Thiên này có hai phần: Thuật ý và Dẫn chứng.
Thứ nhất PHẦN THUẬT Ý
Nói đến Phật quả thì xa vời vô song nhưng có tầng bậc bước lên, mây pháp (Pháp vân địa) cao lớn vô cùng mà có thứ tự đạt đến. Vì vậy bắt đầu gợi mở lòng thành bao la, thì phước sâu xa tạo ra Quả vị cao nhất; đầu tiên thành lập lời thề rộng lớn, thì nguyện tuyệt vời che phủ thời gian vị lai. Một ý niệm phát khởi thực hành, lập tức cảm đóa hoa tốt đẹp của vô lượng đời kiếp; một khoảng khắc cung kính khom mình, đã có được hạt sương ngọt ngào của Đại Thiên thế giới. Đây chính là nền móng của Đại thừa, lộ trình của Chủng Trí.
Thứ hai PHẦN DẪN CHỨNG
Như kinh A di đà nói: Đức Phật nói với A nan; Lúc đức Phật A di đà là Bồ tát, thường phụng hành hai mươi bốn lời nguyện này, hết sức trân trọng và yêu quý giữ gìn luôn kính cẩn thuận theo. Như thế nào là hai mươi bốn nguyện?
Nguyện thứ nhất: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho trong nước tôi không có chủng loại địa ngục ngạ quỷ súc sanh cho đến loài bò bay máy cựa. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ hai: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho trong nước tôi không có phụ nữ, người nữ sắp sanh đến trong nước tôi lập tức chuyển làm thân nam, vô ương số chư Thiên nhân dân và loài bò bay máy cựa, sanh đến nước tôi, đều hóa sanh trong hoa sen ở hồ nước bằng bảy báu, trưởng thành đều làm Bồ tát A la hán, cũng vô ương số. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ ba: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho nước tôi đất đai tự nhiên toàn bảy báu, dọc ngang rất rộng lớn, thoáng đãng vô cùng tận, mềm mại đẹp đẽ tự nhiên, nhà cửa cư trú y phục ăn uống cũng đều tự nhiên, giống như nơi cư trú của Thiên vương cõi Trời thứ sáu. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ tư: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho tên gọi của tôi khắp vô ương số cõi Phật trong mười phương đều nghe đến, đều khiến cho tất cả chư Phật ở giữa Tỳ kheo Tăng trên pháp tòa cao lớn, thuyết về quốc độ tốt lành và công đức của tôi; chư Thiên nhân dân và loài bò bay máy cựa, nghe đến tên gọi của tôi không loài nào không phát Từ tâm vui mừng hớn hở, đều khiến cho sanh đến nước tôi. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ năm: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho vô ương số chư Thiên nhân dân khắp mươi phương, cho đến loài bò bay máy cựa, nếu đời trước làm đều ác nghe đến tên gọi của tôi, muốn sanh đến nước tôi, lập tức trở về với chính nghĩa tự mình hối hận về sai lầm của mình, vì đạo làm điều thiện luôn luôn giữ gìn kinh giới, nguyện mong sanh đến nước tôi không đoạn tuyệt, thọ mạng chấm dứt đều làm cho không trở lại địa ngục ngạ quỷ súc sanh, lập tức sanh đến nước tôi bởi tâm đã nguyện Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ sáu: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho chư Thiên nhân dân trong vô ương số cõi Phật khắp mười phương, nếu người thiện nam người thiện nữ nào, muốn sanh đến nước tôi, vì tôi cho đến làm nhiều điều thiện, như bố thí cúng dường thắp hương nhiễu tháp, rải hoa thắp đèn treo phan kết lọng rực rỡ, xây tháp làm chùa cúng dường Sa môn, đoạn trừ ái dục trai giới thanh tịnh, nhất tâm niệm danh hiệu tôi, một ngày một đêm không hề đoạn tuyệt, đều khiến cho sanh đến nước tôi làm Bồ tát. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ bảy: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho chư Thiên nhân dân trong vô ương số cõi Phật khắp mười phương, nếu người thiện nam người thiện nữ nào, có làm Bồ tát đạo phụng hành sáu Ba la mật, hoặc làm Sa môn không hủy hoại kinh giới, đoạn trừ ái dục trai giới thanh tịnh, nhất tâm niệm danh hiệu tôi, muốn sanh đến nước tôi ngày đêm không hề đoạn tuyệt, nếu lúc người ấy thọ mạng sắp chấm dứt, tôi liền cùng với các Bồ tát A la hán, cùng bay đi đón tiếp, lập tức sanh đến nước tôi, sẽ làm vị Bồ tát A Duy Việt Trí có trí tuệ dũng mãnh. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ tám: Giả sử lúc tôi thành Phật, khiến cho các Bồ tát trong nước tôi muốn sanh đến cõi Phật ở phương khác, đều khiến cho không trải qua địa ngục ngạ quỷ súc sanh, đều khiến cho thành tựu Phật đạo. Đạt được nguyện này mới làm Phật, La hầu la đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ chín: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát A la hán trong nước tôi có diện mạo đều đoan chánh trong sáng đẹp đẽ tuyệt vời, tất cả cùng một sắc chất cùng một chủng loại, giống như người cõi Trời thứ sáu. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ mười: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát A la hán trong nước tôi, đều cùng một tâm niệm đã nghĩ đến muốn nói ra thì luôn biết trước ý nhau. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật
Nguyện thứ mười một: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát A la hán trong nước tôi, đều không còn tâm niệm phóng túng, hoàn toàn không có ý nghĩ đến phụ nữ, hoàn toàn không có sân hận ngu si. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ mười hai: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát A la hán trong nước tôi, đều khiến tâm kính mến lẫn nhau, hoàn toàn không có tâm niệm ganh ghét lẫn nhau. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ mười ba: Giả Sử lúc làm Phật, khiến cho các Bồ tát trong nước tôi muốn cùng nhau cúng dường vô ương số chư Phật khắp mười phương, đều tự nhiên hiện ở trước mặt lấy mang đi cúng dường chư Phật khắp nơi thảy đều đầy đủ, sau đó lúc mặt Trời chưa xuất hiện, liền bay về lại trong nước tôi. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ mười bốn: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát A la hán trong nước tôi, đến lúc ăn uống thì đều tự nhiên, trong bình bát bằng bảy báu có đầy đủ các món ăn tự nhiên ở trước mặt, dùng xong tự nhiên biến hóa sạch sẽ. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ mười lăm: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát trong nước tôi, thân thể đều có màu sắc vàng tía sáng ngời, ba mươi hai tướng tốt tám mươi vẻ đẹp đều khiến cho giống như đức Phật. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ mười sáu: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát A la hán trong nước tôi, cất tiếng nói giống như âm thanh của ba trăm tiếng chuông, thuyết kinh hành đạo đều như đức Phật. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề khônglàm Phật.
Nguyện thứ mười bảy: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho tôi nhìn thấy thấu suốt, nghe đến tận cùng bay đi tự tại, thù thắng gấp mười lần so với chư Phật. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ mười tám: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho tôi có trí tuệ thuyết kinh hành đạo gấp mười lần so với chư Phật đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ mười chín: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho chứ Thiên nhân dân và loài bò bay máy cựa trong vô ương số cõi Phật khắp mười phương, đều khiến cho được đi vào đạo, đều làm Bích chi Phật, A la hán, đều nhất tâm tọa thiền, cùng nhau muốn tính đếm biết tuổi thọ của tôi là mấy ngàn ức vạn kiếp số năm, đều khiến cho không có ai có năng lực biết được tận cùng tuổi thọ ấy. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ hai mươi: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho chư Thiên nhân dân và loài bò bay máy cựa trong tất cả ngàn ức cõi Phật khắp mười phương, đều khiến cho trở thành Bích chi Phật A la hán, đều nhất tâm tọa thiền, cùng nhau muốn tính đếm số lượng các vị Bồ tát, A la hán trong nước tôi để biết có mấy ngàn ức vạn người, đều kh iến cho không có ai có năng lực biết được số ấy. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ hai mươi mốt: Giả sử tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát, A la hán trong nước tôi có thọ mạng vô ương số kiếp. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ hai mươi hai: Giả sử tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát A la hán trong nước tôi, đều có trí tuệ dũng mãnh, tự biết ức vạn kiếp đời trước của mình, túc mạng đã làm mọi điều thiện ác, lại biết đến vô cùng tận, tất cả đều nhìn thấy thấu suốt, biết rõ sự việc quá khứ hiện tại vị lai khắp trong mười phương. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ hai mươi ba: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho các Bồ tát A la hán trong nước tôi, đều có trí tuệ dũng mãnh, giữa đỉnh đầy đều có ánh sáng. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Nguyện thứ hai mươi bốn: Giả sử lúc tôi làm Phật, khiến cho ánh sáng giữa đỉnh đầu tôi rực rỡ tuyệt vời, hơn hẳn ánh sáng củamặt trăng mặt Trời gấp trăm ngàn ức vạn lần, tuyệt vời hơn hẳn ánh sáng soi chiếu rạng ngời của chư Phật, chiếu rọi đến vô ương số thế giới, nơi tối tăm sâu xa khắp thiên hạ đều được sáng tỏ cùng tận, chư Thiên nhân dân và loài bò bay máy cựa, thấy ánh sáng của tôi thì không có loài nào không khởi Từ tâm làm điều thiện, đều khiến cho sanh đến nước tôi. Đạt được nguyện này mới làm Phật, không đạt được nguyện này thề không làm Phật.
Đức Phật bảo với A nan: Lúc đức Phật A di đà làm vị Bồ tát, lúc ấy phụng hành hai mươi bốn lời nguyện này, không phạm vào đạo pháp đoạn tuyệt mọi tài sắc, dốc tâm ý nguyện cầu, tích luỹ nhiều công đức, qua vô ương số kiếp, nay trở thành đức Phật, nguyện ước đều thành tựu, công lao Ngài không mất.
Lại trong kinh Phật thuyết Diệt Thập Phương Minh nói: Lúc ấy có Đồng tử họ Thích, tên gọi Thiện Duyệt, đến thưa với đức Phật rằng: Thưa Đấng Thiên Tôn giữa các Trời! Nay cha mẹ của con thân thể không được an lành, bất ngờ bị người sai trái làm cho gặp phải những điều phiền nhiễu, ngày đêm thức ngủ không được yên ổn, ra vào đi lại cũng gặp điều bức não, hoặc gặp phải loài phi nhân yêu quái mê hoặc gian trá tà vạy, không có cách nào phòng ngừa bảo vệ, xin nguyện Đức Thế tôn, chỉ bày cho con phương pháp, để kịp thời cứu giúp khiến không còn quấy nhiễu làm hại! Đức Phật bảo với Diện Thiện Duyệt: Ta sẽ nói cho con phương pháp của sự giúp đỡ bảo vệ.
Đức Phật dạy: Về phương Đông cách đây hơn tám ngàn na thuật cõi Phật, có thế giới tên là Bạt Chúng Trần Lao, đức Phật cõi ấy danh hiệu đẳng Hành Như lai, hiện nay đang thuyết pháp. Nếu người nào đi về phương Đông thì trước tiên nên cúi đầu lạy chí thành quy mạng, cúng dường đức Phật ở phương Đông, thì không có gì sợ hãi, không loài nào dám xâm phạm quấy nhiễu, có những việc làm phát khởi đều được như mong cầu.
Đức Phật bảo với Đồng tử: về phương Nam cách đây hơn mười ức trăm ngàn cõi Phật, có thế giới tên là Tiêu Minh Đẳng Yếu Thoát, đức Phật cõi ấy danh hiệu Sơ Phát Tâm Niệm Ly Khủng Úy Quy Y Siêu Thủ Như lai, hiện nay đang thuyết pháp. Nếu muốn đi về chuyên chú ý niệm không xa rời, thì không có gì sợ hãi, không gặp hoạn nạn gì. Đức Phật bảo với Đồng tử: Về phương Tây cách đây như Căng già hà sa quốc độ chư Phật, có thế giới tên là Thiện Tuyển Trạch, đức Phật cõi ấy danh hiệu Kim cang Bộ Tích Như lai, hiện nay đang thuyết pháp. Nếu muốn đi về phương Tây trước tiên nên cúi đầu lễ lạy hướng về đức Phật ấy nhất tâm quy mạng, thì không có gì sợ hãi, không gặp hoạn nạn gì.
Đức Phật bảo với Đồng tử: Về phương Bắc cách đây hơn hai vạn cõi Phật, có thế giới tên là Giác Biện, đức Phật cõi ấy danh hiệu Bảo Trí Thủ Như lai, hiện nay đang thuyết pháp. Nếu muốn đi về Phương Bắc thì giả thử đang ở tại chùa, cúi đầu làm lễ chí thành quy mạng đức Phật ấy, sẽ không có gì sợ hãi, không gặp hoạn nạn gì.
Đức Phật bảo với Đồng tử: Về phương Bắc cách đây hơn hai vạn cõi Phật, có thế giới tên là Trì Sở Niệm, đức Phật cõi ấy danh hiệu Hoại Ma Mạn Độc Bộ Như lai, hiện đang thuyết pháp. Nếu đến phương Đông bắc thì nên từ xa cúi đầu lạy chí thành quy mạng đức Phật ấy, thì ở nơi đó được an ổn không có gì sợ hãi.
Đức Phật bảo với Đồng tử: Về phương Đông Nam cách đây hơn hai Căng già hà sa đẳng cõi Phật, có thế giới tên là Thường Chiếu Diệu, đức Phật cõi ấy danh hiệu Sơ Phát Tâm Bất Thối Chuyển luân Thành Thủ Như lai, hiện nay đang thuyết pháp. Nếu đi về Phương Đông Nam trước tiên nên cúi đầu lạy, năm vóc sát đất nhất tâm quy mạng, sau đó mới tiến hành thì không có gì sợ hãi.
Đức Phật bảo với Đồng tử: Về Phương Tây nam cách đây hơn tám vạn cõi Phật, có thế giới tên là Phú Bạch Giao Lộ, đức Phật cõi ấy danh hiệu bảo cái Chiếu không Như lai, hiện nay đang thuyết pháp. Nếu đi về phương Tây nam thì trước tiên nên cúi đầu lạy đức Như lai ở phương ấy, dùng hoa từ xa tung rải nghĩ đến Vô Tướng, sau đó mới tiến hành di chuyển thì không có gì sợ hãi.
Đức Phật bảo với Đồng tử: Về phương Tây bắc cách đây hơn 6 Căng già hà sa cõi Phật, có thế giới tên là Trú Thanh Tịnh, đức Phật cõi ấy danh hiệu khai Hoá Bồ tát Như lai, hiện nay đang thuyết pháp. Nếu đi về phương Tây bắc thì trước tiên lễ lạy đức Phật ấy, tự quy y hối hận về sai lầm của mình, tu phạm thanh tịnh, sau đó xuất gia sẽ không có sợ hãi.
Đức Phật bảo với Đồng tử: Về phương Hạ cách đây hơn chín mươi cai (một trăm triệu) cõi Phật, có thế giới tên là Niệm Vô Đảo, đức Phật cõi ấy danh hiệu Niệm Sơ Phát ý Đoạn Nghi Bạt Dục Như lai, hiện nay đang thuyết pháp. Nếu lúc muốn ngồi, hoặc lúc vào đêm nằm nghỉ, niệm Đức Như lai này cúi đầu tự quy ý, thường dùng ý niệm Từ bi cứu giúp tất cả chúng sinh, su đó ngồi hay nằm sẽ không có gì sợ hãi, những nguyện cầu nhất định thành tựu.
Đức Phật bảo với Đồng tử: Về phương Thượng cách đây hơn sáu chục Căng già hà sa đẳng cõi Phật, có thế giới tên là Ly chư Khủng Cụ Vô Hữu Xứ Sở, đức Phật cõi ấy danh hiệu Tiêu Minh Đẳng Siêu Vương Như lai, hiện nay đang thuyết pháp. Nếu từ chổ ngồi đứng dậy luôn luôn lễ lạy đức Phật ấy tự mình quy ý cúng dường, thì không có gì sợ hãi, nơi đến được an lành.
Đức Phật bảo với Đồng tử; giả sử có người thọ trì kinh điển này, đọc tụng thông thạo giảng giải cho người khác, đầy đủ chu đáo khiến cho không thiếu sót giảm bớt thì sẽ không gặp sự xâm phạm oan ức. Hoặc đi giữa giặc cướp cũng không gặp điều ngay hiểm làm hại. Hoặc đi trong lửa lớn thì lửa lớn sẽ tắt hết. Hoặc đi giữa nước lớn mà cuối cùng không bị nhấn chìm. Trời Rồng Quỷ Thần và các thần linh xấu ác không dám xúc chạm người ấy. Các loài thú dữ không dám đến gần người ấy. Các loài tà ma quỷ quái không có năng lực nhiễu hại người ấy. Nếu ở nơi vắng vẻ an nhàn một mình, thì được sự che chở phù hộ của Như lai. Đức Phật giảng dạy như vậy, Đế Thích và Đồng tử Diện Thiện Duyệt cùng mọi người, nghe kinh vô cùng hoan hỷ cúi đầu đảnh lễ mà lui về.
Trong Địa Trì Luận nói: Bồ tát phát nguyện nói sơ lược có năm loại: 1. Phát tâm nguyện, 2. Sanh nguyện, 3. Cảnh giới nguyện, 4. Bình đẳng nguyện, 5. Đại nguyện. Lúc Bồ tát ấy mới phát tâm Vô thượng Bồ đề, thì gọi là phát tâm nguyện. Nguyện vì chúng sinh đời vị lai, thuận theo sanh vào đường thiện, thì gọi là Sanh Nguyện. Nguyện quán xét chính xác các pháp vô lượng cùng các thiện căn tư duy cảnh giới, thì gọi là Cảnh Giới Nguyện. Nguyện tất cả Bồ tát ở đời vị lai khéo léo thâu nhiếp mọi chuyện, thì gọi là Bồ tát Bình Đẳng Nguyện. đại nguyện ấy chính là Bình Đẳng Nguyện.
Bồ tát lại thuyết về mười loại đại nguyện:
Một là nguyện tất cả các loại cúng dường đầy đủ để cúng dường vô lượng chư Phật.
Hai là nguyện hộ trì tất cả chánh pháp của chư Phật.
Ba là nguyện thông suốt chánh pháp của chư Phật.
Bốn là nguyện sanh lên cung Trời Đâu Suất cho đến nhập Niết bàn.
Năm là nguyện thực hành tất cả các loại chánh hạnh của Bồ tát.
Sáu là nguyện thành thục tất cả chúng sinh.
Bảy là nguyện tất cả thế giới đều có năng lực hiện bày giáo hóa.
Tám là nguyện hết thảy Bồ tát nhất tâm phương tiện dùng Đại thừa hóa độ.
Chín là nguyện tất cả chánh hạnh phương tiện không có gì ngăn ngại.
Mười là nguyện thành tựu Vô thượng Chánh Giác.
Đây là Bồ tát an trú vào Sơ Địa, phương tiện dùng niềm tin thanh tịnh hiện tại để tu hành, đối với sự nghiện đời vị lại phát sinh mười đại nguyện:
Một là dùng tâm thanh tịnh thường nguyện cúng dường hết thảy chư Phật.
Hai là thọ trì bảo vệ Chánh pháp của chư Phật.
Ba là khuyến thỉnh chư Phật chuyển vận giáo pháp chưa từng xuất hiện.
Bốn là nguyện thành thục đầy đủ tất cả quốc độ để dung nhiếp chúng sinh.
Sáu là nguyện tất cả thế giới đều có năng lực hiện bày giáo hóa.
Bảy là tự làm thanh tịnh cõi Phật.
Tám là hết thảy Bồ tát cùng chung phương tiện dùng Đại thừa hóa độ.
Chín là lợi ích cho chúng sinh mà tất cả không trống rỗng.
Mười là ở tất cả các thế giới đạt được quả vị A Nậu Bồ đề thực hiện tất cả các Phật sự.
Đại nguyện như vậy có năng lực phát sinh vô lượng trăm ngàn đại nguyện, không xa rời pháp giới chúng sinh, không xa rời thế gian, các đại nguyện này đời đời thường thực hành hoàn toàn không thể lãng quên.
Trong kinh Hoa Nghiêm nói: Này các Phật Tử! Bồ tát an trú trong Hoan Hỷ Địa lấy mười nguyện làm đầu, phát sinh trăm vạn A tăng kỳ đại nguyện thuộc loại như vậy, bởi vì pháp không thể nào hết được mà phát sinh thệ nguyện này, vì thỏa mãn ý nguyện này cho nên tinh tiến nỗ lực thực hành. Những gì là mười nguyện? Đó là: Một chúng sinh không thể biết được. Hai Thế giới không thể hết được. Ba hư không chẳng thể tận cùng. Bốn Pháp giới không thể tận cùng. Năm Niết bàn không thể tận cùng. Sáu Đức Phật xuất thế không thể tận cùng. Bảy Trí tuệ của chư Phật không thể tận cùng. Tám Tâm sở duyên không thể tận cùng. Chín Trí phát khởi không thể tận cùng. Mười thế gian chuyển pháp luân mà trí chuyển không thể tận cùng. Nếu chúng sinh không còn thì nguyện của mình mới hết, cho đến trí phát khởi chuyển không còn thì nguyện của mình mới hết. Mà chúng sinh cho đến trí phát khởi trí chuyển thật sự không thể tận cùng, thì các nguyện và thiện căn của mình cũng không thể tận cùng được.
Lại trong kinh Văn thù sư lợi Vấn Bồ đề nói: Lúc bấy giờ Thiên tử hỏi Văn thù sư lợi rằng: Bồ tát có mấy tâm có thể thâu nhiếp nhân có thể thâu nhiếp quả? Văn thù đáp rằng: Các Bồ tát có bốn tâm có thể thâu nhiếp nhân có thể thâu nhiếp quả. Những gì là bốn tâm? Đó là: 1. Sơ phát tâm, 2. Hành đạo tâm, 3. Bất thối chuyển tâm. 4. Nhất sanh bổ xứ tâm. Sơ phát tâm làm nhân duyên cho hành đạo tâm, hành đạo tâm làm nhân duyên cho Bất thối chuyển, bất thối chuyển tâm làm nhân duyên cho Nhất Sanh bổ xứ tâm.
Vả lại, Sơ Phát tâm giống như gieo hạt giống giữa ruộng, hành đạo tâm giống như hạt giống sinh trưởng, bất thối chuyển tâm giống như hoa quả mới thành tựu, Nhất tâm bổ xứ tâm giống như hoa quả có công dụng.
Đồng thời, Sơ tâm giống như thợ làm xe trung vật liệu, Hành đạo tâm giống như gọt đẽo lo liệu vật liệu gỗ sắt, Bất thối chuyển tâm giống như lắp đặt làm xong các bộ phận gỗ sắt. Nhất sanh bổ xứ tân giống như xiếc xe hoàn thành đến lúc vận chuyển. Hơn nữa, Sơ phát tâm giống như vầng trăng mới xuất hiện, hành đạo tâm giống như vầng trăng ngày mồng năm, Bất thối chuyển tâm giống như vầng trăng ngày mồng mười, Nhất sanh bổ xứ tâm giống như vầng trăng ngày mười bốn, trí tuệ Như lai giống như vầng trăng đêm mười lăm tròn sáng vằng vặc.
Và Sơ phát tâm có năng lực vượt qua địa vị Thanh văn, Hành đạo tâm có năng lực vượt qua địa vị Bích chi Phật, Bất thối chuyển tâm có năng lực vượt qua địa vị Bất định, Nhất sanh bổ xứ tâm an trú trong địa vị của Định.
Lại nữa, Sơ phát tâm giống như người bệnh cầu tìm thuốc chữa, hành đạo tâm giống như phân biệt biết rõ loại thuốc, bất thối chuyển tâm giống như người bệnh uống thuốc, Nhất sanh bổ xứ tâm giống như bệnh được chữa lành.
Còn trong kinh Đại Tập nói: Lúc bấy giờ Xá lợi phất thưa với đức Phật rằng: Thưa Đức Thế tôn! Lúc Bồ tát mới phát tâm Vô thượng Bồ đề, nghe các chúng sinh có công hạnh như vậy, không ngạc nhiên không sợ hãi, điều này thật là khó, không thể nghĩ bàn được! Đức Phật dạy: này Xá lợi phất! Ý ông nghĩ thế nào? Giống như Sư tử tuy là mới sanh ra nhưng nghe Sư tử gầm lên Sư tử con có sợ hãi hay không? Thưa Đức Thế tôn, không sợ gì cả! Bồ tát Ma ha tát lúc mới phát tâm Vô thượng Bồ đề, nghe hành của chúng sinh cũng lại như vậy. Này Xá lợi phất! Ý ông nghĩ thế nào? Lửa nóng tuy nhỏ bé mà có sợ củi khô hay không? Thứa Đức Thế tôn, không sợ gì cả! Bồ tát mới phát tâm Vô thượng Bồ đề xong, có được ngọn lửa trí tuệ cũng lại như vậy. Này Xá lợi phất! Nay lấy sự việc chẳng phải ví dụ làm ví dụ. Này Xá lợi phất! Ví như ngọn lửa mạnh cùng với các cây củi khô, giao ước hạn kỳ bảy ngày sẽ đánh nhau lớn. Lúc bấy giờ tất cả các loại cành lá thân cây khô cứng, hết thảy cùng tập trung lại cao ngút như núi Tu di. Bấy giờ lửa dữ có một bạn thân, mới nói cho biết rằng: Nay ông tại sao không tự trang nghiêm tìm nhiều người cứu giúp, phe bên kia có chi viện, ông chỉ có một mình, sao có thể đối phó được? Lúc ấy ngọn lửa đáp rằng: Phe bên kia tuy nhiều mà sức ta có thể đối đầu không cần đến bạn bè. Này Xá lợi phất! Bồ tát Ma ha tát cũng lại như vậy, tuy các phiền não cùng nhau hòa hợp lại thì thế lực ấy hừng hực mạnh mẹ, mà lực trí tuệ của Bồ tát có năng lực tiêu diệt làm cho hàng phục. Như một viên thuốc A già đà có năng lực phá trừ chất độc lớn, trí tuệ của Bồ tát cũng lại như vậy, thuốc trí tuệ nhỏ bé có năng lực phá hủy vô lượng chất độc phiền não to lớn.
Trong kinh Phật Bổn Hạnh nói: Lúc bấy giờ đức Phật bảo với các Tỳ kheo Tăng, phát ra lời nói như vậy: Tỳ kheo các ông, Ta nhớ vào thời lâu xa trước kia, có một người nghèo khổ xin ăn nuôi sống, từ một thành nọ đi đến thành Ba la nại. Đến thành ấy rồi, tất cả người ăn xin trong thành ấy thấy người này đều quát mắng rằng: Ông từ đâu xuất hiện mà đến nơi này? Tức thì ngăn cản không cho phép đi lang thang xin ăn. Lúc bấy giờ người kia thấy có chướng ngại thì dấy lên tư duy rằng: Mình đối với những người kia không có lỗi lầm gì, tại sao chướng ngại mình cầu xin sự giúp đỡ? Lúc ấy ở thành Ba la nại có một vị Trưởng giả, bị mất chiếc bát bằng đồng, bấy giờ Trưởng giả kia cầu tìm chiếc bát bằng đồng nơi đó không được, bởi vì tìm chiếc bát bằng đồng cho nên đến một thôn khác. Lúc ấy người ăn xin kia được chiếc bát bằng đống phân đem theo trên đầu cây gậy, sau đó đi vào trong thành Ba la nại, từ đường này đến đường khác, từ ngõ này đến ngõ khác, từ ngã rẽ này đến ngã rẽ khác, từ góc phố này đến góc phố khác, miệng nói to lời rằng: Chiếc bát bằng đồng này là đồ vật của ai, ai biết thì nhận lấy! Nhưng mà người kia đi lang thang khắp nơi tìm kiếm người chủ của chiếc bát cuối cùng vẫn không thể tìm được. Đã không gặp được người chủ, nên liền đi đến giao cho vua Phạm Đức. Cho đến khi Trưởng giả nghe có người từ trong đống phân kia nhặt được một chiếc bát bằng đồng treo ở trên đầu cây gậy, mang đi vào thành Ba la nại kia, đi khắp nơi tìm hỏi mà không biết người chủ nơi nào, đã không gặp được người chủ thì đem đến giao cho vua Phạm Đức. Đã nghe tin này rồi liềnđến bên vua Phạm Đức, đến rồi thưa rằng: Đại vương nên biết, trước đây có người ăn xin đã tặng chiếc bát bằng đồng cho Đại vương, đó là vật của tôi. Lúc ấy vua Phạm Đức sai người đi tìm mọi người ăn xin kia, mà nói cho biết rằng: Chiếc bát bằng đồng ông đã tặng từ trước đây, nay Trưởng giả này nói là vật của mình, sự việc đó như thế nào? Người ăn xin liền thưa với vua Phạm Đức rằng: Thưa Đại vương, đúng như vậy! Tôi vốn không biết chiếc bình bát bằng đồng ấy là vật của ai, tôi đã nhặt được ở trong đống phân, rồi treo vào đầu cây gậy mang đi vào trong thành, hỏi thăm khắp nơi nhưng không biết người chủ ở đâu, nên tặng cho Đại vương tùy sự sử dụng của Đại vương. Bấy giờ Phạm Đức nghe lời ấy rồi, tâm rất hoan hỷ mà nói với người ăn xin rằng: Này người nhân ái! Nay ông muốn cầu xin nguyện ước như thế nào đối với ta, ta sẽ ban cho ông, mà trả lại chiếc bát bằng đồng kia cho Trường giả! Lúc ấy người ăn xin bày tỏ với vua Phạm Đức mà nói lời như vậy: Thưa Đại vương! Nếu bây giờ nhất định phải hoan hỷ ban cho tôi nguyện ước, thì nguyện xin Đại vương cho tôi được làm vua đối với tất cả mọi người ăn xin ở trong thành Ba la nại này! Lúc ấy vua Phạm Đức lại nói với người ăn xin rằng: Nay tại sao cần phải làm vua đối với những kẻ ăn xin ấy, chỉ nên cầu xin những nguyện ước tốt đẹp khác, hoặc là vàng bạc châu báu, hoặc là tìm trong nước có thôn xóm nào tốt đẹp nhất dùng để phong tặng, Ta sẽ ban cho ông! Lúc ấy người ăn xin lại thưa với nhà vua rằng: Nếu nhà vua hoan hỷ ban cho tôi nguyện ước, thì trước mắt tôi đang muốn đạt được lời nguyện trước mà thôi. Nhà vua bèn trả lời rằng: Tùy sự mong muốn của ông, thuận cho ông thực hiện thôi! Bấy giờ ở trong thành Ba la nại, tất cả có năm trăm người ăn xin y theo lời nguyện ước của người ăn xin ấy, cùng gọi mà tập trung lại nói cho biết rằng: Nay tôi được cho phép làm vua của các người, các người cần phải nghe theo sự sắp xếp của tôi! Lúc ấy những người ăn xin hỏi vị vua ăn xin rằng! Nay ông sắp xếp chúng tôi thế nào, khiến làm những việc gì? Bấy giờ người ăn xin nói: Các ông cùng nhau hoặc có lúc đưa tôi đặt lên tên vai, hoặc có lúc nắm tôi mà cõng trên lưng, những người còn lại đều làm tùy tùng của tôi vây tròn xung quanh mà đi. Tất cả năm trăm người ăn xin ấy nghe lời như thế rồi, lập tức thuận theo sự sắp xếp, hoặc có người khiêng kiệu, hoặc có người cõng trên lưng, đi lang thang khắp nơi, gặp những nơi có lễ tiệc mời vào ăn uống thì vào nơi ấy xin ăn, xin được rồi mang về một nơi, phân chia ra cho tất cả cùng nhau ăn uống. Cách làm như vậy nuôi sống thân mạng qua thời gian dài. Lúc ấy có một người ăn xin ở nơi che khuất một mình ăn hạt Ma hô trà ca (Tùy nói là viên thuốc Hoan Hỷ), bấy giờ vị vua ăn xin đến bên cạnh người kia đoạt lấy thức ăn ấy rồi mang đi. Đồ chúng của nhà vua ăn xin gồm năm trăm kẻ ăn mày, đuổi theo vị vua ăn xin chạy đến một nơi rất xa, mọi người đều mệt mỏi, đã mệt mỏi lắm nên tất cả đều quay trở về. Vị vua ăn xin kia thân lực khoẻ mạnh vô cùng, chạy mà không hề mệt mỏi, lại rất xa xôi bèn quay đầu lại nhìn xem, nhưng năm trăm người ăn xin thảy đều khuất dạng. Đã không trông thấy nữa rồi, bèn đi vào trong một khu vườn lấy nước rửa tay chân, ngồi xuống một chổ mát mẻ muốn ăn thức ăn lấy được. Trong lúc chưa ăn thì sanh tâm hối hận, nay mình không tốt, nay mình tại sao ở bên cạnh người kia đoạt lấy thức ăn của họ? Lại làm cho bọn người tùy tùng của mình phát điên đuổi theo, thức ăn đã nhiều một mình ăn không hết. Nếu trong thế gian có các bậc Thánh nhân, nguyện cầu biết rõ ý tôi mà đến nơi này, tôi sẽ phân cho. Phát tâm này rồi, có một vị Bích chi Phật, tên gọi là Thiện Hiền, từ trong hư không cưỡi mây mà đến, ở trước mặt người kia. Từ hư không hạ xuống, cách nhau không xa lắm. Người ấy từ xa trông thấy vị Bích chi Phật kia có oai nghi đường bệ, bước đi đều đặn, cử chỉ khoan thai không chậm không nhanh. Trông thấy như vậy rồi, đối với vị Bích chi Phật ấy tâm phát sinh niềm tin thanh tịnh. Có được niềm tin thanh tịnh rồi dấy lên nghĩ như vậy: Bởi vì xưa kia mình đã chịu cảnh nghèo hèn hành hạ, thậm chí hiện tại cũng không gặp được phước đức như vậy, đối với người như vậy mà không thực hành bố thí cung kính cúng dường. Xưa kia nếu mình gặp được phước điền như vậy, thì hôm nay sẽ không gặp phải cảnh khốn đốn này, cũng không nên làm cho người khác bị bức bách cấp thiết mà có được mạng sống. Nay mình đem thức ăn này dâng lên người Tiên, không biết người Tiên này có thể tiếp nhận hay không? Nếu được tiếp nhận, nguyện cầu trong tương lai mình sẽ tránh khỏi thân mạng khốn khó nghèo hèn hành hạ này. Dấy lên ý nghĩa này rồi, liền mang thức ăn này dâng lên người Tiên này. Nhưng Vị Bích chi Phật có pháp như vậy, chỉ hiện bày thần thông giáo hóa chúng sinh, lại không có pháp nào khác. Lúc ấy vị Bích chi Phật tiếp nhận thức ăn kia, từ mặt đất bay vọt lên hư không mà đi. Người ấy trông thấy sự việc diễn ra như vậy nên hoan hỷ nhảy múa, niềm sung sướng tràn trền thân thể không làm sao tả xiết. Bởi vì hoan hỷ cho nên cúi đầu chắp tay, từ xa lễ lạy dưới chân vị Bích chi Phật ấy. Lễ lạy như vậy rồi tâm phát lời nguyện rằng: Nguyện cho thân này của con đời vị lai, luôn luôn được gặp đấng Thế tôn như vậy; hoặc là hơn hẳn như vậy, được Đấng Thế tôn ấy thuyết giảng về chánh pháp, nguyện cho con vừa nghe liền được hiểu rõ ràng. Lại nguyện cho con ởtrong đời vị lai, sanh trong gia đình dòng họ cao quý có uy đức to lớn, làm vị vua sửa trị cảm hóa lại không ở trong những người khốn khổ kia. Lại phát ra lời nguyện này: Nguyện cho con đời đời kiếp kiếp không rơi vào ác đạo.
Đức Phật bảo với các Tỳ kheo: Ta nói lời như vậy, Tỳ kheo các ông nếu có tâm nghi ngờ vào lúc xưa kia, vị vua của kẻ ăn xin trong thành Ba la nại, bố thí cho vị Bích chi Phật món ăn Ma hô trà ca này là ai vậy? Đừng dấy lên cách nhìn sai khác, đó chính là Tỳ kheo Bà Đề Lợi Ca. lúc ấy vị vua ăn xin bố thí món ăn cho vị Bích chi Phật, nhờ nghiệp quả kia mà sanh vào dòng họ vô cùng cao quý của Đại tộc thích Ca, tiền bạc của cải không bao giờ thiếu hụt, bởi vì lời nguyện xưa kia, cho nên nay được ở địa vị vua chúa. Lại nhờ vào lời nguyện xưa kia mà không rơi vào ác đạo, thường sanh vào cõi Trời người thụ hưởng nhiều vui sướng. Lại nhờ lời nguyện xưa kia nay được gặp Ta, mà được xuất gia, thọ cụ túc giới, đắc quả A la hán. Ta lại thọ ký, ở trong hàng đệ tử Thanh văn của Ta, người ở dòng họ cao quý xuất gia đầu tiên chính là Tỳ kheo Bà đề lợi ca vậy. Tụng rằng:
Hiền nhân ngưỡng mộ khí tiết cao,
Chí nguyện gieo nhân tố Bồ đề,
Cưỡi Hạc bay qua chẳng trước sau,
Thúc ngựa vượt khỏi ruộng vua chúa.
Xưa cầu khấn lập thành hoằng thệ,
Cảm báo ứng thành thân Di Đà
Bậc Năng Nhân tu Bát Chánh Đạo,
Vượt lên trước qua chín Đại kiếp.
Danh tiếng lưu truyền khắp Tam Giới,
Từ bi hóa độ khắp Đại thiên,
Che hồng trần chấm dứt vọng tưởng,
Phàm Thánh cùng vui mừng hớn hở.
Chúng sinh cùng chí nguyện hướng về,
Giữ lợi ích dẫn dắt tâm tư,
Sanh tử ắt vĩnh viễn không còn,
Há giống như người Tiên Trang Lão?