phải có trái, giải thích rất tường tận. Biểu hiện bên ngoài xem thấy là thiện, nhưng nếu như trải qua mấy năm thì nó biến chất, đổi xấu đi, vậy việc thiện này không phải là thật, không phải viên mãn. Hiện tại xem thấy không phải là việc thiện nhưng qua vài năm thì là việc thiện, đây là việc tốt chân thật, là chân thiện. Cho nên việc thiện ác phải xem kết quả của nó, không thể xem hiện tiền. Hiện tại thiện, vị lai vẫn là thiện, về sau càng thiện thì đó là đại thiện. Hiện tại thiện, tương lai bất thiện, vậy thì việc này không phải là thật. Cho nên nhãn quang phải sâu, phải rộng. Người xưa chúng ta thường nói: “Phòng hoạn ư vị nhiên”, đây là trí tuệ cao độ, không phải là người thiển kiến có thể làm đến được.

Thí dụ hiện tại có rất nhiều quốc gia đã ra những chính sách phúc lợi xã hội. Ngay sau đại chiến thứ hai, một số quốc gia tiên tiến phát khởi lại từ nơi phúc lợi xã hội. Chính sách này người thời đó đều khen ngợi là tốt, gần đây tôi ở Singapore, thấy Lý Quang Diệu phát biểu ra một đoạn văn có đăng lên báo chí là chế độ phúc lợi xã hội không tốt. Ông nói lúc đó ông xem thấy chính sách này cũng vui mừng, hiện tại nghĩ lại Singapore quyết định không thể thực hiện chính sách phúc lợi xã hội. Vì sao vậy? Ông đã nhìn thấy đều gì? Nước Mỹ bị chính sách phúc lợi làm chậm tiến, nước Pháp bị chậm tiến, có rất nhiều quốc gia thực hiện chính sách phúc lợi cũng chậm tiến, bởi vì có phúc lợi là có thể sinh sống, mọi người có thể không cần làm việc, do đó làm cho lão bá tánh lười biếng làm việc, thu nhập quốc gia sẽ không bằng số chi ra. Cho nên đến sau cùng, tài chánh quốc gia nhất định bị chính sách này kéo chậm lại, hiện tượng này sẽ rất đáng thương. Người thế nào có thể thấy được xa đến như vậy? Đây không phải là một việc tốt, cần phải trải qua mấy mươi năm thì mới xảy ra thiệt hại. Mọi người xem thấy lo sợ. Lo sợ thì phải làm sao? Có thể phế bỏ chính sách này hay không? Không cách gì phế bỏ. Nhân dân đã được lợi ích rồi thì chính phủ muốn phế bỏ cũng không thể được, chỉ có kéo dài đời này sang đời khác, kéo đến sau cùng thì quốc gia này sẽ bị kéo đến thấp nhất, không cách gì cứu vãn.

Chúng tôi ở nước Mỹ cũng nhiều năm. Nợ chưa trả hiện tại của nước Mỹ, đến đời thứ ba rồi mà vẫn trả chưa hết, bạn xem thật đáng sợ! Đầu đại chiến thứ hai, Mỹ là một quốc gia giàu có nhất thế giới, nhưng nay nước chủ nợ thì biến thành nước mang nợ. Vì sao phải gánh cái nợ đó? Chính sách phúc lợi đã kéo kinh tế xuống. Đây là nêu ra một thí dụ, thiện ác không phải là trên bề mặt mà bạn có thể nhìn thấy được, bạn phải nhìn vào chiều sâu, nhìn vào chiều xa thì bạn mới phát hiện. Trước mắt là tốt, hậu hoạn về sau vô cùng. Cho nên không phải là người đại trí tuệ thì họ làm sao có thể thấy được?

Thứ hai, Trì giới

Sáu phép Ba La Mật chính là đời sống của Bồ Tát. Trong sáu phép tắc này, phép thứ hai là Trì Giới. Sự trì giới này là nghĩa rộng, trong đó không có nghĩa hẹp. Trì giới chính là thủ pháp, phải dưỡng thành quan niệm thủ pháp. Giáo huấn của Phật phải tuân thủ, hiến chương pháp luật của quốc gia cho đến phong tục tập quán, quan niệm đạo đức đều phải tuân thủ, dù là thành văn hay không thành văn cũng phải tuân thủ.

Thứ ba, Nhẫn nhục

Nhẫn nhục chính là nói với chúng ta, không luận là đối với người với việc với vật đều phải có lòng nhẫn nại, phải có tâm bền bỉ. Trong Kinh Kim Cang, Phật nói rất hay: “Tất cả pháp được thành ở nhẫn”. Thành tựu được tất cả pháp thế xuất thế gian, nhất định phải có năng lực của nhẫn nại. Sự nghiệp lớn thì phải có lòng nhẫn nại lớn, việc nhỏ thì có lòng nhẫn nại nhỏ, không có lòng nhẫn nại không thể thành tựu. Nhẫn vì sao phải thêm nhục? Danh từ này là người xưa phiên dịch, những vị pháp sư này đặc biệt vì người Trung Quốc mà phiên dịch. Trong điển tích Phạn văn không có cái ý này. Người xưa Trung Quốc chúng ta, người đi học xem rất trọng cái nhục, các vị xem sách xưa cũng có lẽ nghe nói qua, người đi học thời xưa Trung Quốc cho rằng: “Kẻ sĩ thà chết không chịu nhục”. Sĩ là người đi học, ngày nay gọi là phần tử tri thức, phần tử tri thức chặt đầu không hề gì nhưng không thể làm nhục, họ xem cái nhục thật là nặng. Do đó pháp sư dịch Kinh viết thành nhẫn nhục, nhục mà cũng có thể nhẫn vậy thì còn cái gì mà không thể nhẫn chứ? Tất cả đều có thể nhẫn, đặc biệt là vì phần tử tri thức Trung Quốc dùng cái chữ này, chính là nói với chúng ta nhất định phải có thể nhẫn. Nhẫn được điều mà người khác không thể nhẫn thì bạn mới có thể thành tựu, thành tựu những điều mà người khác không thể thành mới có thể thành đại công, lập đại nghiệp.

Thứ tư, Tinh tấn

Tấn là tấn bộ, tinh là tinh thuần, thuần mà không tạp, không phải tạp tấn, không phải loạn tấn. Tinh tấn, ngày ngày cầu tiến bộ, có thể thấy được, giáo dục của Phật pháp không thể lạc hậu, nói Phật pháp cũ rồi, nói Phật pháp là thứ mấy ngàn năm về trước thì quan niệm này của bạn đã sai rồi. Phật pháp là vạn cổ thường tân, ngày ngày cầu tiến bộ, mãi mãi là đi trước thời đại, luôn luôn là dẫn dắt thời đại, không thể nói Phật pháp đi cùng với thời đại. Tinh thần này chúng ta cần phải nhận biết cho rõ ràng, nếu không thì không được xem là một đệ tử Phật, thì ở trong Phật pháp căn bản là không thể đạt được lợi ích chân thật. Phật mãi mãi là mới, vĩnh viễn là nguyên lý nguyên tắc chỉ đạo cho đời sống chúng ta, không luận là một thời đại nào, không luận là một khu vực nào. Nguyên lý nguyên tắc mà Phật pháp đã nói đích thực là siêu việt thời không, chúng ta gọi những điều này là Kinh điển, là chân lý vĩnh hằng bất biến.

Thứ năm, Thiền định

Có tiến bộ thì sau đó mới có thể đạt đến thiền định. Thiền định này so với ý nghĩa thiền định trong tu học mà thông thường chúng ta nói là hoàn toàn khác nhau. Thiền định này là chính mình, trong lòng có chủ tể, không thể bị cảnh giới bên ngoài làm dao động, đó gọi là định. Thiền định này là cách nói như vậy, không phải bảo bạn mỗi ngày ngồi xếp bằng quay mặt vào vách mà tu định, không phải cái ý như vậy. Đây cũng chính là như hai câu phía sau trong Kinh Kim Cang đã nói: “Bất thủ ư tướng, như như bất động”. Bất thủ ư tướng chính là không thể bị cảnh giới bên ngoài làm mê hoặc. Hiện tại kỹ thuật khoa học thế giới này phát triển, mỗi ngày càng mới, làm cho người thấy rồi hoa cả mắt. Nếu sau khi bạn thấy rồi vẫn như như bất động, tuyệt đối không bị nó dao động thì đó là bạn có công phu, bạn có chủ tể, đó gọi là có định.

Thứ sáu, Trí tuệ

Nếu như thấy những thứ này một cách thông suốt thấu đáo, rõ ràng tường tận, không phải ta không biết mà mọi thứ ta đều biết, đây gọi là trí tuệ, đó chính là Bát Nhã Ba La Mật trong sáu phép Ba La Mật. Bạn có trí tuệ thì ngày tháng của bạn sẽ dễ trải qua.

Chúng tôi nêu ra một thí dụ đơn giản, bạn mua một cái tủ lạnh, nếu dùng kỹ, khéo giữ gìn thì chí ít có thể dùng được mười năm. Trong mười năm thì sẽ có nhiều tủ lạnh được sản xuất với hình mẫu và chức năng được cải tiến rất nhiều, ta ngày ngày nhìn thấy, vậy ta có cần phải đi đổi cái mới không? Không cần thiết, nhà ta vẫn có thể dùng cái đã mua này vì nó vẫn còn tốt. Đây chính là bạn có sức định, bạn không thể bị cảnh giới bên ngoài làm dao động, không đến nỗi khi nhìn thấy thì cho rằng đây là cái mới, cái của ta cũ rồi, người ta đến xem thấy sẽ cho rằng ta rất đáng thương, ngượng ngùng quá, vội vàng đi đổi một cái mới. Đây là bạn đã bị cảnh giới bên ngoài mê rồi, bạn không có trí tuệ, bạn cũng không có sức định, bạn bị mê rồi, ngày tháng của bạn đương nhiên không dễ trải qua. Vì sao vậy? Những số tiền mà bạn kiếm được đều bị những cái đổi mới này lừa gạt. Cho nên Phật pháp gọi đó là ma, những thứ đó đều là ma, đủ thứ rối rắm đều là ma đến để dày vò bạn, đến để mê hoặc bạn, làm cho bạn động tâm, làm cho bạn đi mua đồ của họ, làm cho bạn đem tất cả tiền kiếm ra được cúng dường cung cấp cho những thứ đó, đó gọi là cảnh ma. Người có trí tuệ sẽ như như bất động, ta chỉ cần mặc được ấm, ăn được no, phòng ở không cần lớn. Việc này tôi thường nói, ở nhà cho lớn rồi phải làm nô lệ cho cái nhà thì thật là khổ sở, cho nên nhà càng nhỏ càng tốt, đời sống mới tự tại.

Người có trí tuệ thì đời sống an vui hạnh phúc mỹ mãn, trong lòng không có lo buồn, không có dính mắc, không có phiền não, không có phân biệt, không có chấp trước. Đời sống của con người này là thần tiên, làm gì như người thế gian sống khổ đến như vậy? Phật dạy bảo cho chúng ta như vậy, chúng ta thử nghĩ mà xem có đạo lý hay không?

V. Thứ năm là Mười Đại Nguyện Vương của Bồ Tát Phổ Hiền

Lễ kính chư Phật
Khen ngợi Như Lai
Rộng tu cúng dường
Sám hối nghiệp chướng
Tuỳ hỷ công đức
Thỉnh chuyển pháp luân
Thỉnh Phật trụ thế
Thường tùy Phật học
Hằng thuận chúng sanh
Hồi hướng tất cả

Khóa mục sau cùng là Mười Đại Nguyện Vương của Bồ Tát Phổ Hiền, đây là đạt đến cứu cánh viên mãn. Chỗ mà Bồ Tát Phổ Hiền nói không giống như các vị Bồ Tát khác, chính là tâm lượng phải rộng lớn, khởi tâm động niệm của họ đều là vì chúng sanh mà lo nghĩ, họ không có nghĩ chính mình, cũng không nghĩ đến gia đình, cũng không nghĩ đến một quốc gia của họ hay một thế giới. Điều mà họ nghĩ là tận hư không khắp pháp giới, cái tâm lượng này thì rộng lớn, lớn đến chân chánh viên mãn. Tâm lượng lớn như vậy nên tất cả hạnh mà họ đã tu đều là đại hạnh. Các vị đọc Kinh Vô Lượng Thọ rất nhiều rồi, trong Kinh Vô Lượng Thọ nói mỗi người ở Thế giới Tây Phương Cực Lạc đều là tu hạnh Phổ Hiền, mỗi một người cái tâm lượng nhãn quang đó rộng xa giống như Phật A Di Đà vậy.

Hành trì như vậy gọi là hạnh Phổ Hiền.



Từ Ngữ Phật Học Trong: Nền Tảng Học Phật