Home > Khai Thị Phật Học
Kinh Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải
Đại Sư An Thế Cao | Sa Môn Thích Minh Thông, Việt Dịch


Lời Thưa

Có nhóm Phật tử phát tâm muốn học kinh điển, nhưng lại không có được nhiều thời gian do công việc làm ăn bận rộn.  Chúng tôi rất tùy hỷ nên khuyên học Bát Đại Nhân Giác Kinh.  Do vì văn kinh này ngắn gọn, lời lẽ rõ ràng, lại được phân chia theo sự lý từ thấp lên cao, từ phàm phu địa cho đến viên mãn Phật quả đều không ngoài tám điều cương lĩnh này.  Thứ nữa đối với từ chương được chia ra rất rõ, mà nghĩa lý thì sâu xa không cùng tận.  Cái tuyệt vời nhất là kinh văn được làm theo dạng thể thơ, rất tiện cho việc học thuộc lòng.  Bởi vì muốn liễu giải được một bộ kinh thì trước tiên cần phải lời kinh học thuộc, nếu cả kinh văn cũng không nắm vững thì nghĩa thú trong đó làm sao có thể liễu giải thể hội được.  Kinh văn đã không thuộc, nghĩa lý cũng không hiểu thì làm sao đem lời Phật dạy để áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt hằng ngày. 

Kinh Bát Đại Nhân Giác này vốn đã có nhiều người dịch và giảng giải rồi, đặc biệt nổi bật có 10 bài giảng của Hòa-thượng Tinh Vân, và Bát Đại Nhân Giác do Hòa-thượng Thanh Từ giảng giải, hai nhà này đều có phong thái đặc thù riêng.  Nhưng do vì muốn cho người học có thêm tư liệu để dễ dàng nắm vững được cương lĩnh của Kinh, cũng lấy đây làm cơ hội cho tự mình học tập tự mình ghi chép ra.  Cho nên trong bài thuyết giảng của Hòa-thượng Tịnh Không về kinh này, chúng tôi chỉ chọn lấy những chỗ thật tế tự mình có thể áp dụng và học tập để lược dịch ra, mà không theo sát lời giảng của Hòa-thượng. Còn phần kinh văn Việt dịch thì chúng tôi lấy nguyên văn từ bài dịch của Hòa-thượng Thanh Từ.  Nay có duyên lành, được Phật-tử phát tâm đánh máy, yêu cầu chúng tôi coi lại và sửa chữa các phần chính tả.  Do vì ghi chép dịch thẳng từ bài giảng xuống cho nên lời văn có nhiều chỗ không được trôi chảy cho lắm. Hy vọng những ai đọc được, xin chớ chấp vào văn tự, cần phải đạt ý quên lời, tỏ ngộ tự tâm, phát tâm dõng mãnh tu tập.  Được như thế thì không gì vui sướng hơn.  Chúng tôi chỉ một tâm nguyện đem Phật pháp rộng kết duyên lành với tất cả chúng sanh. Còn nếu phần dịch có chỗ nào không đúng theo nghĩa thú của kinh, cũng như không làm sáng tỏ được lời giảng của đại lão pháp sư, thì kính  xin các bậc sáng mắt phủ chính cho. 
Nam mô Hoan Hỷ Tạng Bồ-tát Ma-ha-tát.

Tam Bảo đệ tử
Thích Minh Thông kính đề cuối đông Kỷ Sửu, tháng 12 năm 2009

 

LƯỢC GIẢI ĐỀ KINH

Phật pháp không luận là đại tiểu thừa kinh điển, có thể nói chữ chữ câu câu đều bao hàm vô lượng nghĩa.  Lần này nhân vì thời gian chúng ta có hạn, cho nên chỉ có thể cùng quý vị giới thiệu giản lược bộ kinh này.  Thời gian tuy ngắn, nhưng chúng ta cũng đem bộ kinh giảng viên mãn, đây là quy củ nhất định.

Đức Thế Tôn sau khi thị hiện thành đạo, ngài liền mở ra công tác giáo học.  Mọi người đều biết, chỗ nói “giảng kinh hơn 300 hội, thuyết pháp 49 năm.”  Từ câu nói này, chúng ta thâm thâm thể hội đến được Thế Tôn những năm còn tại thế, có thể nói một đời đều là công tác giáo học.  Xuyên suốt 49 năm chưa từng gián đoạn qua, chưa từng ngưng nghỉ qua.  Lần này chúng ta có nhân duyên thù thắng tại Cao Dã Sơn, Bổn giác viện trụ lại 5 ngày.  Ở đó cùng mọi người giảng giải “Quán kinh” tam phước.  Giới thiệu Ấn Quang đại sư tâm yếu truyền pháp.  Cùng chư vị thuyết minh về chư Phật, Bồ-tát.  Các ngài khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác, đều xuất tự tánh, tánh đức tự nhiên lưu lộ.  Nói cách khác, hay tùy thuận tánh đức, đấy gọi làm Phật, Bồ-tát.  Còn trái nghịch tánh đức, đây là phàm phu cho nên học Phật là phải học đòi theo Thế Tôn, hiệu bắt chước theo tổ sư đại đức. Chúng ta phải học sao cho được giống như các ngài.  Đây là chân chánh học Phật.  Làm được rồi mới bắt đầu nói đây gọi Thánh nhân. Sau khi nói ra rồi, tự mình cũng làm được, thời gọi là hiền nhân.  Nói được mà làm không được.  Tôi nói khó nghe một chút, đó gọi là kẻ lường gạt, tự khinh mình khi người.  Cho nên giáo học Phật pháp đem đức hạnh được liệt kê tại đệ nhất trọng yếu. Nho gia giáo học cũng đem đức hạnh liệt tại đệ nhất.  Trong tứ khoa của đức Khổng Tử: điều thứ nhất là đức hạnh.  Thứ 2: ngôn ngữ. Thứ 3: chánh sự.  Thứ 4 mới là văn học.  Cho nên thế xuất thế gian, chỗ Thánh nhân giáo hóa dụng tâm, lập chí, chúng ta không thể không minh liễu.  Không minh liễu thời khi học tập bạn sẽ không có chỗ hạ thủ.  Nên chúng ta phải vô cùng coi trọng đạo đức tu dưỡng.

Phật giáo là nền giáo dục của Phật đà, là nền giáo dục chí thiện viên mãn của Phật đà đối với 9 pháp giới chúng sanh.  Đây là điều đầu tiên chúng ta có thể khẳng định, phải nhận thức rõ ràng.  Thì con đường tu học của chúng ta mới không đến nỗi đi lạc vào đường hiểm.  Kinh điển là giáo học của Phật,  dùng cách nói hiện nay tức là sách giáo khoa của Phật giáo.

Bộ kinh Bát Đại Nhân Giác này được phiên dịch vào thời kỳ rất sớm.  Chúng ta thấy được thể lệ dịch kinh, mỗi bộ kinh vừa mở ra nhất định có: “Như thị ngã văn, nhất thời Phật tại chỗ nào đó cùng với thính chúng…những phần ghi chép này, ở bộ kinh này phần mở đầu không có.  Đây là lúc ban sơ Phật giáo vừa du nhập đến Trung quốc,  thể lệ dịch kinh hãy còn chưa được kiến lập (đặt ra). Bộ kinh này chúng ta từ trong nội dung thấy được, đại khái là An Thế Cao đại sư từ trong lời dạy của đức Phật sở thuyết 49 năm, trích lục phiên dịch thành 8 điều tối trọng yếu.  Vì chúng ta làm một giới thiệu giản đơn, có tính chất như thế; cùng với “Tứ Thập Nhị Chương kinh” tính chất rất tương đồng.  “Kinh 42 chương thật ra “hoàn toàn không hẳn là do Phật thuyết ra bộ kinh này, đều là tại trong tất cả kinh điển trích lục ra, trích ra 42 điều.  Ngài Trúc Pháp Lan cùng Ca Diếp Ma Đằng ban sơ phiên dịch, kinh Phật được phiên dịch bộ thứ nhất là “Kinh 42 chương”(Tứ thập nhị chương kinh).  Hai bộ kinh này được dịch ở thời gian rất gần nhau, kinh này so với kinh 42 chương được giới thiệu càng đơn giản hơn.  Có thể nói, là kinh Phật học khái yếu, là từ trong kinh điển trích lục ra làm khải yếu. Hai điều trước thuộc về pháp tiểu thừa, sáu điều sau thuộc về pháp đại thừa.  Có thể nói là giới thiệu được tương đối đầy đủ, vô cùng tinh yếu.  Rất thẳng tắt cho chúng ta học tập, đặc biệt là đối với người sơ học, mới tiếp xúc Phật pháp.  Bây giờ chúng ta bắt đầu xem phần đề kinh.

“Phật thuyết Bát Đại Nhân Giác Kinh”.

Có rất nhiều kinh điển trên đề kinh, không có hai chữ “Phật thuyết”, tại làm sao có nhiều bộ kinh thêm vào hai chữ “Phật thuyết”, lại có bộ không dùng “Phật thuyết?”.  Đây là ý nghĩa gì? Điều này chúng ta tất phải nên hiểu.  Một số kinh điển, ở trong Phần Chánh Tông, câu nói thứ nhất là do Phật thuyết ra, thì bộ kinh này trên đề kinh thường thêm vào hai chữ “Phật thuyết”.  Còn như câu nói thứ nhất không phải do Phật nói, mà là do đệ tử Phật đề xuất ra thưa hỏi, những kinh điển có thể loại giống như thế, theo lệ thường thì không thêm vào hai chữ “Phật thuyết”.  Bộ kinh này thuộc loại kinh kết tập.  Chữ chữ câu câu đều là xuất từ kim khẩu của Phật tuyên giảng, cho nên trên đề kinh thêm vào hai chữ “Phật thuyết”.

Phần lập đề của kinh nhận đề mục của nó đều có quy củ nhất định.  Người xưa giảng cho chúng ta có 6 loại lập đề.  Bộ kinh này ở trong 6 loại lập đề thuộc về “Nhân pháp” lập đề.  “Phật” là người, “Bát đại nhân giác” là pháp.  Đề kinh này có nhân, có pháp, không có “tỷ dụ” nên nó là “Nhân pháp” lập đề.  “Phật” nghĩa là giác ngộ, trí huệ, đầy đủ giác ngộ viên mãn, trí huệ viên mãn.  Nói cách khác là giác ngộ triệt để chân lý vũ trụ nhân sanh.  Người này, chúng ta sẽ xưng là Phật đà.  Chỗ này là chuyên chỉ cho đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật.  Nhân vì bộ kinh này là do ngài sở thuyết.

“Giác” có ba ý nghĩa:  Tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn.  Tự giác là đối với bất giác mà nói.  Lục đạo phàm phu là bất giác.  Mà bất giác chính là mê.  Chân chánh giác ngộ, họ sẽ siêu vượt lục đạo.  Chúng ta thông thường giảng ngoài lục đạo là tứ thánh pháp giới: Là Thanh văn, A-la-hán, Bích chi Phật, có quyền giáo Bồ-tát, có Phật của tạng giáo, có Phật của thông giáo. Những vị này đều là thuộc về tự giác.  Nếu như tự giác lại có thêm giác tha, thì đây là Bồ-tát.  Bồ-tát chúng ta xưng làm chánh đẳng chánh giác.  Ở trong Phật pháp giảng là: ”Phá một phẩm vô minh, chứng một phần pháp thân”.   Tại Hoa Nghiêm hội thượng xưng pháp thân đại sĩ, đây là chân chánh Bồ-tát, chánh đẳng chánh giác.  Giác hạnh viên mãn chính là vô thượng chánh đẳng chánh giác, tại pháp thân đại sĩ vị thứ 41 trở lên mới là Phật quả cứu cánh viên mãn.  Đức Bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật,  Ngài chỗ chứng đắc chính là quả Phật cứu cánh viên mãn, chúng ta xưng ngài là Phật đà.  Bộ kinh này là Phật thuyết nên đề kinh thêm vào “Phật thuyết”.

Chữ “Bát” là giảng 8 loại phương pháp giác ngộ.  Cho nên trong 8 điều bên dưới có giác ngộ, có giác tri.  Tám loại phương pháp giác ngộ này, có thể nói nó vô cùng trọng yếu.  Hoàn toàn đều là giảng từ trên cương lĩnh, giảng từ trên nguyên tắc.  Cho nên, chúng ta nhất định phải đem nó nắm chắc.  thì tự mình mới có thể đi trên con đường giác ngộ.

“Đại nhân” là danh từ tôn xưng đối với Phật, đối pháp thân Bồ-tát.  Tám phương pháp này đều là những nguyên lý, nguyên tắc giác ngộ của chư Phật Như-lai, pháp thân Bồ-tát. Cho nên  chúng ta cần phải học tập.  Nên đề kinh nói là: “Bát đại nhân giác”.

“Kinh” là thông xưng , trong Phật pháp xưng là khế kinh.  “Thượng khế chư Phật sở chứng chi lý, Hạ khế chúng sanh khả độ chi cơ”.  Chữ Kinh có rất nhiều nghĩa.  Theo chú thích trong Hoa Nghiêm kinh nói có 10 thứ.  Hiện nay kinh điển đều lưu thông rất rộng.  Quý vị có thể tự mình tham khảo thêm.

Kinh điển đều là từ Ấn-độ truyền đến Trung quốc, nguyên văn là viết bằng phạn văn.  Sau khi đến Trung quốc nhất định phải thông qua phiên dịch, đem phạm văn dịch thành trung văn tự Trung quốc, tại Trung quốc mới có thể phổ biến lưu thông.  Thời xưa công tác phiên dịch kinh vô cùng thận trọng.  Trường dịch thuật đều có quy mô rất lớn. Gần giống như chúng ta hiện nay dùng danh từ là viện trưởng viện dịch kinh.  Dùng danh nghĩa này, tức là ông ta hoàn toàn chịu trách nhiệm, khiến chúng ta sanh khởi tín tâm.  Người phiên dịch là “Hậu Hán sa-môn An Thế Cao dịch”.

“Hậu hán” là chỉ cho niên đại, là tại thời đại nào phiên dịch bộ kinh này.

“Sa-môn” là chỉ cho học lực.  Đây là vì pháp sư vô cùng khiêm tốn.  Về sau người dịch kinh đều xưng làm tam tạng pháp sư.  An Thế Cao đại sư xác thật là tam tạng pháp sư.  Nhưng ngài không dùng cách xưng hô này, lại dùng sa-môn.  Sa-môn là vô cùng khiêm tốn, vô cùng khách sáo.  Ý nghĩa chữ “Sa-môn” dịch nghĩa là “cần tức”, nghĩa là “Cần tu giới định huệ, Tức diệt tham sân si”.  Đây là ý nghĩa chữ sa-môn.  Nói cách khác, tại gia cư sĩ tu ngũ giới thập thiện cũng có thể xưng sa-môn.  Sa-môn chẳng phân tại gia, xuất gia.  Sa di xuất gia là siêng năng tu thập giới, hành trì 24 môn oai nghi, cũng đủ điều kiện xưng là sa-môn.  Cho nên sa-môn là xưng hô vô cùng khách sáo, khiêm tốn.  Đây là đại sư vì chúng ta làm một cái gương rất tốt.  Đặc biệt là cho chúng sanh thời mạt pháp.  Mạt pháp chúng sanh thật tại mà nói là chẳng giác, mê hoặc, cuồng vọng tự đại.  Hôm nay chúng ta thấy được cách xưng hô này, cảm xúc của chúng ta vô cùng sâu sắc.  Chúng ta phải nên học theo cách khiêm tốn, cung kính của chư vị đại đức này, tự hạ mình tôn kính người.  An Thế Cao là đức hiệu của đại sư.  Thật ra đức hiệu của ngài chỉ là “Thế Cao”, chữ  “An” là danh xưng quốc gia của ngài. Giống như Trung quốc chúng ta, Huyền Trang đại sư khi đến Ấn độ đi lưu học, cũng xưng là Đường Huyền Trang.  Ngài không phải họ Đường, Ngài là người Đường quốc, nên thêm vào danh hiệu quốc gia của ngài.  Pháp sư ngoại quốc đến Trung quốc hoằng pháp, cũng đều đem danh hiệu quốc gia của họ đặt ra trước.  Cho nên xưng thành An Thế Cao.

Chữ  “An” là An Tức quốc.  Vào thời Hán triều được xưng là An tức quốc, sang đến đời Đường triều gọi thành Ba Tư.  Hiện tại xưng thành Y lãng (Iran).  Vào thời Hán triều xưng An tức quốc, Ngài là hoàng thái tử của nước An Tức.  Là một hiếu tử, phụ thân là An Tức quốc vương.  Sau khi phụ vương băng hà, ngài thừa kế vương vị.  Không được bao lâu, thì ngài đem vương vị nhường lại cho thúc phụ của ngài.  Ngài tự mình xuất gia tu hành.  Ngài đối với Trung quốc có duyên phận phi thường thâm sâu, nên về sau ngài đến Trung quốc hoằng dương  Phật pháp.  Là một vị đại đức phiên dịch kinh điển vô cùng thù thắng vào thời sơ khởi của Phật giáo Trung quốc.  Ngài tổng cộng trụ tại Trung quốc hơn 20 năm, dịch kinh được 29 bộ.  Tổng cộng có đến 176 quyển.  Hiện tại ở trong “Đại tạng kinh” đều có thể thấy được.  Bộ kinh này được ngài phiên dịch từ rất sớm.  Ngài đến Trung quốc vào năm Kiến Hòa (T.L năm 147).  Nói như vậy là quá rõ ràng rồi tức ngài đến Trung quốc vào giữa thế kỷ thứ 2 công nguyên năm 147.

Trong một số kinh điển, đều có phần tựa, phần chánh tông, phần lưu thông, được chia rất rõ ràng.  Trong bộ kinh này không có.  Riêng đây Lý lão sư đem bộ kinh này giới thiệu cho chúng tôi, thầy bảo tuy rằng nó không có 3 phần, nhưng quan sát tỷ mỷ cũng có phân chia ý nghĩa làm ba đoạn.  Trong bộ kinh văn  này, bắt đầu từ “Vi Phật đệ tử” cho đến “Bát đại nhân giác”,  bốn câu này, có thể nói là “Tự phần” từ “Đệ nhất giác ngộ” cho đến “Đệ bát giác ngộ”.  Tám đoạn này là “chánh tông phần” của bổn kinh, cũng là chỗ giảng trọng điểm của bộ kinh.  Đoạn sau chót, từ “Như thử bát sự”  đến “thường trụ khoái lạc” Có thể nói là “lưu thông phần” của bổn kinh.

BÁT ĐẠI NHÂN GIÁC KINH

Vi Phật đệ tử,
Thường ư trú dạ,
Chí tâm tụng niệm,
Bát Đại Nhân Giác.

Đệ nhất giác ngộ:
Thế gian vô thường,
Quốc độ nguy thúy.
Tứ đại khổ không,
Ngũ ấm vô ngã.
Sanh diệt biến dị,
Hư ngụy vô chủ.
Tâm thị ác nguyên,
Hình vi tội tẩu.
Như thị quán sát,
Tiệm ly sanh tử.

Đệ nhị giác tri:
Đa dục vi khổ,
Sanh tử bì lao,
Tùng tham dục khởi,
Thiểu dục vô vi,
Thân tâm tự tại.

Đệ tam giác tri:
Tâm vô yểm túc,
Duy đắc đa cầu,
Tăng trưởng tội ác.
Bồ-tát bất nhĩ,
Thường niệm tri túc,
An bần thủ đạo,
Duy tuệ thị nghiệp.

Đệ tứ giác tri:
Giãi đãi trụy lạc,
Thường hành tinh tấn,
Phá phiền não ác,
Tồi phục tứ ma,
Xuất ấm giới ngục.

Đệ ngũ giác ngộ:
Ngu si sanh tử.
Bồ-tát thường niệm,
Quảng học đa văn,
Tăng trưởng trí tuệ,
Thành tựu biện tài,
Giáo hóa nhất thiết,
Tất dĩ đại lạc.

Đệ lục giác tri:
Bần khổ đa oán,
Hoạnh kết ác duyên,
Bồ-tát bố thí,
Đẳng niệm oán thân,
Bất niệm cựu ác,
Bất tắng ác nhân.

Đệ thất giác ngộ:
Ngũ dục quá hoạn.
Tuy vi tục nhân,
Bất nhiễm thế lạc,
Thường niệm tam y,
Ngõa bát pháp khí,
Chí nguyện xuất gia,
Thủ đạo thanh bạch,
Phạm hạnh cao viễn,
Từ bi nhất thiết.

Đệ bát giác tri:
Sanh tử xí nhiên.
Khổ não vô lượng,
Phát đại thừa tâm,
Phổ tế nhất thiết,
Nguyện đại chúng sanh,
Thọ vô lượng khổ,
Linh chư chúng sanh,
Tất cánh đại lạc.

Như thử bát sự,
Nãi thị chư Phật,
Bồ-tát đại nhân,
Chi sở giác ngộ,
Tinh tiến hành đạo,
Từ bi tu tuệ,
Thừa pháp thân thuyền,
Chí Niết-bàn ngạn,
Phục hoàn sanh tử,
Độ thoát chúng sanh.
Dĩ tiền bát sự,
Khai đạo nhất thiết,
Linh chư chúng sanh,
Giác sanh tử khổ,
Xả ly ngũ dục,
Tu tâm Thánh đạo.
Nhược Phật đệ tử,
Tụng thử bát sự,
Ư niệm niệm trung,
Diệt vô lượng tội,
Tiến thú bồ-đề,
Tốc đăng chánh giác,
Vĩnh đoạn sanh tử,
Thường trụ khoái lạc.

 

TỰ  PHẦN

THẾ TÔN KHAI THỊ

Kinh văn:

Vi Phật đệ tử.
Thường ư trú dạ                                         
Chí tâm tụng niệm
Bát đại nhân giác.

DỊCH :

Chúng ta đã là hàng Phật tử,
Đêm lẫn ngày hằng giữ thọ trì.
Chí thành tụng niệm nhớ ghi,
Tám điều giác ngộ của vì Đại nhân.

Từ Bốn câu này, chúng ta có thể thể hội được, Thế Tôn là “ngữ trọng tâm trường”. (sincere words & earnest wishes), đem lời chân thật từ bi giáo huấn, nói cho chúng ta.  Chúng ta nếu làm học sinh của Phật thì phải nên “chí tâm”, tức là đem tâm chân thành ngày đêm thường thường tụng niệm: “Bát đại nhân giác” là tám điều giác ngộ của bậc đại nhân.  Tám điều này là pháp môn giác ngộ của chư Phật, pháp thân đại sĩ.  Hành trì được như vậy mới không đánh mất bổn phận đệ tử chân thật của Phật.  Đệ tử đây không luận là tại gia hay xuất gia.  Bốn câu khai thị này chúng ta quyết định không thể coi thường.  Phật dạy chúng ta trong 24 giờ, tức là ngày đêm chẳng để cho gián đoạn, dùng tâm tối chân thành, tâm tối khẩn thiết, tâm không có chút tơ hào hư ngụy, hướng chư Phật Như-lai, hướng pháp thân Bồ-tát, để học tập 8 phương pháp chân thật giác ngộ của các ngài.

 CHÁNH TÔNG PHẦN

ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ NHẤT

Kinh văn:

Đệ nhất giác ngộ:
Thế gian vô thường                       
Quốc độ nguy thúy                        
Tứ đại khổ không
Ngũ ấm vô ngã
Sanh diệt biến dị
Hư ngụy vô chủ
Tâm thị ác nguyên
Hình vi tội tẩu
Như thị quán sát
Tiệm ly sanh tử.

DỊCH:

Điều thứ nhất phải thường giác ngộ:
Đời vô thường quốc độ bở dòn.
Khổ không tứ đại thon von,
Năm ấm vô ngã có còn chi đâu.
Đổi đời sanh diệt chẳng lâu,
Giả dối không chủ lý mầu khó tin.
Tâm là nguồn ác xuất sanh,
Thân hình rừng tội mà mình chẳng hay.
Người nào quán sát thế này,
Lần hồi sanh tử sớm chầy thoát ra.

Quý học Phật đồng tu đều biết.  Nhà Phật thường giảng: “sanh tử sự đại”.  Chúng ta học Phật mục đích chân chánh là vì cái gì?  Đâu không phải là vì giải quyết vấn đề sanh tử?  Thế tôn lúc còn tại thế, chúng ta từ trên sử truyện thấy được.  Ngài từng đi dạo ra 4 cửa thành ngao du, thấy được nhân gian sanh lão bệnh tử khổ.  Ngài từ chỗ này mà đắc được khải thị, liền phát tâm xuất gia tu đạo.  Mục đích là vì giải quyết vấn đề sanh tử.  Mục đích này ngài đạt đến rồi, ngài đã làm được.  Sau khi ngài thành công rồi, bèn nghĩ đến giúp đỡ chúng ta, những chúng sanh khổ nạn trong lục đạo luân hồi để giải quyết đại vấn đề mà chúng ta vô phương giải quyết.  Đây là mục đích chân chánh mà Đức Phật xuất thế.  Bộ kinh này tuy lời văn rất ngắn gọn, tinh yếu đơn giản, nhưng lại vô cùng quan trọng.  Phật đề tỉnh chúng ta, điều thứ nhất cần phải giác ngộ.

“Thế gian” là hoàn cảnh sinh hoạt của chúng ta. Nhỏ là chỉ cho thường ngày cư trụ, hoàn cảnh học tập xung quanh chúng ta, khuếch lớn ra là cả địa cầu.  Lớn hơn nữa, chúng ta ngày nay giảng là hệ ngân hà.  Hệ ngân hà hãy còn chưa lớn,  theo cách nói của Hoàng Niệm Tổ lão cư sĩ Nam Thiệm bộ châu chỉ là hệ ngân hà trong thế giới ta bà, khu giáo hóa của 1 vị Phật là cả tam thiên đại thiên thế giới.  Hệ ngân hà chỉ là một đơn vị thế giới.  Tam thiên đại thiên thế giới rốt cuộc là bao lớn?  Nếu chiếu theo cách nói của Hoàng lão cư sĩ là 10 vạn hệ ngân hà, là phạm vi giáo hóa của Thích Ca Mâu Ni Phật.  Đây là giáo khu của một đức Phật.  Từ cách này mà quan sát, địa cầu chúng ta quá nhỏ đi.  Đây là nói thế gian của chúng ta.

“Vô thường” là nói rõ thuyết minh thế gian này có thành, trụ, hoại, không. Trong thế giới này, hết thảy sự vật đều ở trong từng sát-na biến hóa, tuyệt đối chẳng phải thường hằng.  Cho nên nói rõ cho chúng ta biết rằng: “quốc độ nguy thúy”.  Thế gian này, chúng ta ngày nay đều biết có rất nhiều tai hại từ thiên nhiên.  Có hỏa tai, có thủy tai, có phong tai, có địa chấn, chưa có một phút một giây nó ngừng nghỉ. Hiện tại khoa học gia vì chúng ta làm chứng minh, đưa ra cho chúng ta những thường thức rất phong phú.  Chúng ta biết được, lòng đất của quả địa cầu này đang biến hóa, lớp vỏ trái đất cũng biến hóa đúng y như lời Phật thuyết.  Chúng ta cần phải nên nhận thức rõ ràng.  Đối với thế gian này chúng ta phải khéo lợi dụng.  Phật pháp thường giảng: “Mượn giả tu chơn”.  từ trong vô thường chúng ta phải học chân thường. Cái gì là chân thường?  pháp tánh là chân thường.  Pháp tánh thân là chân thường.  Pháp tánh thể là chân thường.  Làm thế nào có thể từ vô thường tu thành chân thường.  Đây là công phu, là chân chánh giác ngộ.

“Tứ đại khổ không, ngũ ấm vô ngã”.  Hai câu này trọng yếu là giảng “vô ngã”.  “Ngã”: thân này là giả.  Thân thể này mỗi tế bào metabolish cũng là ở trong từng sát-na biến hóa.  Nói cách khác, thân thể chúng ta lúc đi vào giảng đường, sau khi nghe xong 2 tiếng đồng hồ đi ra, thân thể này so với 2 giờ trước đã khác rồi.  Rất nhiều tế bào chết đi, rất nhiều tế bào mới sanh ra.  Cho nên trong 2 giờ đồng hồ biến hóa đã rất lớn rồi.

Ngũ ấm vô ngã.  “Tứ đại” là giảng vật chất, “ngũ ấm” là giảng tinh thần.  Chúng ta đem hiện tượng chính cái thế giới thân mạng này,  Quy nạp lại không ngoài 2 thứ lớn.  Vật chất – hiện tại khoa học gia cho chúng ta chứng minh.  Chỗ có hết thảy hiện tượng vật chất.  Đều là vật chất cơ bản hợp thành, hiện tại khoa học gia phân tích cho chúng ta, chúng ta minh bạch.  Chỗ có hết thảy vật chất đều có thể phân chia, phân tích thành phân tử.  Phân tử lại phân làm nguyên tử, điện tử, lạp tử.  Hiện tại nghe nói lạp tử hãy còn có thể phân tích, gọi là “khoa khắc” (a quark).  Đây là cực nhỏ.  Động vật, thực vật, khoáng vật, tinh cầu thế giới đều là những vật chất trên căn bản tổ hợp.  Cho nên vật chất đích xác là bình đẳng.  Trong kinh Kim Cang giảng “nhất hợp tướng”.  Chúng ta từ khoa học  được chứng minh rồi.  Xác thật lớn như vũ trụ, nhỏ như vi trần đều là một thứ hiện tượng, là tổ hợp vật chất cho nên nó bình đẳng.  Vật chất cơ bản nó có 4 cái hiện tượng xưng thành tứ đại.

Nó xác thật là vật thể, rất nhỏ mắt thường chúng ta nhìn không thấy nhưng mà dùng máy móc khoa học có thể phát hiện nó tồn tại.  Cái này chúng ta gọi nó là đất.  Đất:  để nói nó là vật chất.  Vật chất này nó có độ nóng. Độ nóng này chúng ta gọi nó là “hỏa đại”, nó có độ ẩm thấp,  độ ẩm thấp này chúng ta gọi nó là “thủy đại”,  nước là đại biểu cho thấp độ.  Đây là người đông phương giảng.  Hiện tại người phương tây không giảng ôn độ, thấp độ, họ giảng là âm điện, dương điện.  Dương điện chúng ta gọi hỏa đại, âm điện thì gọi nó là thủy đại.  Nó là mang điện thể, nó có hiện tượng là động, nó không phải ngưng nghỉ (tĩnh chỉ).  Cái động này gọi là “phong đại”, động nên gọi phong.  Cơ bản lạp tử này có 4 hiện tượng:  địa thủy hỏa phong.  4 hiện tượng này tại sát-na biến hóa.  “Khổ không” tức nó không phải vĩnh hằng tồn, mà tường sát-na biến hóa. Thời gian biến hóa tốc độ rất mau chóng.  Chúng ta không có biện pháp gì suy lường kịp.  Từ chỗ này khiến chúng ta liễu giải được chân tướng thế giới vật chất.

Bây giờ nói đến chân tướng thế giới tinh thần.  “Ngũ ấm” là sắc, thọ tưởng hành thức. Thứ nhất là sắc phần, tức thuộc về “tứ đại” là thế giới vật chất, chúng ta đã giảng qua.  Thọ là cảm thọ.  Tưởng là vọng tưởng, tất cả đều không chân thật, “vọng tưởng”.  Hành là ý nghĩa bất trụ (chẳng dừng), tức là bạn không có cách nào dừng lại.  Bạn nhất định là ở ngay tại mỗi sát-na sản sanh biến hóa.  Thức là Phật pháp giảng A-lại-da thức, trong pháp tướng tông “Duy thức học” nói được vô cùng tường tận. Sắc thọ tưởng hành thức, là “sanh diệt biến dị, hư nguỵ vô chủ”.

Nói tóm lại, không luận là thế giới tinh thần, không luận là thế giới vật chất, bao quát cả thân tâm này của chúng ta cùng hoàn cảnh sinh hoạt, chân tướng của nó chính là “sanh diệt đổi thay, hư dối không có chủ”.  Tám chữ này Phật đem nó thuyết tận rồi.

Tâm thị ác nguyên, Hình vi tội tẩu. Như thị quán sát, Tiệm ly sanh tử. Hai câu trước vô cùng trọng yếu, trong đệ nhất giác ngộ thì hai câu nói này là tối khẩn yếu.  Tâm đây là chỉ cho vọng tâm, chính là giảng niệm đầu của chúng ta.  Niệm đầu là hết thảy căn nguyên của ác nghiệp.  Hình là giảng thân thể chúng ta, miệng chúng ta.  Thân khẩu tạo nghiệp.  “Tội tẩu” tẩu là tụ tập.  Chỗ tạo tác hết thảy bất thiện đều là do thân khẩu sở tạo.  Chúng ta tại trong kệ sám hối thường niệm: Vãng tích sở tạo chư ác nghiệp (Xưa kia lỡ tạo bao ác nghiệp).  Những ác nghiệp này là ai tạo đây?  Nói chung là thân , ngữ, ý.  Ba thứ này làm ra.  Đây là dạy chúng ta pháp môn chân chánh cầu sám hối, phải nhận thức rõ ràng.  Khởi tâm động niệm là ác nguyên (nguồn ác).  Chư Phật Như-lai, pháp thân Bồ-tát.  Quý ngài cùng phàm phu chúng ta không giống nhau là ở tại chỗ nào?  Là tại ứng hoá trong cửu pháp giới, quý ngài thường tùy thuận chúng sanh, đối với cả cảnh duyên, quý ngài xác thật làm được (không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước).  Giả sử đối với chúng ta làm vô số thị hiện, lúc dạy dỗ chúng ta cũng chưa từng có khởi tâm động niệm qua.  Đây là trong đại thừa kinh thường giảng, “Na-già thường tại định, vô xứ bất định thời”.  Còn chúng ta thì hoàn toàn tương phản, lục căn vừa tiếp xúc cảnh giới lục trần liền khởi tâm động niệm, phân biệt chấp trước, đây là nguồn ác.  Sau đó biểu hiện ra trên thân thể chúng ta, chính là tạo tác vô lượng vô biên tội nghiệp.  Phật tại nơi đây điều thứ nhất, dạy chúng ta phải từ chỗ này mà quan sát.  Bạn chân chánh xem được rõ ràng, minh bạch rồi.  “Quan sát” là giác sát đến chân tướng vũ trụ nhân sanh, thế gian quốc thổ là vũ trụ, tứ đại ngũ ấm là nhân sanh.  Chân chánh đem chân tướng vũ trụ nhân sanh xem được rõ ràng minh bạch rồi, bạn sẽ không còn khởi tâm động niệm, không trở lại tạo tội nghiệp nữa.  Như vậy bạn mới dần dần có thể thoát ly lục đạo luân hồi sanh tử.  Phật, Bồ-tát đại nhân, các ngài quan sát, trong đại thừa pháp thường giảng: quán chiếu, chiếu kiến.  Trong Bát Nhã Tâm Kinh giảng “chiếu kiến ngũ uẩn giai không…” quán sát ở chỗ này chính là chiếu kiến.

Vì vậy, kinh văn tuy rằng rất ngắn, nhưng nghĩa lý thì rộng sâu vô tận.  Chúng ta là phàm phu, mà còn là phàm phu tội chướng sâu nặng.  Chúng ta học tập phương pháp nhập môn.  Chỉ có một cái.  Nếu bảo không khởi tâm, không động niệm, không phân biệt, không chấp trước, lục đạo phàm phu không có một người làm được, lục căn tiếp xúc cảnh giới lục trần, đâu có đạo lý gì không khởi tâm không động niệm?  Vậy phải làm sao?  Chúng ta khởi tâm động niệm chớ nên vì chính mình, thì ngay đây có thể nhập môn. Còn nếu khởi tâm động niệm vì chính mình thì khẳng định là: “Tâm là nguồn ác, thân là rừng tội”.  Bạn tuyệt đối không thể không tạo nghiệp, một khi đã tạo nghiệp thì không thể không chịu quả báo.  Quả báo là do nghiệp lực biến hiện mà ra, tuyệt đối không phải do Phật, Bồ-tát bắt bạn chịu tội, cũng không phải do vua Diêm La, cũng không là Thượng đế. Nói cách khác, đối với cảnh giới bên ngoài tơ hào vô quan, đều là quả báo tội nghiệp của chính mình biến hiện xuất ra.  Đạo lý này, trong Đại thừa kinh giảng được vô cùng tường tận.  Chúng ta không thể không biết, tất cả đều là tự làm tự chịu.  Phật, Bồ-tát ở bên cạnh nhìn thấy chỉ sanh tâm thương xót thôi, giúp đỡ không được.  Cũng giống như bạn nằm thấy ác mộng vậy.  Bạn nằm ác mộng, ở trong mộng chịu khổ nạn, người thức tỉnh ở cạnh bên nhìn thấy không có cách gì giúp đỡ bạn được.  Đạo lý này như trong Kim Cang Kinh giảng: “nhất thiết hữu vi pháp, như mộng huyễn bào ảnh”, lời này quyết định là chính xác.  Bởi vậy chúng ta nhập môn, khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác quyết định chớ vị tự kỷ, hãy vì hết thảy chúng sanh.  Hơn thế nữa, là vì xã hội hiện tiền, vì khổ nạn chúng sanh, vì chánh pháp trụ thế.  Tâm hạnh chúng ta quyết định cùng Thánh giáo tương ưng.  Chúng ta ngày nay giảng cùng với tự tánh tương ưng.  Đây thì rất khó làm đến được.  Chưa có minh tâm kiến tánh, bạn làm thế nào với tự tánh tương ưng?  Kinh giáo Phật, Bồ-tát chính là tự tánh lưu lộ.  Chúng ta đủ sức tùy thuận kinh giáo tức là tùy thuận tự tánh, là cùng với tánh đức tương ưng.  Đây là chỗ chúng ta học Phật nhập môn.  Công phu được đắc lực thì thọ dụng không cùng tận.

 

ĐIỀU GIÁC BIẾT THỨ HAI

Kinh văn:

Đệ nhị giác tri
Đa dục vi khổ
Sanh tử bì lao
Tùng tham dục khởi
Thiểu dục vô vi
Thân tâm tự tại.

DỊCH:

Điều thứ hai lại cần giác biết:
Tham dục nhiều, khổ thiệt thêm nhiều.
Nhọc nhằn sanh tử bao nhiêu,
Bởi chưng tham dục, mà chiêu khổ nầy.
Bớt lòng tham dục chẳng gây,
Thân tâm tự tại vui nầy ai hơn.

Trong tám đoạn kinh văn, điều thứ nhất chúng ta thấy được là giác ngộ.  Điều thứ hai nhìn thấy là giác tri.  “Giác ngộ” cùng với “Giác tri” có cái gì sai biệt?  Chúng ta tỉ mỉ xem xét, thấy được, giác tri so với giác ngộ ý nghĩa sâu hơn.  Giác ngộ là bạn vừa mới bắt đầu ngộ nhập.  Trong giác tri thì sản sanh trí huệ cao độ.  Nếu như chẳng có trí huệ tương đương, bạn tuy nhiên giác ngộ, nhưng chỗ biết được đó chưa đủ thấu triệt.  Cho nên “tri” so với “ngộ” ý nghĩa sâu hơn.

Lục đạo chúng sanh vô lượng kiếp lai, do vì không đủ sức giác ngộ, đương nhiên  càng không có giác tri,  cho nên mãi ở trong lục đạo sanh tử luân hồi.  Đối với vấn đề này người minh bạch, chư Phật Bồ-tát, thậm chí đến A-la-hán nhìn thấy hiện tượng này đều cảm nhận vô cùng bi thương.  Vì vậy chư Phật, Bồ-tát xuất hiện ở thế gian, mục đích là để giúp đỡ chúng ta  thoát ly khổ lớn trong sanh tử luân hồi, chứng đắc chân thường đại lạc.  Chúng sanh trong lục đạo.  Quả nhiên giác ngộ rồi thời nên nghĩ đến khéo lợi dụng một đời này, để tu tập.  Trong một đời thời gian tuy không dài, nhưng nếu như chân chánh đi trên con đường giác ngộ, thời gian cũng đủ dùng rồi, không chỉ thoát ly lục đạo luân hồi, mà là thoát ly thập pháp giới, thời gian vẫn là vừa đủ dùng.  Chúng sanh ra không khỏi luân hồi, không có cách nào để hành Bồ-tát đạo, thật tại mà nói bệnh căn là tại tự tư tự lợi.  Chính đoạn này chỗ giảng “Đa Dục”,  hại đến chúng ta khởi hoặc tạo nghiệp, thọ báo.  Chúng tôi ở trong giảng đường thường thường khuyên nhắc đồng tu, chân chánh mong muốn trong một đời này thành tựu, bạn không thể không buông xả niệm đầu của tự tư tự lợi, buông bỏ danh văn lợi dưỡng, buông bỏ hưởng thụ ngũ dục lục trần, buông bỏ tham sân si mạn.

Ở trong đoạn thứ nhất, Phật nói với chúng ta thế gian, quốc thổ, thân tâm chúng ta đều không phải chân thật, đều là huyễn hoá vô thường.  Nếu như chân thật minh bạch được đạo lý này, liễu giải sự thật chân tướng, chúng ta sẽ khẳng khái buông xuống thế xuất thế gian, hết thảy ý  niệm khống chế người, sự, vật.  Không còn khởi ý niệm chiếm hữu.  Khởi niệm đây chính là phần trước giảng “ác nguyên” (nguồn ác).  Khởi niệm là nguồn ác, hành vi là rừng tội (tội tẩu).  Mấy thứ này, nếu chúng ta tại trong một đời nhận chân tu học, có thể đem nghiệp chướng tiêu trừ đưọc sạch sẽ, nhất định được Phật lực gia trì.  Chúng ta nguyện vọng cầu sanh tịnh độ khẳng định thành tựu.

Dục vọng là chưa từng ngừng hẳn (chỉ tận),  nghĩa này là nói rõ một người ở trong lục đạo thời gian mê muội quá lâu.  Vô lượng kiếp lai mê mất trong lục đạo, mê muội quá sâu nên mới sản sanh thành nghiêm trọng phiền não tập khí.  Cần phải biết dục vọng ở tại tự tánh vốn là không, trong chân tâm quyết định không có dục vọng.  Do đây, khi dục niệm khởi lên chúng ta nhất định phải mau đề cao cảnh giác.  Đây là vọng tâm, đây là trái nghịch  với tánh đức.  Cho nên giác ngộ là từ những chỗ này mà giác khởi.  Nếu như không thường xuyên tiếp nhận Phật pháp huân tập, thì phiền não tập khí huân tập này là vô pháp gián đoạn.  Thứ huân tập này tất nhiên sẽ khiến thân, khẩu chúng ta tạo nghiệp, thân tạo sát đạo dâm.  Miệng tạo vọng ngữ,  Hai lưỡi, ác khẩu, nói lời hoa mỹ.  Đây là chỗ mà ở trước giảng “Hình vi tội tẩu” (thân làm rừng tội).  Ý niệm của chúng ta bất chánh, thì khi tạo nghiệp tất định phải chịu quả báo khổ.  Quả báo chính là bên dưới giảng:

“Sanh tử bì lao, tùng tham dục khởi”.  Nguyên đoạn kinh văn này tổng cộng có 5 câu chia làm 3 phần. Phần thứ nhất là “Đa dục vi khổ” đem tổng cương lĩnh dạy bảo chúng ta.  Hai câu ở giữa là giảng:  Lục đạo sanh tử luân hồi là có những chuyện gì, là từ chỗ nào đến.  Đây là giảng thực trạng của phàm phu.  Hai câu sau chót là giảng chư Phật, Bồ-tát.  Chư Phật Bồ-tát làm thế nào giải thoát, làm sao vượt thoát lục đạo, vượt thoát thập pháp giới, đắc được thân tâm tự tại.

Giảng đến  “đa dục”.  Danh văn lợi dưỡng là dục vọng, tài sắc danh thực thùy là dục vọng.  Trong Phật kinh thường giảng: “ngũ dục”.  Người thế gian đâu ai chẳng tham tài, tham sắc, danh thực thùy.  Cho nên trong kinh luận Phật thường thuyết: “Tài sắc danh thực thùy, địa ngục ngũ điều căn”.  Chỉ cần có một điều thì bạn không thể không đọa địa ngục,  nếu cả năm điều đều có đủ, thì bạn nghĩ cách không bị rơi vào địa ngục, thật là thiên nan vạn nạn.

Cũng có số người nói:  tôi hiện tại ở trong nhân đạo tất cả đều rất tự tại, rất thoải mái.  Chúng ta ở trong Địa Tạng Kinh thấy được, Địa Tạng Bồ-tát thật không dễ dàng khuyên dạy chúng sanh giác ngộ, chân chánh sám hối hồi đầu, từ địa ngục chuyển sanh đến nhân đạo, nhưng thời gian trụ lại ở nhân gian rất ngắn, sau vài chục năm chết đi họ lại phải sa vào địa ngục.  Trong địa ngục, quỷ vương nhìn thấy họ bèn nói, ông làm sao vừa mới được thoát ra nay lại trở về rồi?  vì sao nói vừa mới đi lại trở về?  Trong địa ngục đạo cùng nhân đạo của chúng ta có “thời sai”.  Hiện nay giảng “thời sai” mọi người hiểu được.  Thí như:  Đài Loan cùng Nhật Bản thời sai là 1 giờ đồng hồ.  Địa ngục cùng nhân gian thời sai rất lớn. Chúng ta ở trong kinh luận đọc đến địa ngục một ngày thì nhân gian hơn 17 năm. Bạn dù cho sống đến 100 tuổi, sống đến 200 tuổi, tại trong địa ngục chỉ có vài giờ đồng hồ, nên quỷ vương nhìn thấy họ mới bảo ông vừa mới đi ra làm sao chỉ được một chút quay trở lại?  Đọc được Địa Tạng Kinh chỗ giảng đó, chúng ta có được tâm cảnh giác này không?  Thật vô cùng đáng sợ!

Nếu như thật có cảnh giác này, họ tự nhiên sẽ lợi dụng thời gian ngắn trong một đời này tu tập để vượt thoát lục đạo, vượt thoát thập pháp giới.  Người này là người có chí khí, là anh hùng hảo hán, Phật có năng lực này.  Nên trong chánh điện cúng Phật xưng là  “Đại hùng bảo điện”.  Chữ hùng này là anh hùng.  Anh hùng nghĩa là gì?  Là việc mà có một số người làm không nổi, mà họ làm đến được, nên xưng làm anh hùng.  Một số người không có biện pháp gì thoát ly sáu nẻo luân hồi, không có biện pháp gì thoát ly ba đường ác, Phật Bồ-tát có năng lực làm được rồi.  Chúng ta theo Phật, Bồ-tát cùng đi quyết định chẳng sai.  Con đường này đi được thông suốt.  Người  đi thông qua được rất nhiều, quý vị xem “Tịnh độ thánh hiền lục”,  “Vãng sanh truyện”, phi thường cảm động người, vì sao những người đó họ đều làm được, tôi tại làm sao làm không được?  Những người đó tự có thể khắc phục phiền não tập khí.  Tôi tại làm sao còn tùy thuận phiền não tập khí?  Hãy còn ngày ngày khởi ác niệm, tạo ác nghiệp.  Thấy được chỗ tối thù thắng của Phật pháp rồi sẽ khiến chúng ta kính phục, năm vóc gieo sát đất.  Phật pháp là chỉ dạy một mình tôi, chẳng phải dạy người khác.  Thể hội được sẽ thấy đạo lý này rất sâu.  Số đông học Phật đồng tu, một đời không được lợi ích, vẫn y như cũ trở lại trong 6 nẻo luân hồi.  Vì Phật pháp của họ là để dạy cho người khác học. Học Phật pháp xong, chỗ chỗ đều nhìn vào người khác, mà họ để quên mất tự mình.  Điều này cùng với tinh thần Phật pháp hoàn toàn trái ngược .  Tinh thần Phật pháp là hoàn toàn chiếu cố cho chính mình, không phải đi tìm cầu, nhìn vào người khác.  Ngoại trừ mình ra, người khác đều là người tốt, đều là Phật, Bồ-tát.  Người khác chỗ làm, chỗ hành vi đều là chính xác.  Họ tạo ác nghiệp là làm để mình xem, họ đọa địa ngục, là đọa để cho mình xem, khiến mình cảnh giác. Cho nên, không luận bên ngoài là thiện duyên, là ác duyên, là thuận cảnh, là nghịch cảnh.  Tất cả đều là chư Phật, Bồ-tát từ bi vì mình thị hiện, chỉ vì độ mình tôi, được vậy thì con đường tu học của mình thành công rồi.

Cho nên học Phật nhất định phải học theo phương pháp của Thiện tài đồng tử.  Thiện tài đồng tử trong 53 tham vấn, trên con đường tham phương học đạo chỉ có một người, không có đồng tham đạo hữu.  Nếu như có đồng tham bạn đạo, ngài vẫn là người, ngài không thể thành tựu.  Tại làm sao?  Ông với tôi khác nhau không bao nhiêu mà.  Ngày ngày nhìn đến lỗi người khác, nhìn không thấy lỗi tự mình,.  Trên đường tu đạo Bồ đề, phàm phu chỉ có tôi một người, ngoài ra người khác đều là chư Phật Như-lai, có cách nhìn như vậy mới có thể thành tựu.

Thập đại nguyện vương nói: “Lễ kính chư Phật, xưng tán Như-lai”, minh liễu đạo lý này rồi thì tánh đức tự nhiên sẽ lưu lộ, tại vì sao?  Bên ngoài tất cả đều là chư Phật Như-lai, phàm phu chỉ có tôi một người.  Mười pháp giới đều là chư Phật Như-lai, đại từ đại bi vì mình biến hiện vô lượng cảnh giới để cảnh giác tôi, khuyến cáo tôi.  Trong “Pháp Bảo Đàn kinh” lục tổ giảng: “nhược chân tu đạo nhân, bất kiến thế gian quá”. (nếu người thật tu đạo, chẳng thấy lỗi thế gian).  Thế gian không có lỗi, chỉ thấy lỗi tự mình, tự mình mới có thể thành tựu.  Đáng sợ nhất là tự mình không thấy lỗi, mỗi mỗi là lỗi của người khác.  Người này là địa ngục chúng sanh.  Họ không phải là người thông thường, họ là địa ngục chúng sanh.  Chúng ta nhất định phải hiểu được, tôi có phải là chúng sanh địa ngục không?

Học Phật có được cái thấy như vậy bạn mới hội được tiến bộ, tiến triển, bạn mới không bị đọa lạc.  Bạn trên đường Bồ đề mới chân chánh đạt được pháp hỷ, mới chân chánh đạt được lợi ích chân thật.  Quyết định không thể nhìn đến lỗi thế gian.  Đây là chư Bồ-tát, những người giác ngộ, chính là “giác đạo”.  Không thấy lỗi thế gian là giác đạo, thấy lỗi tự mình là giác đạo.  Còn như thấy tự mình không có lỗi, người khác đều có lỗi.  Đó là mê đạo, không phải giác đạo.  Điểm này quý đồng tu đặc biệt phải lưu ý.  Nếu như chúng ta tu học chân chánh mong muốn thành công, phải đi trên con đường của Phật, Bồ-tát.  Phật, Bồ-tát, tổ sư đại đức vĩnh viễn đều là khẳng định tự mình một thân tội nghiệp.  Người khác một tơ hào lỗi lầm đều chẳng có.

Phước báo của chúng sanh, trong mạng đều có chú định.  Ngạn ngữ cổ lão Trung Quốc nói: trong mạng vốn có, bạn nghĩ buông xả, bạn cũng buông xả không rơi.  Trong mạng không có bạn tận dụng mọi phương pháp đi cầu, cũng cầu không được.  Trong mạng rốt cuộc là ai chú định?  Chúng ta phải minh liễu, Phật Bồ-tát nói với chúng ta: “trong mạng chú định” đó chính là bạn trong đời quá khứ tu bố thí tài tích lũy được. Trí huệ trong mạng của bạn là do trong đời quá khứ tu pháp bố thí tích luỹ được.  Trí huệ cũng tương đối phức tạp, có cái đạt công danh, có cái không đạt công danh.  Trên lịch sử Trung quốc chúng ta đều nhìn thấy rất nhiều.  Phàm là đắc công danh phải tích lũy âm đức.  Không có âm đức, không đạt được.  Cho nên Phật ở trong kinh nói với chúng ta.  Dù là chuyện gì đều không thể ngẫu nhiên, mà là do vô lượng nhân duyên thành tựu.  Chúng ta học Phật đã nhiều năm rồi.  Cặn kẽ y chiếu tiêu chuẩn Phật pháp quán sát thế giới, chứng minh được lời Phật giảng chữ chữ câu câu đều rất chính xác, Phật xác thật là chân ngữ, thật ngữ, như ngữ.  Phật không lừa gạt người.  Nên trồng thiện nhân nhất  định đắc thiện quả.  Trồng nhân bất thiện thì quả đương nhiên là bất thiện.  Mong cầu danh văn lợi dưỡng thế gian, bạn phải hiểu được tu nhân, dùng phương pháp chánh đáng đi tu học, bạn khẳng định sẽ đạt được.  Bạn sẽ không tạo tội nghiệp, bạn sẽ hưởng thọ nhân thiên phước báu.  Bạn phải hiểu rằng, phước báu nhân thiên có thể hưởng thụ, nhưng còn việc vượt thoát sanh tử luân hồi, cái này làm không được.  Trong Pháp Bảo Đàn kinh nói rất hay: “thử sự phước bất năng cứu” (việc này phước không thể cứu).  “Việc này” chỉ cho sanh tử đại sự.  Muốn thoát ly lục đạo luân hồi, sự việc này phước báo lớn bao nhiêu đều không dùng được.  Thoát ly sanh tử lục đạo luân hồi thì nhất định phải đoạn dục.  Nên kinh nói đa dục là khổ.  Thiểu dục có được không?  Thiểu dục cũng không được, phải đem dục đoạn tuyệt bạn mới có thể ra khỏi sáu nẻo luân hồi.  Lục đạo luân hồi chính là từ trong dục vọng biến liền hiện ra, là tham sân si mạn, kiến tư phiền não biến hiện ra.  Điều này chúng ta phải hiểu. Cho nên kiến tư phiền não đoạn rồi liền chứng A-la-hán quả, vượt thoát lục đạo.  Trần sa phiền não đoạn dứt bạn sẽ siêu vượt 10 pháp giới.  Vô minh phiền não đoạn dứt bạn liền chứng cứu cánh Phật quả.  Phiền não đoạn được bao nhiêu thì cảnh giới của bạn thăng tiến bấy nhiêu.  Phiền não không những không đoạn , mà ngày ngày lại còn nặng thêm, thì bạn phải hiểu, tiền đồ của bạn là vãng sanh chìm xuống đoạ lạc, không phải vãng sanh hướng thượng siêu thăng.  Người thế gian đều mê hoặc điên đảo, đều chẳng có giác ngộ. nếu không có giác ngộ mà bạn đắc tội người ta thì lại càng đáng sợ hơn.  Vì sao? họ sẽ quay lại báo thù.  Bạn với người đã tạo nên lỗi lầm, kết thành oán cừu thì ác nghiệp này sẽ biến thành oan oan tương báo, không bao giờ dứt.  Đời đời kiếp kiếp đều quấy nhiễu chẳng yên.  Cái này thật đáng thương, thật tội nghiệp, sự tình hết sức ngu si.  Phật tại trong kinh thường giảng: “Thật là kẻ đáng thương”, lời này không một chút quá đáng.

Chúng ta hôm nay học Phật, học đã được nhiều năm, dần dần cộng lại minh bạch giác ngộ một chút.  Giác ngộ rồi tôi tự mình đi về đường nào?  Trong một đời này quyết định chớ đắc tội một ai.  Người khác hủy báng tôi, vũ nhục tôi, hãm hại tôi, tôi hoan hỷ tiếp nhận.  Bởi vì sao?  Vì quá khứ tôi đã làm như thế đối với họ.  Hôm nay họ làm vậy, chính là báo trả lại cho tôi.  Tôi tiếp nhận rồi, trong lòng không một chút oán hận, không có tâm báo thù, thì bức màn của chúng ta kết liễu, từng nét từng nét kết thúc xong.  Thế là vô cùng hoan hỷ, một thân bình thường tự tại.  Nếu như hãy còn một chút tâm bất phục, còn chút sân nhuế, còn chút xíu nghĩ đến báo thù, thế thì không được rồi.  Vì làm sao?  Oán cừu của chúng ta, cái màn này không chỉ chưa kết thúc mà còn sâu thêm.  Đời sau sẽ ra sao? Niệm Phật không thể vãng sanh, tại sao? Oan gia trái chủ lôi kéo bạn, bạn đi không thoát.  Nghiệp chướng tiêu trừ mới có thể vãng sanh.  Nghiệp chướng chưa tiêu trừ A di đà Phật kéo bạn không nhúc nhích, bên dưới bạn oan nghiệp quá nặng, quá nhiều. Cái này chúng ta phải thấu hiểu.

Chỗ này đọc đến hai câu: “Sanh tử bì lao, tùng tham dục khởi”.  Chúng ta hiểu rằng nhất định phải thật giác tri. Chỗ này so với giác ngộ sâu hơn một lớp, tuyệt đối không thể cùng người kết oán cừu.  Quyết định tiếp nhận người khác vũ nhục, hãm hại cho đến giết thân mạng, chúng ta đều tiếp nhận.  Vì sao? Thân tôi bị bạn giết đi, linh hồn tôi sẽ vãng sanh về thế giới cực lạc.  Tôi sẽ cảm kích bạn, bạn đã giúp tôi vãng sanh sớm một ngày.  Trong lòng một tơ hào oán hận không thể có, một tơ hào báo thù không thể có.  Học Phật hoàn toàn từ ngay trên thân tâm mình hạ công phu, đối với cảnh giới bên ngoài một chút cũng chẳng tương quan.

Hai câu sau cuối: “Thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại”.  Đây là Phật dạy chúng ta hiện tại phải tác pháp như thế nào?  Nói cách khác là chúng ta nên sinh hoạt ra làm sao?  Làm thế nào qua ngày, làm sao để xử sự đãi người tiếp vật.  Phật dạy chúng ta 8 chữ này: “Ít muốn vô vi, thân tâm tự tại”.

“Dục” tuy không thể đoạn sạch, nhưng phải tận sức đem nó giảm đến mức tối thiểu. Thế tôn lúc còn tại thế vì chúng ta làm ra khuôn mẫu rất tuyệt hảo.  Nói theo cách thời nay là ngài sống với mức độ vật chất thấp nhất trong tiêu chuẩn sanh hoạt.  Xứ Ấn Độ là miền nhiệt đới, cho nên áo quần vật chất của ngài không đòi hỏi nhiều, ba y một bát đối với ngài thấy đủ rồi.  Tại Ấn Độ đó là tiêu chuẩn sinh hoạt thấp nhất.  Sau khi Phật pháp truyền đến Trung quốc.  Trung quốc là phương bắc của Ấn Độ, có bốn mùa, nên 3 y không thể đủ giữ ấm cho thân thể, nên Phật pháp hoàn toàn phải biến thành Trung quốc hoá.  Đây là thứ tuyệt vời không lường được ở trong Phật pháp.  Cùng Phật ở trong kinh chỗ thuyết: chư Phật, Bồ-tát thị hiện ở thế gian, không có hình tướng nhất định.  Nên dùng thân gì để được độ thì ngài liền hiện ra thân đó để hoá độ.  Ngài không có chấp trước, cần thuyết pháp gì cho chúng sanh, ngài bèn thuyết pháp đó.  Không có pháp nhất định có thể thuyết, không có hình trạng nhất định.  Đạo lý này chúng ta phải hiểu, Phật pháp xác thực là trí huệ cao độ, thông quyền đạt biến.  Cho nên nó ở trong thập pháp giới thông suốt không trở ngại, không có chướng ngại. Lối bên này có chướng ngại, thì sang đi bên kia, nó không cố chấp, không chướng ngại.  Cho nên Phật giáo khi truyền đến đất này cùng người Trung quốc, văn hoá Trung quốc tương xứ dung hợp, biến thành như người một nhà.  Tất có đạo lý, vì Phật giáo là thông quyền đạt biến.  Phật giáo đến Trung quốc khi kiến tạo Phật điện đều mô phỏng theo hình thức cung điện Trung quốc, là chỗ ở của hoàng đế chúng ta, cho nên thâu nhiếp được người dân đi vào tham quan lễ bái.

Với niên đại của chúng ta hiện nay, người học Phật dần dần đem kinh giáo xem nhẹ mất, không còn  coi trọng khảo cứu kinh giáo.  Vì thế những pháp sư Trung quốc ra nước ngoài hoằng pháp.  Lập đạo tràng cũng xây theo hình thức cung điện.  Đây là sai rồi.  Chùa miếu kiến lập theo hình thức Trung quốc, thì đối tượng chúng sanh hoá độ chỉ là Hoa kiều.  Người Mỹ một người cũng chẳng ai đi vào.  Chư vị nghĩ xem:  nếu như vào 2000 năm trước lúc Phật giáo truyền đến Trung quốc, những vị cao tăng Ấn độ kiến tạo đạo tràng đều là hình thức chùa miếu Ấn độ, sợ rằng chỉ độ cho kiều dân Ấn độ, Trung quốc cũng sẽ chẵng có lấy một người đi học Phật.  Không biết được thông quyền đạt biến, không biết cách độ hoá chúng sanh.  Cho nên đến nước ngoài, đến Mỹ quốc kiến tạo đạo tràng, tôi cũng thường giảng, đạo tràng chúng ta kiến tạo hình dạng gì?  Phải mô phỏng theo kiểu toà Bạch cung, xây kiểu Quốc hội Mỹ quốc, khiến người Mỹ nhìn thấy đây là văn hoá của chúng ta,  họ tự nhiên sẽ đi vào.  Phật, Bồ-tát không có hình tượng nhất định, cần dùng thân gì đắc độ liền hiện ra thân đó.  Cho nên ở Mỹ quốc, tượng Phật, tượng Bồ-tát gương mặt đều giống người ngoại quốc mới được.  Họ thấy rồi liền hoan hỷ, họ sẽ nhập môn.  Tạo gương mặt đều là Trung Quốc, người ta lúc nhìn thấy liền chán ghét, không chịu đến tíếp nhận.  Phải biết Phật pháp là chân thật trí tuệ, thiện xảo phương tiện.

Đáng tiếc những pháp sư trước kia hiểu được, dùng được, người thời nay lại không hiểu.  Chúng ta cần phải từ nhiều phương diện này mà suy nghĩ.  Tôi thường giảng, Phật pháp phải làm cho được bản thổ hóa cùng hiện đại hoá,  tại quốc gia nào phải tùy thuận theo dân tình, phong tục tập quán của quốc gia đó.  Phật pháp là giáo học, giáo học trí huệ.  Cái này chúng ta không thể không biết, là chân thật lợi ích chúng sanh.  Giúp đỡ chúng sanh đoạn ác tu thiện. Giúp đỡ chúng sanh chuyển mê thành ngộ, chuyển phàm thành thánh.  Cho nên Phật pháp chính là chỗ mà ngày nay một số người giảng: là xã hội giáo dục của đa nguyên văn hoá.  Đối tượng dạy học không phân quốc gia, không phân chủng tộc, không phân tôn giáo, hữu giáo vô loại.  Phật là dùng tâm chân thành bình đẳng, từ bi ra tiếp dẫn rộng khắp chúng sanh.  Cái này chúng ta cần phải nên học tập.  Cho nên dục vọng phải bớt, người thế gian nhiều tham muốn, thiểu dục chính là giáo hoá chúng sanh.  Bạn xem quý vị đa dục rất khổ.  Tôi lắng lòng ít muốn, cho nên tôi tự tại rất khoái lạc.  Chúng ta nhất định phải từ trên hình tượng làm ra cho người xem, thành tựu chính mình mới là chân thật thành tựu.  Chúng sanh, tự mình không thể thành tựu lại muốn giúp đỡ người khác.  Nên kinh Phật thường giảng, không có đạo lý như vậy.

“Thiểu dục” lại còn thêm hai chữ “vô vi”.  Vô vi là gì?  Chúng ta hôm nay giảng tùy hỷ, tùy duyên, quyết định không có thành kiến, quyết định không thể nói.  “Tôi muốn như vậy, thích làm như vậy”.  Đó là khẳng định tạo nghiệp.  Tất cả phải tùy duyên.  “Hằng thuận chúng sanh, tùy hỷ công đức”.  Chúng ta mới hay đắc được thân tâm tự tại.  Tự tại là không có phiền não, không có dục vọng.  Chỉ cần thân tâm được tự tại, thì phước báo, trí huệ, khoẻ mạnh (sống lâu) cũng tùy theo đó mà đến, đều có ở trong đó.  Còn cố ý mong cầu, tức là tự mình đi tìm cái khổ.  Chúng ta chỉ cần lặng lẽ quan sát sẽ thấy được, sự lý nhân quả đều ở ngay trước mặt.  Người thông minh còn phải đợi đến Phật nói hay sao?  Bạn toàn bộ đều nhìn được rõ ràng rồi.  Minh bạch rồi, thì làm gì có đạo lý không có giác ngộ, không giác tri?

Phật pháp là một môn học vấn trí huệ viên mãn.  Trong Phật pháp thường giảng: “Phật thị môn trung hữu cầu tất ứng”. Câu nói này là chân thật.  Tôi lúc mới học Phật, hãy còn chưa có xuất gia, thầy tôi nói với tôi, đã như ở trong Phật pháp cầu làm Phật, làm Bồ-tát đều có thể làm được.  Cầu thoát ly sanh tử luân hồi, thoát ly thập pháp giới đều là việc lớn còn làm được.  Thế gian danh văn lợi dưỡng, ngũ dục lục trần, chỉ là lông gà vỏ tỏi, là chuyện nhỏ, đâu lý gì cầu không đến được?  Vấn đề là bạn phải hiểu được đạo lý làm sao để cầu, phải hiểu phương pháp cầu , như lý như pháp mà cầu, không cái gì cầu chẳng được.  Ấn Quang đại sư ở những năm về sau cực lực đề xướng Liễu Phàm Tứ Huấn.  Chư vị nếu như đối với thế gian, có nguyện ý mong cầu tất cả pháp, muốn cầu danh văn lợi dưỡng,  chỉ cần nghiên cứu thật tốt cuốn Liễu Phàm Tứ Huấn,  thì chắc rằng bạn sẽ được có cầu tất ứng.  Nhưng học Phật phải có chí hướng cao thượng.  Thế gian này quá khổ rồi, thật tại là khổ không thể nói hết.  Chúng ta cần phải cầu thoát ly sáu nẻo, thoát ly mười pháp giới.  Chúng ta phải cầu sớm một ngày làm Phật, làm Bồ-tát để giúp đỡ thế gian khổ nạn chúng sanh.

 

ĐIẾU GIÁC BIẾT THỨ BA

Kinh văn:

Đệ tam giác tri
Tâm vô yếm túc
Duy đắc đa cầu
Tăng trưởng tội ác
Bồ-tát bất nhĩ
Thường niệm tri túc
An bần thủ đạo
Duy tuệ thị nghiệp.

DỊCH:

Điều thứ ba phải thêm giác biết:
Đắm mê trần mải miết chẳng dừng.
Một bề cầu được vô chừng,
Tội kia thêm lớn có ngừng được đâu.
Những hàng Bồ-tát hiểu sâu,
Nhớ cầu tri túc chẳng lâu chẳng sờn.
Cam nghèo giữ đạo là hơn,
Lầu cao trí tuệ chẳng khờn dựng lên.

Kinh văn nói được rất rõ ràng, 3 câu đầu là phàm phu.  Bốn câu sau là Bồ-tát, đối chiếu so sánh sẽ thấy được sự hiển bày rõ rệt.  Người phàm phu: “Tâm vô yếm túc, duy đắc đa cầu”.  Đây là nói rõ tâm thức của lục đạo phàm phu, đặc biệt là xã hội nay của chúng ta.  Vì sao sự hội nhập của xã hội tạo thành toàn là tham sân si mạn, hiện tượng này hầu như phổ biến khắp nơi.  Chúng ta lặng lẽ quan sát tư duy sẽ phát hiện.  Đây là vấn đề giáo dục.  Có thể nói hầu hết các nước đông phương, tự xưa đến nay, không ai chẳng tôn trọng lời giáo huấn của thánh hiền.  Lời dạy thánh hiền, không luận là nho gia, đạo gia, đều là một đại văn hóa thể hệ.  Xưa nay đều là dạy luân thường đạo đức, nhân nghĩa.  Những quan niệm này đối với dục vọng vật chất, tóm lại là mong cầu không được quá phần, mà coi trọng hưởng thụ trên tinh thần.

Chúng ta thấy được rất nhiều văn tự, thi, từ, ca phú của người xưa.  Ngày nay chúng ta đọc lại vẫn có thể cảm nhận được đời sống sanh hoạt của họ sao mà tự tại an lạc. Cho nên đối với việc tri túc thường lạc, họ đều thể hội đến được.  Người thời nay, một đời dụng tâm là cố gắng hết sức để truy cầu dục vọng.  Dục vọng thì không bao giờ cùng tận.  Nói cách khác, họ trọn đời là sanh hoạt ở trong thống khổ, trọn đời đem thân tâm sinh hoạt ở trong khẩn trương, trọn đời không đạt được một chút nhân sanh lạc thú. Chúng ta thật suy nghĩ chẳng thông, họ sống là vì cái gì?  Thế gian này sanh hoạt chỉ vì kiếm tiền để sống thôi sao? Là vì tham cầu ngũ dục lục trần để mà sống thôi sao?  Chúng ta đem Phật pháp để đối chiếu so sánh một chút, liền phát hiện, họ là ở trong một đời tạo quá nhiều tội nghiệp.  Những tội nghiệp này tất nhiên sẽ chiêu cảm thành khổ báo trong ba đường ác.

Mấy chục năm nay chúng ta vì sao sống khổ như vậy?  Quán sát minh bạch rồi xác thật khiến chúng ta cảm khái vạn thiên, quay đầu nhìn lại suy gẫm, thấy rằng chúng ta trong đời này vô cùng may mắn, gặp được chánh pháp, gặp được thiện tri thức vì chúng ta giảng giải, hướng dẫn chúng ta tu hành.  Khiến chúng ta đời này không đến nỗi đọa lạc, chí ít thì chúng ta dù có phạm quá thất, cũng tội nghiệp giảm thiểu đến mức độ thấp nhất.  Chúng ta còn phải nổ lực tinh tấn hy vọng về sau, ở tuổi về già tuy rằng ngày giờ không còn nhiều, cũng hy vọng đến một ngày có thể làm được tâm địa thuần tịnh, hành vi thuần thiện, đó là điều vui mừng lớn.  Có thể trong một đời, chúng ta có thể làm được, liễu sanh tử, xuất luân hồi.  Cầu sanh tịnh độ có được chỗ nắm chắc rồi, thì chúng ta trong một đời này quả thật đã sống được không uổng phí.

Phật Bồ-tát, tổ sư đại đức thị hiện cho chúng ta, đó chính là khuôn mẫu của chúng ta.  Khuôn mẫu gì?  Là xuất ly sáu nẻo luân hồi, là xuất ly sanh tử phiền não.  Chúng ta cần phải giác tri, cần phải học tập, áp dụng.  Quyết định không thể “tăng trưởng tội ác”.

Người học Phật nếu ngày ngày “tăng trưởng tội ác” thì việc này vô cùng nghiêm trọng. Do vì hình tướng của họ là đệ tử Phật, không phải phàm phu thông thường.  Phàm phu bình thường tạo tác tội nghiệp, họ đương phải chịu quả báo, cái này quyết định không thể tránh khỏi.  Còn như bản thân là đệ tử Phật, dùng chiêu bài Phật pháp, tự mình biểu hiện là hình tướng Phật, cũng ngày ngày tại tăng trưởng tội ác, việc này chính là phá hoại hình tượng Phật, phá hoại hình tượng chánh pháp, tội này càng thêm nặng.  Nếu như trên mặt ảnh hưởng của nó rộng, ảnh hưởng thời gian dài, thế thì phiền phức lớn rồi, tội kết thành cũng sâu nặng như thế.

Chư vị đồng tu đều biết:  phá hoà hợp tăng, đây là một tội trong ngũ nghịch tội, nhất định đọa A tỳ địa ngục.  Ngũ nghịch tội:

1) Giết cha

2) Giết mẹ

3) Giết A-la-hán, việc này không dễ, số người phạm tội này cũng không nhiều.

4) Làm thân Phật chảy máu, đây là có tâm ác ý hủy hoại hình tượng Phật, Bồ-tát, cái này tính thành là làm thân Phật chảy máu, số người phạm cũng không nhiều.

5) Phá hòa hợp Tăng, việc này rất dễ phạm phải, chính là phá hoại tăng đoàn.   Nhưng chúng ta thử nghĩ, phá hoại hình tướng Phật.  So với phá hòa hợp tăng hà không phải hãy còn nghiêm trọng hơn?  Bạn phá hoà hợp tăng, chỉ là hủy hoại một đạo tràng. Còn nếu bạn hủy hoại hình tướng Phật là khiến cho xã hội đại chúng, đối với Phật giáo khởi sanh phản cảm, khởi sanh chán ghét.  Cho nên phải biết việc này vô cùng nghiêm trọng.

Học Phật là cầu trí huệ, người có trí huệ tất sẽ thấy được việc này.  Nho gia thường giảng:  Chỉ ra một góc liền biết được có ba góc kia. Trong Phật pháp cũng thường giảng: nghe một biết mười, một nghe ngàn ngộ.  Chúng ta minh bạch một đạo lý, thì có thể quán thông được rất nhiều sự lý.  Chúng tôi thường khuyên nhắc đồng tu học Phật, hình tướng Phật rất quan trọng, nhưng có rất ít người nghe được ngộ nhập, rất ít người có thể làm theo.  Cho nên không đủ để thay Phật ở trong xã hội dựng nên một khuôn mẫu tốt, khiến cho mọi người kính trọng.

Chúng ta ở trong mỗi niệm đều là hy vọng thay Phật pháp dựng nên một hình tướng tốt đẹp, người học Phật phải có tình có nghĩa, có ân có đức.  Bạn mới khiến xã hội đại chúng tôn trọng.  Xã hội đại chúng tôn trọng bạn chính là tôn trọng Phật pháp, cũng là tôn trọng Phật, Bồ-tát.  Chư vị thử nghĩ công đức này bao lớn?  Nếu như chúng ta chỗ biểu hiện khiến người khác sanh lòng hủy báng khinh mạn, không thèm nhìn mình là chuyện nhỏ, không thèm nhìn Phật, Bồ-tát, không để ý đến Phật pháp, cái này tất làm cho xã hội đại chúng tạo thành ảnh hưởng rất lớn.  Chúng ta tự mình tạo lỗi lầm, là tăng trưởng tội ác.

Ba câu này, nếu xem lướt qua thấy cũng rất bình thường, nhưng bạn tỉ mỉ quán sát. Sẽ thấy được ở trong đó có đại học vấn, có ý nghĩa rất sâu rộng.  Chúng ta khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác là  đang tạo phước, hay là gây họa.  Phật ở chỗ này đã đề tỉnh chúng ta.  Chúng ta phải dụng tâm tỉ mỉ quán sát, tư duy.  Trước kia Lý lão sư thường dạy bảo học sinh, làm đệ tử Phật phải ghi nhớ:  chúng ta ngày ngày phải ở trên mặt Phật thiếp vàng, nghĩa là chúng ta trên hành vi, phải y giáo phụng hành, thì mặt Phật mới có được nét điểm quang.   Chúng ta cần phải phước huệ song tu.  Ngàn vạn lần không phải ở trên mặt Phật tô son điểm phấn, cái đó là tạo tội nghiệp, trái ngược giáo huấn Phật, tạo thành ảnh hưởng mất mặt.  Tội nghiệp đó đọa A tỳ địa ngục, không thể không biết.

Kinh văn:

Bồ-tát bất nhĩ
Thường niệm tri túc
An bần thủ đạo
Duy tuệ thị nghiệp

Đây là Phật dạy chúng ta.  Chúng ta cần phải giác tri, cần phải hiểu được tri túc thường lạc.  Người chỉ cần tri túc biết đủ, thì lòng họ liền chẳng còn ý niệm mong cầu.  Người xưa thường nói: “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao”. (người đến chỗ vô cầu phẩm đức tự cao).  Người giác ngộ, người chân chánh tu hành tại thế gian này, khẳng định là với người không tranh, với đời không cầu. Họ xác thật đối với “an bần thủ đạo”, chân chánh làm đến được. An phận nghèo giữ đạo.  Không chỉ đối thế gian pháp không tham cầu, mà luôn cả xuất thế gian pháp cũng không ngoại lệ.  Trong Kinh Kim Cang Bát Nhã giảng rất hay: “Pháp thượng ưng xả, hà huống phi pháp?”  Pháp đây là Phật pháp.  Phật pháp phải buông xuống, đều không nên tham cầu, hà huống thế gian pháp, chỗ này nói được tường tận rồi.  Đạo lý này rất sâu, chúng ta phải nhận chân học tập, nghiên cứu. Tại vì sao luôn cả Phật pháp đều không thể tham cầu?  Đạo lý này trong đại thừa kinh giảng: Phật pháp là nhân duyên sanh, là nhân duyên sanh pháp, phàm là nhân duyên sanh pháp đều không phải là chân thật.  Cho nên Phật pháp cũng không ngoại lệ.  Vậy thì cái gì là chân thật?  Chỉ có tự tánh là chân thật .  Trong tự tánh một pháp cũng không lập, không chỉ chẳng có thế gian pháp, Phật pháp cũng không.  Trong tự tánh chỉ còn một pháp có thể lập tức đã đem tự tánh phá hoại rồi.

Phật nói trong Đại Phật Đảnh Thủ Lăng Nghiêm Kinh rằng: “Tri kiến lập tri, thị vô minh bổn”. Đây là vấn đề Phú Lâu Na tôn giả hướng đức Thế tôn thỉnh giáo, trong tự tánh xưa nay vốn không có vô minh, tại vì sao ngày nay lại thấy có vô minh?  Vô minh rốt cuộc là từ chỗ nào đến?  Phật thuyết:  “Tri kiến lập tri, tức vô minh bổn?” (ngay nơi cái thấy biết đem lập thành có cái biết, đó là gốc của vô minh).  Chỉ bằng vào một câu nói này liền đem vấn đề phá sạch. Việc này là do chính bạn hy vọng kiến lập, cho nên phiền toái liền đến rồi.  Lục tổ Huệ Năng thật là bậc cao minh, ngài nói: “Bổn lai vô nhất vật, hà xứ nha trần ai” (Xưa nay không một vật, chỗ nào dính bụi trần). Một pháp đều chẳng lập, đó chính là minh tâm kiến tánh.  Bạn hãy còn lập một pháp thì bạn sai rồi.  Đó là gốc của vô minh, cũng là bất tri túc (không biết đủ).  Người tri túc thì trong tâm một niệm cũng không sanh.  Không luận ở tại cảnh giới nào, thiện duyên cũng tốt, ác duyên cũng tốt, thuận cảnh cũng tốt, nghịch cảnh cũng tốt, tại Cực lạc thế giới cũng tốt, tại A tỳ địa ngục cũng tốt, tuyệt đối không được khởi tâm động niệm, không thể có vọng tưởng phân biệt chấp trước, đó chính là tri túc.  Trong tâm còn có một niệm tốt xấu, thiện đường thì tôi hoan hỷ, địa ngục thời tôi chán ghét.  Một niệm tốt xấu đó chính là vô minh, chính là kiến lập, cũng chính là không biết đủ, tức là sai rồi.

Kinh văn này nói được rất giản đơn, phần văn chương câu câu đều là đề mục.  Mỗi một cái đề mục đều có thể làm thành đại văn chương.  Mỗi một câu nói, nếu viết thành sách đều là đại trứ tác.  Việc này chúng ta không thể không hiểu, không thể không minh liễu, không thể không nhận chân học tập.

“Thường niệm tri túc”, câu nói này ý nghĩa sâu rộng vô hạn.  Có thể nói, các bậc thánh hiền của thế xuất thế gian, các ngài tự mình đều đã làm được, biểu diễn cho chúng ta xem.  Các ngài dạy dỗ chúng ta cũng phải học theo Thánh hiền, học tập sống được như Phật vậy.  Chúng ta ở trong kinh điển thấy được rất nhiều, đặc biệt là Phật pháp, Bồ-tát muốn thành Phật trước tiên phải làm Bồ-tát bổ sứ, chính là làm hậu bổ Phật.  Bổ xứ Bồ-tát trụ tại nơi nào?  Là trụ tại “Đâu suất thiên”.  Đâu suất là phạn ngữ, dịch nghĩa là “tri túc”.  Quý vị thử nghĩ xem đây là ý nghĩa gì?  Bồ-tát phải chân chánh đem hạnh tri túc làm đến được viên mãn rồi, thì ngài liền thành Phật.  Mặc dù đang tu “tri túc” hạnh, nhưng mà chưa tu đến được viên mãn, cho nên ngài vẫn còn làm Bồ-tát.  Hạnh tri túc tu được viên mãn rồi thì viên thành Phật đạo.  Hiện tại Di Lặc Bồ-tát tại “Đâu suất thiên” tu công phu gì?  Tu công phu tri túc biết đủ, đợi đến khi ngài tu viên mãn rồi, ngài đến thế gian này thị hiện thành Phật.

Thích Ca Mâu Ni Phật tại trong Di Lặc hạ sanh kinh nói với chúng ta ngài đến lúc nào thị hiện thành Phật?  567 ngàn vạn năm sau.  Chúng ta nghe đến cái thời gian này quá dài, nhưng mà tại Đâu suất thiên lại không lâu.  Đâu suất thiên cùng với chỗ chúng ta đây có cái khác biệt, gọi là thời sai,  Phật tại trong kinh nói với chúng ta  Đâu suất thiên một ngày thì nhân gian 400 năm.  Nơi đó cũng là 365 ngày một năm, thọ mạng của họ vào khoảng 4000 tuổi.  Tính theo cách ngày, thì đợi  đến Đâu xuất thiên thọ mạng của ngài hết rồi, ngài sẽ đến nhân gian thị hiện thành Phật.  Thế gian này dùng theo thời gian trên quả địa cầu của chúng ta mà tính chính là 56 ức 7 ngàn vạn năm.

Pháp vận  của đức Thích Ca Mâu Ni Phật có tất cả chỉ là một vạn hai ngàn năm (tức là 12,000 năm).  Hiện tại là thời kỳ mạt pháp. Mạt pháp một vạn năm hiện tại đã qua hết 1000 năm, hãy còn 9,000 năm.  Cho nên rất nhiều tôn giáo giảng thế giới tận thế.  Phật giáo chúng ta không giảng có tận thế, nhưng mà Phật giáo giảng thành là có kiếp nạn rất lớn.  Kiếp nạn này là cái gì?  đại tam tai, tiểu tam tai, tôi nghĩ kiếp nạn này chỉ là tiểu tam tai.  Tiểu tam tai:

1.- Đao binh kiếp

2.-  Ôn dịch

3.-  Đói khát

Trước đây tôi học kinh giáo, nghe lão sư giảng tiểu tam tai, và tự mình cũng tìm xem trong chú sớ của cổ đức giảng về tiểu tam tai, tôi đều không có cách gì lý giải, thật là nghĩ chẳng thông.  Bạn xem thế giới chúng ta đã trải qua đệ nhất đại thế chiến, cũng đã trải qua đệ nhị đại thế chiến.  Tại tiểu tam tai trong đao binh kiếp này đều không tính là đao binh kiếp.  Tiểu tam tai đao binh kiếp hết bao lâu thời gian?  Trên kinh giảng cho chúng ta 7 ngày 7 đêm, tôi thật không liễu giải được.  Sau khi gánh chịu đao binh kiếp lại còn 7 tháng 7 ngày ôn dịch.  Ôn dịch vừa trải qua lại có 7 năm 7 tháng 7 ngày đói khát.  Chỗ trên kinh giảng đó, chúng tôi thật không có cách nào lý giải.

Tôi lần đầu tiên đến Nhật bản cùng đi với Đạo An pháp sư . Năm đó là Tá Đằng Vinh thủ tướng qua đời,  chúng tôi đến nhà ông ta đi phúng điếu.  Con thứ của ông ta Tá Đằng Tín tiếp đãi tôi.  Nhân cơ hội này, chúng tôi đến trường khí “Quảng đảo” đi tham phỏng. Vừa nhìn thấy trạng huống bộc phát của đạn nguyên tử, tôi liền hốt nhiên minh bạch. Trên Phật kinh giảng tiểu tam tai chính là chiến tranh hạt nhân.  Người làm ở Quảng đảo nói với tôi.  Chúng ta đi tham quan “Bác vật quán”.  Nhìn vào mấy tấm ảnh, ông ta giảng giải: sau khi đạn  hạt nhân bộc phát, ôn dịch chính là bị  nhiễm “bức xạ trần”.  Tuy rằng lúc bấy giờ chưa chết,  bị “bức xạ trần” chiếu xuyên qua xong thọ mạng đại khái chừng được nửa năm.  Phật kinh giảng 7 tháng 7 ngày tiếp theo, là nói ở địa phương đó cỏ cây không sanh trưởng, tôi độ lúc đó đại khái là năm thứ 9, mặt đất mới bắt đầu mọc cỏ.  Ông ta nói với tôi năm nay mặt đất mới có cỏ, mới có cây nhỏ.  Trong vòng 7 – 8 năm trên đất cỏ cây còn chưa mọc thì đương nhiên phải đói khát.  Tôi mới minh liễu.  Thế tôn chỗ giảng tiểu tam tai chính là chỉ cho đệ tam đại thế chiến hạt nhân.  Còn các tôn giáo trong kinh điển chỗ giảng là thế giới tận thế! Trong Phật giáo xưng làm tiểu tam tai.  Chúng ta thử xem hiện tại tiểu tam tai rất có thể phát sanh, điều này chân chánh khiến người ta cảm thấy bất an.  Nhưng người chân chánh học Phật “thường niệm tri túc”, thì nỗi sợ hãi này không còn nữa. Vì sao?  Khi bom hạt nhân bộc phát, chúng ta không còn ở đời nữa, chúng ta thuận theo cơ hội này vãng sanh tây phương cực lạc thế giới đi rồi.  Đã có chỗ tốt để đi, cho nên đối với thế gian này quyết một chút mảy may không lưu luyến.  Còn người không học Phật, người không tu tịnh độ, khổ nạn đó liền biến thành vấn đề nghiêm trọng. Họ tất định ôm ấp lòng oán hận, họ là hạng sẽ có mối quan hệ giữa người với người, giữa người cùng với tất cả động vật, giữa người cùng với quỷ thần, oan oan tương báo không bao giờ ngừng dứt.  Cho nên nghĩ đến đây, cảm thấy tai nạn này quả thật quá đáng sợ.  Khủng bố không phải chỉ ở một đời một kiếp, mà là đời đời kiếp kiếp.  Này chúng ta không thể không có giác tri.  Nên “thường niệm tri túc”, đây là hành môn, trong pháp tu hành này so với pháp môn nào cũng đều trọng yếu.

Xã hội thời nay, sau lần phát sanh vụ 9-11 tại New York Mỹ quốc.  Toàn thế giới đều cảm nhận được xung đột nghiêm trọng cho nên có không ít trường học, một số chuyên gia học giả, đều xúc tiến nghiên cứu làm thế nào tiêu trừ xung đột, mong đem lại sự hòa bình cho thế giới.  Chúng ta hôm nay đọc đến đoạn kinh văn này, Phật đã đem nguyên nhân nói ra rồi.  Nguyên nhân xung đột là tại  ở đâu?  Chính là “Tâm vô yếm túc, duy đắc đa cầu”.   Hết thảy chúng sanh, thân tâm trong ngoài đều thường gặp phải xung đột, đức Phật chỉ một lời liền đem việc này phá sạch hết.  Chúng ta cần phải làm gì để hóa giải xung đột?  Phật dạy bảo chúng ta, “Thường niệm tri túc, an bần thủ đạo”. Chỉ cần chúng ta trong ngoài xung đột đều hóa giải rồi, thì thế giới hòa bình, nhân dân an định, xã hội phồn vinh, sự hưng vượng này không phải là khó thực hiện. Nếu như xung đột này không thể hóa giải, chúng ta sẽ gặp phải đệ tam đại thế chiến. Chiến tranh  này khoa học gia nói với chúng ta, đối với quả địa cầu này gọi là  “ngày tàn chiến tranh”.  Tôi nghe người ta nói trong Ái Nhân Tư Thản Tằng Kinh có nói đến Đệ tứ đại thế chiến, lúc bấy giờ vũ khí người ta dùng đến là gậy gộc và đá.  Quý vị nghĩ xem đây là ý nghĩa gì?  Tất cả văn minh của nhân loại, tại trong lần đại thế chiến thứ ba này toàn bộ bị hủy diệt, cho nên phải bắt đầu lại từ gậy gộc và đá.  Bạn nói xem, hiện tượng này có phải thật đáng sợ lắm không?  Thế giới hiện nay, xác thật có không ít nhân hào chí sĩ vô cùng lo lắng.

Ở Anh quốc, bác sĩ Thang Ân Tỷ nói: để giải quyết vấn đề xã hội của thế kỷ 21 duy chỉ có Khổng Mạnh học thuyết cùng đại thừa Phật pháp.  Đây là chân thật trí huệ, có học vấn, có nhãn quang, có kiến địa.  Chúng ta trong kinh Phật không luận là bộ kinh luận nào. Bạn chân chánh xác thật lý giải được giáo nghĩa, phải kiêm đủ y giáo phụng hành, đủ sức đẩy rộng.  Xác thật là có thể giúp đỡ thế gian, cứu giúp chúng sanh khổ nạn, có thể giúp đỡ họ hoá giải xung đột, mang lại hòa bình hạnh phúc.  “Thường niệm tri túc, an bần thủ đạo, duy tuệ thị nghiệp”.  Bồ-tát chỗ cầu là giới định huệ tam học. Chúng sanh thế gian chỗ cầu là tham, sân, si mạn.  Cùng Bồ-tát hoàn toàn tương phản, Bồ-tát là xả tham sân si mạn, nhất tâm nhất ý tại truy cầu giới định trí tuệ.

ĐIỀU GIÁC BIẾT THỨ TƯ

Kinh văn:

Đệ tứ giác tri
Giãi đãi trụy lạc
Thường hành tinh tấn
Phá phiền não ác
Tồi phục tứ ma
Xuất ấm giới ngục

DỊCH:

Điều thứ tư cần nên giác biết:
Kẻ biếng lười hạ liệt trầm luân.
Thường tu tinh tấn vui mừng,
Dẹp trừ phiền não ác quân nhiều đời.
Bốn ma hàng phục như chơi,
Ngục tù ấm giới thảnh thơi ra ngoài.

“Giãi đãi trụy lạc”, câu  nói này chúng ta nhất định phải ghi nhớ thật tốt. Nhân tố đoạ lạc thứ nhất chính là giãi đãi.  Cho nên Phật ở trong kinh luận thường giảng chính là thiện căn.  Trong thế pháp thiện căn có 3 điều: vô tham, vô sân, vô si.  Hết thảy thiện pháp của thế gian đều từ 3 cái gốc này sanh ra.  Còn thiện căn của xuất thế gian chỉ có một cái, đó là tinh tấn.

Tinh tấn là thiện căn duy nhất của Bồ-tát.  Nói cách khác giãi đãi là mặt trái của tinh tấn.  Giãi đãi thời đọa lạc, tinh tấn thì hướng lên đề thăng, đấy là đạo lý nhất định.  Giãi đãi cùng tinh tấn đều có chánh phản hai mặt, tức trong Phật pháp giảng là 2 mặt thiện ác. Người thế gian, chúng sanh trong lục đạo, đặc biệt chúng sanh trong tam đồ.  Họ đối với ác pháp, việc xấu vô cùng tinh tấn, thật là một chút cũng đều không lười biếng, nhưng mà đối với thiện pháp, việc tốt họ lại hoàn toàn không lưu ý, giãi đãi, lười biếng.

Cho nên Phật, Bồ-tát thánh hiền dạy bảo chúng ta, đối với hết thảy thiện pháp phải tinh tấn, còn đối với tất cả ác pháp chúng ta nên lười biếng.  Chính là đạo đức, nhân nghĩa.  Chúng ta nhất định phải dõng mãnh tinh tấn làm.  Đạo là pháp tắc tự nhiên, là nguyên lý nguyên tắc tự nhiên.  Phàm những gì có thể tùy thuận pháp tắc tự nhiên, đây gọi hành đạo.  Phải đem đạo lý này thực hành ngay trong sanh hoạt hằng ngày của chúng ta. Nho gia giảng: “Luân thường đại đạo”, hoàn toàn là tùy thuận phép tắc tự nhiên. Thứ nhất là phu phụ (đạo vợ chồng).  Chúng ta xem hiện thật của thế giới ngày nay, đạo vợ chồng không còn nữa.  Bạn xem các nơi, tỷ suất ly hôn rất cao.  Giữa vợ chồng thường gây mâu thuẫn nghiêm trọng, việc thường thấy nhất chính là tài sản.  Tài sản của chồng thì đem che giấu mất, vợ không biết, tài sản của vợ cũng đem giấu chồng, mỗi người đều giữ quyền của cải riêng tư.  Ẩn tàng của cải riêng thì luân thường đại đạo liền phá hoại.  Sự che giấu riêng tư này đưa đến sự xung đột giữa người và người.  Giả sử giữa vợ chồng, cha con đều không đủ đối mặt chân thành, đều là dùng tâm hư nguỵ, tâm che giấu, tâm dối trá, thì thế gian làm sao chẳng gặp kiếp nạn?

Chúng ta ngày nay may mắn nghe được Phật pháp.  Phật dạy chúng ta không chỉ riêng đối với người thân của mình phải ngay thẳng, mà đối với tất cả mọi người, hết thảy chúng sanh, đều phải đem trọn lòng chân thành ra tiếp đãi.  Tâm chân thành chính là tùy thuận pháp tánh, tùy thuận tánh đức.  Đây là đi trên con đường Phật, con đường Bồ-tát.  Nếu như buông bỏ tâm chân thành, dùng tâm hư nguỵ để đối diện với tất cả người, sự vật, thì đây là tà đạo, là ác đạo, nhất định trụy lạc.  Điều này chúng ta không thể không biết, nhất định phải minh bạch rõ ràng.  Đạo vợ chồng, cha con, anh em, quân thần, bạn bè, đây là quan hệ giữa người và người, là quan hệ chánh thường, là đại đạo.  Hiểu được những mối quan hệ này thì phải biết tự mình cần cầu tận nghĩa, làm tròn phận sự của mình.  Chúng ta trong sinh hoạt đời sống cần giữ tâm chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi. Nghĩa vụ, bổn phận của chúng ta tất cần phải làm cho tốt.  Ở phần trước thường hành tinh tấn,  nghĩa vụ đó chính là đức.  Đối với trung hiếu nhân nghĩa không thể không cần cầu, không thể không nhận chân nổ lực làm ra gương mẫu tốt cho xã hội đại chúng xem.  Làm người không thể không có ân, nghĩa, trung, hiếu.  Trung là trung tâm, tức tâm không có nghiêng lệch, không có tà vạy gọi trung, nếu như  bạn có lệch tâm, có tà niệm thì cái trung này không còn nữa. Trung là tánh đức.  Hiếu đã được giảng qua rất nhiều.  Hiếu là vũ trụ, nhân sanh sát độ, chúng sanh là một thể.  Nếu như bạn còn có ý niệm đối lập, tôi và người đối lập, tôi cùng sự đối lập, tôi với vật đối lập, đối lập thì hiếu không còn nữa, đức cũng mất luôn.  Tu dưỡng đạo đức, giữ phép lễ nghĩa liêm sỉ đều phải do tự bản thân mình đi làm, không cần phải xem người khác.  Vì sao?  Người khác là mê mất tự tánh rồi, giống như chúng ta trước kia chẳng khác, khi chúng ta chưa gặp được Phật pháp, chưa có thân cận thiện tri thức.  Chúng ta cũng mê mất tự tánh.  Chúng ta xác thật là bất trung bất hiếu, bất nhân, bất nghĩa, cũng không lễ nghĩa liêm sỉ, gì cả chúng ta xác thật là như thế đó.  Sau khi gặp được Phật pháp, gặp được thiện tri thức, lúc này mới minh bạch, mới giác ngộ ra, làm lại con người mới.  Ngay một niệm hồi đầu này liền được chư Phật hộ niệm, liền được thiên long, thiện thần ủng hộ, quả báo hiện tiền, phiền não khinh trí huệ trưởng.  Đây là quả báo nội tại của chính bản thân.  Đối với bên ngoài hay được thế gian rất nhiều người kính ái, hiệp trợ, hay tiếp nhận đạt được mọi người hoan nghinh, đây là quả báo bên ngoài.  Quả báo trong ngoài đều tùy theo chúng ta, tự mình tu học có được đạo đức tăng tiến, thì quả báo mang lại càng thù thắng.  Bạn tự mình có thể thể hội đến được.  Nếu như bạn còn tiếp tục giãi đãi trụy lạc, ở nơi danh văn lợi dưỡng , ngũ dục lục trần không ngừng tinh tấn, thì đạo đức nhân nghĩa sẽ trở nên lười biếng, hoàn toàn đọa lạc.  Bạn tuy rằng hiện tiền đắc được một chút thụ hưởng trên vật chất, nhưng vị lai khổ báo thật không thể thiết tưởng nổi.  Việc này chúng ta cần suy gẫm cho nhiều, không thể không giác ngộ.  Kinh văn nửa đoạn sau: “thường hành tinh tấn”.  Bốn câu sau là hiệu quả của tinh tấn, lợi ích của tinh tấn.

“Phá phiền não ác, tồi phục tứ ma”.  Tinh tấn hay vượt thoát ba cõi, sáu nẻo luân hồi.  Cái gì gọi phiền não?  Chúng ta nhất định phải rõ ràng.  Phật ở trên kinh nói với chúng ta, phiền não là nhiễu loạn thân tâm mình.  Khiến cho thân tâm tự mình không được an ổn, không đạt được bình tĩnh.  Phiền não tổng cộng có 3 đại loại: Kiến tư phiền não, trần sa phiền não, và vô minh phiền não.

Kiến tư phiền não, cái gì gọi “kiến tư”?  Kiến là kiến giải, tư là tư tưởng.  Kiến giải, tư tưởng của bạn sai lầm rồi.  Từ chỗ sai lầm của cách nghĩ, cách nhìn khiến sản sanh ra tất cả bất thiện, những điều nên xưng thành kiến tư phiền não.  Cho nên phạm vi của nó vô cùng lớn.   Kiến giải sai, thứ nhất là Thân Kiến. Thân kiến chúng ta nói trắng ra một chút, nói thô một chút là tự tư, tự lợi chính là thân kiến.  Thứ hai là biên kiến.  Biên kiến nói theo cách hiện nay là đối lập, đối với nhau, tôi và người đối lập, thiện và ác đối lập, chân vọng đối lập, thậm chí lớn và nhỏ đối lập, lợi và hại đối lập.  Chỗ có tất cả kiến giải đối lập gọi là biên kiến.  Thứ ba là kiến thủ kiến, và thứ  tư là giới thủ kiến.  Hai loại này chúng ta có thể hợp lại giảng là thành kiến.  Người nào đó thành kiến rất nặng.  Trong thành kiến phân làm hai loại, một loại là thành kiến trên nhân địa; một loại là thành kiến trên quả địa.  “Kiến thủ kiến” là thuộc về thành kiến trên quả báo.  “Giới thủ kiến” là thành kiến trên nhân địa.  Những thành kiến trên nhân địa cùng quả báo đều là sai lầm, đều không phải chính xác. Và thứ năm là Tà kiến, tất cả những kiến giải sai lầm mà không thuộc về bốn điều trên, thì đều quy nạp thành “tà kiến”.  Tức cách nhìn của bạn là sai lầm, không phải chính xác.  Trên tư tưởng sai lầm cũng có năm đại loại: 1.- Tham;  2.- Sân ; 3.- Si ; 4.- Mạn ;  5.- Nghi.  Nghi là đối với lời giáo huấn của Thánh hiền họ sanh tâm hoài nghi, không tin cậy, không chịu tiếp nhận.  Cho nên, sai lầm trên tư tưởng thì có tham, sân, si, mạn, nghi.  Sai lầm trên kiến giải thì có thân kiến, biên kiến, kiến thủ, giới cấm thủ và tà kiến.  Tổng cộng thành 10 điều, trong Phật pháp gọi thành là kiến tư phiền não.

Chỉ cần 10 đại loại phiền não này chưa thể dứt trừ sạch sẽ, thì bạn không có cách chi thoát ly được sáu nẻo luân hồi.  Vì sao?  Sáu nẻo luân hồi chính là kiến tư phiền não biến hiện ra.  Nếu như 10 loại kiến tư phiền não này dứt sạch rồi thì sự biến hiện của sáu nẻo luân hồi cũng không còn nữa.  Nhân địa đã không thì quả báo đương nhiên không có.  Lúc này ở trong Phật pháp xưng thành là chứng đắc A-la-hán quả, Bích-chi-Phật quả.  Tức đã vượt thoát luân hồi, không còn ở trong 6 nẻo nữa, mà nhập vào chúng sanh của tứ thánh pháp giới, tức là:  Thanh văn, Duyên giác, Bồ-tát, Phật.  Bạn nhập vào được tầng thứ này đều là do nương vào tinh tấn, bằng vào đoạn phiền não mà có được.

“Tồi phục tứ ma”,  Ma thì có số lượng rất nhiều, có thể nói là vô lượng vô biên.  Nhưng đại khái chúng ta có thể chia làm 4 đại loại:

1.-  Ngũ ấm ma.

Ngũ ấm không ở bên ngoài, là chính bản thân mình.  Ngũ ấm là sắc, thọ, tưởng, hành, thức.  Sắc là vật chất, nhục thân của chúng ta là sắc thân.  Thân này là ma chướng. Bạn thử xem, thân thể này của chúng ta hở ra một chút không cẩn thận liền bị phong hàn, tật bệnh.  Bạn phải chịu bệnh khổ hành hạ.  Phật ở trên kinh giảng cho chúng ta thân này là “ngũ ấm xí thạnh”.  Thọ là cảm thọ.  Bạn thọ khổ lạc ưu hỷ xả.  Tưởng là vọng tưởng, vọng niệm.  Ngày đêm đều không có một sát-na ngưng nghỉ.  Phật tại trên Đại thừa kinh thường nói với chúng ta, “Nhất thiết pháp tùng tâm tưởng sanh”.  Hành là bạn phần trước nói đến, sắc thọ tưởng ở trong sát-na cũng chẳng dừng.  Thức là trong A-lại-da thức, sự khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác của bạn huân tập lại biến thành chủng tử (hạt giống), chủng tử này gặp duyên liền sanh khởi hiện hành.  Đây chính là nói rõ về nhân quả chuyển biến, nhân quả tương tục, nhân quả tuần hoàn. Ngũ ấm ma này hành hạ thân tâm của bạn vĩnh viễn không thể đắc được thanh tịnh, vĩnh viễn không thể đạt được an lạc. Cho nên phải nhận thức cho được loại ma thứ nhất là ngay nơi mình.

2.-  Phiền não ma.

Phiền não: kiến tư phiền não phía trước đã cùng chư vị giảng, còn có trần sa phiền não, vô minh phiền não.  Ba loại lớn phiền não này, chúng ta hiện tại mỗi mỗi đều có đủ 100%.  Kiến tư phiền não đọan rồi thì bạn vượt thoát 6 nẻo luân hồi, bạn có thật được tự tại chưa?  Đương nhiên so với người còn ở trong 6 nẻo mà giảng thì bạn đắc đại tự tại rồi, đem so với Phật, Bồ-tát thì bạn vẫn còn chưa tự tại.  Vì sao?  Bạn còn trần-sa phiền não chưa đoạn.  Sánh với chư Phật Bồ-tát thì bạn hãy còn đang chịu khổ thọ nạn, bạn hãy còn bị ma khống chế.  Trần-sa phiền não đoạn rồi sẽ vượt thoát 10 pháp giới, vãng sanh đến nhất chân pháp giới, chính là Cực-lạc thế giới, Hoa-tạng thế giới.  Họ có còn phiền não nữa không?  Còn! là vẫn còn vô minh phiền não chưa đoạn.  Vô minh phiền não này là tối vi tế khinh linh, khó đoạn nhất.

Cho nên ở trong nhất chân pháp giới vẫn còn có 41 cái vị thứ.  41 cái vị thứ này từ đâu mà ra?  Chính là 41 phẩm vô minh mà có.  Phá một phẩm vô minh, địa vị của bạn liền tăng lên 1 tầng.  Viên giáo sở trụ Bồ-tát phá 1 phẩm vô minh, cho đến Thập trụ Bồ-tát phá 10 phẩm vô minh.

Thập trụ tăng lên đến là thập hạnh, thập hồi hướng, là phá được 30 phẩm vô minh.  Lại tăng lên nữa là Sơ địa Bồ-tát đến địa Bồ-tát.  Thập địa, tức pháp vân địa thì phá được 40 phẩm vô minh.  Đến Đẳng-giác Bồ-tát hãy còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa phá, một phẩm vô minh này phá tận rồi liền chứng đắc Phật quả cứu cánh viên mãn.  Nói cách khác, phiền não đoạn tận thì trở thành người nào?  Chính là Phật vậy.  Cái lý sự này chúng ta cần phải rõ ràng.  Học Phật là học cái gì?  Là đoạn phiền não, là “tồi phục tứ ma”, tức lìa xa ma chướng.  Cho nên chúng ta từ viễn ly kiến tư phiền não, trần sa phiền não, vô minh phiền não.  Đây là nói có thứ tự, có lớp lang, từng bước từng bước mà làm.

3.-  Tử ma

Chết là một thứ ma chướng.  Chúng ta muốn tu hành nhưng khi, đạo nghiệp chưa có thành tựu, mà thọ mạng hết rồi.  Sau khi chết, bạn chẳng có cách nào tinh tấn tu học.  Bạn lại đầu thai, dù cho bạn có thiện căn sâu dày đến đâu. Đợi bạn có lại được thân người, để có thể tiếp tục nỗ lực tu hành, thì ít nhất phải trì hoãn hết 20 năm.  Nói cách khác là công phu tu hành của bạn phải gián đọan hết 20 năm.  Đây là trở ngại.  Chúng ta nghĩ xem, 20 năm mới tái sanh lại được thân người, có thể gặp được Phật pháp không?  Có thể gặp được thiện tri thức?  Có thể chân chánh nối tiếp đời trước để tiếp tục nỗ lực tu hành không gián đoạn chăng?  Điều này thật quá khó quá khó . Có số người một khi bị trở ngại, làm lỡ thời cơ tuy đắc được thân người, nhưng họ không có cơ hội nghe đến Phật pháp, thì không cách nào tinh tấn tu học.  Thường thường một khi bị gián đoạn thì gián đoạn luôn mấy đời mấy kiếp, Phật kinh cố chỗ giảng là thậm chí phải gián đoạn luôn bao nhiêu kiếp. Chúng ta thấy bài kệ khai kinh giảng rất hay: “bá thiên vạn kiếp nan tao ngộ”.  Bạn đời này cơ hội tu học bị đánh mất rồi, lần sau tái sanh gặp được trở lại chính là bá thiên vạn kiếp.  Đây là thuộc về tử ma. Cả 3 thứ ma này đều là thuộc về của bản thân, không phải thuộc về bên ngoài.  Mặt ngoài chỉ có một thứ đó là “thiên ma”.

4.-  Thiên ma

Thiên ma là gì?  Là dụ hoặc của ngũ dục lục trần ở bên ngoài.  Đó là thuộc về thiên ma.  Thế lực của thiên ma ngày nay vô cùng lớn, lực lượng dụ hoặc vô cùng mạnh.  Bởi vì sao?  chẳng có người ngăn cấm.  Xưa kia còn là thời đại hoàng đế, thì hoàng đế có sứ mệnh, có trách nhiệm bảo hộ an toàn thân tâm cho tất cả chúng sanh.  Cho nên khi thấy mấy thứ dụ hoặc, gây bất lợi thì mỗi mỗi đều đem cấm chỉ.  Hiện tại là thời đại của dân chủ tự do khai mở, dụ hoặc của tài sắc danh thực đều đáng nằm ở lực lượng vượt mức quá lớn.  Con nít mới sanh ra, vừa mở mắt nhìn thấy tivi liền bị sự dụ hoặc của thiên ma.  Nó làm sao bảo hộ nổi tánh đức của mình?  Cho nên tánh đức hoàn toàn không còn nữa, tùy theo sự dụ hoặc bên ngoài mà đi.  Vì vậy mà tạo thành đại tai nạn thế giới, tạo thành thế giới tận thế, tạo thành tam tai bát nạn như chỗ giảng trong Phật pháp.

Cho nên chúng ta nhất định phải có giác tri, nhất định phải giác ngộ.  Ở trong Phật pháp phải chân chánh tinh tấn tu học, tu tập đạo nghiệp, để phá trừ phiền não, hàng phục tứ ma.  Để chân chánh có được cái năng lực này, chẳng còn bị dụ hoặc của cảnh giới bên ngoài.  Phương pháp duy nhất chính là ngày ngày thân cận Phật Bồ-tát.  Một bước cũng không được ly khai.  Phật, Bồ-tát ở đâu?  Chính là ở trên kinh giáo, ngày ngày cần phải đọc tụng tư duy, nghiên cứu áp dụng vào đời sống của mình, thực hành trong lúc mình làm việc, trong lúc tiếp người đãi vật, xử sự.  Như vậy mới gọi chân tinh tấn.  Bạn mới đủ năng lực đoạn phiền não, có năng lực viễn ly dụ hoặc, vượt thoát sáu nẻo luân hồi, cầu sanh tịnh độ.

Cầu sanh tịnh độ quyết định không phải là việc dễ dàng.  Điều kiện vãng sanh tịnh độ phải cần đủ tín nguyện hạnh.  Bạn đã làm được điều nào?  Chân chánh tin Phật rồi.  Bạn trong tâm không thể sản sanh một ác niệm.  Bạn hãy còn một ác niệm thì không tin Phật rồi.  Chân chánh nguyện: nguyện đồng Phật nguyện. Bốn mươi tám lời nguyện của đức Phật A Di Đà có nguyện nào là hại người đâu?  Có nguyện nào làm ra bất lợi cho người đâu?  Nguyện của chúng ta có phải đồng nguyện với đức A Di Đà Phật chăng?  Bốn mươi tám lời nguyện của đức A Di Đà Phật đều là phổ độ chúng sanh, đó là hạnh.  Thân ngữ ý ba nghiệp đều phải làm mô phạm cho thật tốt, làm khuôn mẫu sáng ngời, lấy chánh giác để hóa độ chúng sanh, đấy là hạnh. Nếu cả ba chữ này đều không làm được, thì công phu bạn ngày ngày niệm A Di Đà Phật đó, dù mỗi ngày niệm 20 vạn tiếng Phật hiệu.  Người xưa nói: hét bể cuống họng cũng uổng công.  Còn như tín nguyện hành đều được đầy đủ, thì dù bạn trọn đời chỉ niệm một câu A Di Đà Phật cũng đủ rồi, đây là lời thật.  Đầy đủ tín nguyện hạnh, người này là A Di Đà Phật hoá thân, chính là mô phạm của A Di Đà Phật. Họ sao lại không thể vãng sanh.  Những đạo lý, sự thật chân tướng, phương pháp, cảnh giới này bạn không thể không rõ ràng.  Cổ đại đức trong chú sớ giảng được rất rõ ràng, bạn xem không hiểu, bạn thể hội không đến, đó là nghiệp chướng của bạn quá nặng, bạn niệm niệm đều tùy thuận ác nghiệp.  Cho nên trọn đời này tu hành kết quả vẫn không có cách gì thoát ly tam đồ lục đạo, nguyên nhân chính là ở chỗ này.

ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ NĂM

Kinh văn:

Đệ ngũ giác ngộ
Ngu si sanh tử
Bồ-tát thường niệm
Quảng học đa văn
Tăng trưởng trí tuệ
Thành tựu biện tài
Giáo hóa nhất thiết
Tất dĩ đại lạc.

DỊCH:

Điều thứ năm lại thêm giác ngộ:
Ngu si là gốc khổ luân hồi.
Bồ-tát thường nhớ không ngơi,
Nghe nhiều học rộng chẳng lơi chút nào.
Vun bồi trí tuệ càng cao,
Biện tài đầy đủ công lao chóng thành.
Đặng đem giáo hóa chúng sanh,
Niết-bàn an lạc còn lành nào hơn.

Phật giảng cho chúng ta hiện tượng sanh tử có 2 loại:

1.- Phân đoạn sanh tử.

Ở đây chúng ta dùng danh từ sanh diệt chư vị dễ hiểu hơn, càng dễ dàng minh bạch hiện tượng sanh diệt, nó là từng đoạn từng đoạn.  Chúng ta lấy một tỷ dụ đại khái con người từ sinh ra cho đến chết đi, chúng ta gọi là một đời.  Ở trong Phật pháp gọi loại sanh tử này là phân đoạn sanh tử.  Thật ra phân đoạn là giảng về tướng thô, mọi người dễ dàng lý giải.  Nếu như nói thực tế, mỗi ngày xác thật là một ca phần đoạn sanh tử, ngày ngày chẳng giống nhau.  Tối đến sau đi ngủ, người này kể như đã chết đi, sáng ra thì tỉnh lại, một đoạn này cũng như là sống trở lại. Hôm nay quyết định không phải ngày mai.  Cái này nếu như quý vị tinh tế tư duy, không khó minh liễu. Trong Phật pháp giảng được rất vi tế hơn, gọi sát-na sanh diệt.  Cái đó thì một số người thật sự không dễ gì thể hội được, đây là vô minh.  Cho nên hiện tượng sanh tử, sanh diệt từ đâu mà đến là từ vô minh đến.

2.-  Biến dịch sanh tử.

Biến dịch là hiện tượng của sanh tử.  Biến dịch chính là cảnh giới đề thăng.  Giống như chúng ta làm học sinh ở trường đọc sách.  Chúng ta năm nay đọc sách lớp 1, năm sau thăng cấp lớp 2, lên lớp 2 thì lớp một diệt mất, năm lớp 2 sanh ra, cái này thuộc về biến dịch.  Bạn sản sanh biến hóa.  Ở trong Phật pháp lục đạo phàm phu, đều có đủ hai loại sanh tử này, sau khi vượt thoát lục đạo thì phân đoạn sanh tử không còn nữa, chỉ còn biến dịch sanh tử, cũng chính là nói sau khi chứng đắc A-la-hán quả rồi thì không còn phân đoạn sanh tử, chỉ có biến dịch sanh tử.  Họ tu hành tiếp tục không còn bị gián đoạn để hướng lên đề thăng.  Hoa nghiêm kinh đem cảnh giới 41 vị thứ của Bồ-tát ra mà nói.  Ở địa vị Sơ trụ Bồ-tát ngài có năng lực phá thêm một phẩm vô minh, liền sanh đến nhị trụ.  Từ sơ trụ biến đến nhị trụ, đây gọi là biến dịch.  Trong suốt 41 cái vị thứ đều là thuộc về biến dịch, không có phần đoạn sanh tử.  Những hiện tượng này đều rời không khỏi ngu si.  Ngu si là vô minh phiền não.  Cho nên ở trong nhất chân pháp giới 41 vị thứ của Bồ-tát, các ngài vì chưa đoạn dứt được vô minh phiền não nên mới còn biến dịch sanh tử.

Đặc biệt ở trong lục đạo, chúng sanh là ngu si rất nặng, từ trong ngu si phát sanh trần sa phiền não, kiến tư phiền não.  Cho nên không chỉ có biến dịch sanh tử, mà còn có phân đoạn sanh tử.  Cái này chúng ta không thể không biết.

Chư Phật, Bồ-tát xuất hiện tại thế gian, đại từ đại bi giúp đỡ hết thảy chúng sanh, cũng chỉ là giúp đỡ chúng sanh giải quyết vấn đề sanh tử mà thôi.  Sanh tử là đại khổ nạn.  Phật Bồ-tát thoát ly sanh tử, không chỉ phân đoạn sanh tử các ngài không còn, biến dịch sanh tử các ngài cũng không có.  Tự mình thành tựu rồi mới hay thành tựu tất cả chúng sanh.  Phật Bồ-tát vì chúng ta thị hiện, giáo huấn chúng ta: Bồ-tát thường niệm, Quảng học đa văn, Tăng trưởng trí huệ, Thành tựu biện tài. Chỗ này chính là Phật dạy chúng ta làm sao phá trừ ngu si?  bốn câu này vô cùng trọng yếu.

“Quảng học đa văn”.  Tu học tất phải có phương pháp, phương pháp này nói ra thì lại gần giống như cùng “Quảng học đa văn” hoàn toàn tương phản.  Kỳ thật thì không phải thế, nó đích thực là giúp nhau tác thành.  Học tập nhất định phải từ “một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”.  Tam Tự Kinh của Nho gia là tài liệu giáo học dạy cho trẻ em học, trong đó cũng đã đem phương pháp giáo học nói ra rồi: “giáo chi đạo, quý dĩ chuyên”.  Bạn xem chữ chuyên, chữ chuyên này trong Phật pháp giảng: “Một môn thâm nhập, trường kỳ huân tu”, là phải từ chỗ này mà kiến lập cơ sở.

Phương pháp học tập của người hiện nay cùng với nguyên lý này hoàn toàn trái ngược, 180 độ tương phản.  Mới bắt đầu học thì họ cái gì cũng đều phải học.  Đúng là quảng học đa văn,  Kết quả học xong rồi thì họ cái gì cũng không biết.  Người xưa và người thời nay cách nghĩ, cách làm không giống nhau.  Người xưa dạy học giống như trồng cây vậy.  Trước hết nuôi dưỡng gốc rễ,  khi đã thành gốc rễ rồi thì về sau nó tự nhiên sẽ sanh lá, lớn lên, khai hoa, kết trái, cành lá xum xuê, đó chính là “quảng học đa văn”.  Người thời nay trong một lúc cần phải quảng học đa văn, muốn làm coi cho đẹp.  Kết quả học vấn của họ không có căn bản (gốc rễ), cho nên tôi thường dùng hoa trong bồn làm tỷ dụ, coi thì rất đẹp, nhưng chết mất rồi, qua được vài ngày thì khô héo, không còn nữa.  Không giống truyền thống ngày xưa, phương pháp giáo học là sống.  Bạn phải từ trên căn bản mà hạ thủ.  Chân chánh công phu thâm sâu đến một mức độ nhất định thì tự nhiên sẽ khai ngộ, về sau vừa tiếp xúc đến bất cứ cảnh giới gì đều thông.  Một khi tiếp xúc, thì họ liền minh liễu, đó là quảng học đa văn.  Cho nên Phật pháp dạy, hàng sơ học phải từ một môn thâm nhập.  Người hiện nay không chịu học, không thể tiếp nhận, cách giáo học này, vì vậy thời đại nay ở trong Phật pháp không có nhân tài.  Không phải chúng ta bẩm sanh thiên phú không bằng người xưa, chúng ta bẩm sanh ít nhất cùng người xưa giống nhau, không có 2 thứ, thành tựu của chúng ta sánh không bằng người xưa là do phương pháp học tập của chúng ta sai lầm.  Đạo lý này phải hiểu.  Người xưa học cái gì đều là một môn thâm nhập.  Tôi năm xưa học giáo cùng thầy Lý Bỉnh Nam.  Thầy Lý đặc biệt nhấn mạnh điểm này. Nếu như chúng tôi không thể chấp nhận.  Thầy liền nói bạn hãy đến chỗ khác mà học, bạn không cần phải đến chỗ tôi.  Còn như bạn muốn đến chỗ tôi nhất định phải nghe lời tôi dạy, phải tuân thủ phương pháp của tôi.  Chúng tôi vừa đến Phật môn, trước lúc bái lão sư nhập môn liền phải thỏa thuận điều kiện, nhất định phục tùng 100%.  Trước mặt vâng phải, sau lưng làm quấy thì quyết định không hứa khả, đây là tạo gốc rễ.  Bạn chân chánh nghe lời, chân chánh tiếp thụ, thì lão sư chân thật chịu trách nhiệm, hết lòng dạy bạn.

Đến lúc nào mới có thể học rộng nghe nhiều?  Lúc bạn khai ngộ rồi.  Cho nên lão sư dạy bạn, cái đầu tiên chính là đức hạnh, trì giới, tu định. Một môn thâm nhập, học một môn gì đó thì giới định huệ tam học đều tại trên trước.  Chiếu theo phương pháp dạy dỗ của lão sư là trì giới.  Dùng hết tinh thần, thời gian, công lực đều an lập ở trên một bộ kinh, một môn thâm nhập là tu định.  Bạn có giới, có định tự nhiên khai ngộ, khai ngộ là trí huệ.  Bạn có đủ ngộ nhập, sau đó đem giới định huệ, tam học áp dụng vào trong đời sống hằng ngày thì bạn liền có được thọ dụng.  Thứ học vấn này gọi thật học, là học vấn chân chánh, chân chánh có thọ dụng. Đợi đến lúc nào được đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh rồi, thì mới là lúc quảng học đa văn (học rộng nghe nhiều).  Bạn sáu căn tiếp xúc cảnh giới chính là học rộng, vừa tiếp xúc liền thông đạt, không có một điều chi là không thông đạt.

Thích Ca Mâu Ni Phật lúc còn tại thế, giảng kinh thuyết pháp 49 năm, người sau kết  tập tạo thành kinh điển, làm thành đại tạng kinh. Phân lượng lớn như vậy mà ngài Long Thọ Bồ-tát chỉ trong 3 tháng liền học xong, đó gọi là quảng học đa văn.  Chúng ta đem sức lực một đời, thời gian 100 năm học cũng không xong.  Ngài có nền tảng, ngài xác thật là “nghe một biết mười, một nghe ngàn ngộ”.  Long Thọ Bồ-tát 3 tháng đủ sức học xong toàn bộ đại tạng kinh.  Chúng ta cũng có thể làm được như thế, đây là nói thật với quý vị, một chút cũng không giả.  Làm cách nào, chính là nhập Phật cảnh giới, tâm của bạn là đồng với tâm chư Phật.   Nguyện của bạn là đồng nguyện chư Phật,  Hạnh của bạn đồng hạnh chư Phật ngôn ngữ của bạn cũng đồng ngôn ngữ với hết thảy chư Phật Như-lai, một thông hết thảy đều thông.  Thế xuất thế gian phải không có cái gì chẳng thông.  Phương pháp này rất diệu tuyệt.

Chư Phật, Bồ-tát từ trong ức vạn kiếp, đem hết kinh nghiệm phương pháp truyền trao cho chúng ta.  Chúng ta lại y theo vọng tưởng, phân biệt chấp trước của tự mình, không chịu tiếp nhận, không chịu tin cậy.  Cho nên trách nhiệm này tự mình phải gánh lấy, tuyệt đối không phải Phật, Bồ-tát chẳng từ bi, không phải thiện tri thức keo kiết chẳng bố thí pháp.

Thiện tri thức chân chánh, người giác ngộ chân chánh đối với tất cả chúng sanh là bình đẳng, đây gọi “hòa bàn thác xuất” (nói ra toàn bộ sự thật).  Tôi có bao nhiêu thảy đều mang ra cho bạn hết, bạn không thể tiếp nhận thì cũng không có cách chi.  Cho nên tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc chính là: “nhân giới đắc định, nhân định huệ”.  Bạn không tuân thủ pháp tắc, bạn không tu chân thành thanh tịnh bình đẳng giác thì bạn làm sao khai ngộ, làm sao tăng trưởng trí huệ?  Trí huệ tăng trưởng rồi thì biện tài liền thành tựu.  Biện tài tuyệt đối không phải là tư lợi mà là vì lợi tha.

Tự lợi là quảng học đa văn, tăng trưởng trí huệ.  Học rộng nghe nhiều quyết định phải từ trong giới định huệ, ly khai giới định huệ thì không còn là Phật pháp nữa.  Phật pháp là pháp giác ngộ, không phải Phật pháp chính là pháp mê hoặc điên đảo.

Cho nên tôi thường khích lệ quý vị đồng học, tại gia đồng tu, học Phật.  Nếu như bạn đối với thập thiện ngũ giới cũng làm không được, thì bạn không phải là chân đệ tử Phật.  Còn nếu là xuất gia mà luôn cả “sa di luật nghi” thập giới, 24 thiên oai nghi làm chẳng được, thì bạn không phải người chân thật xuất gia.  Không phải  chân thật xuất gia thì bạn là phá hoại hình tướng Phật pháp.  Tại gia đệ tử Phật cũng lại như vậy.  Bạn thập thiện, ngũ giới làm không được.  Bạn không phải đệ tử tại gia của Phật.  Bạn phá hoại hình tướng đệ tử tại gia của Phật.

Trước kia tại Đài trung, Lý lão sư thường giảng, tôi trụ lại đó hết 10 năm, ít nhất nghe thầy giảng đến 1-200 lần, nên có ấn tượng rất sâu.  Ngài giảng lời thật, không một chút khách sáo: “Người học Phật, niệm Phật chân chánh tương lai có thể vãng sanh. Trong một vạn người chỉ có 2-3 người.”  Cổ đại đức giảng pháp môn này là “vạn tu vạn nhân khứ”.  Vì sao một vạn người tu tập mà vãng sanh chỉ có 2-3 người? Vì người này là tín nguyện hạnh mỗi mỗi đầy đủ, tâm họ là tâm Phật.  Nguyện là nguyện Phật, Hạnh là hạnh Phật.  Cho nên họ mới hay được vãng sanh. Còn lại hơn chín ngàn mấy người kia thì tâm họ không phải Phật tâm, vẫn là phiền não tập khí.  Nguyện không phải Phật nguyện, vẫn là tìm cầu tự tư tự lợi, danh văn lợi dưỡng, tham sân si mạn.  Hạnh càng không phải hạnh Phật.  Cho nên ngày ngày chỗ niệm Phật đó, đúng như cổ đức chỗ giảng: “hét bể cuống họng cũng uổng công”.

Chúng ta ngày nay liễu giải được trạng huống xã hội hiện tiền rồi thì phải biết quay lại cầu chính mình, chớ cầu người khác.  Cầu người khác quyết định là sai lầm.  Nhất định phải quay đầu trở lại cầu chính mình, thành tựu chính mình.  Tự mình thành tựu rồi thì hết thảy chúng sanh đều thành tựu.  Tự mình được đắc độ rồi thì tất cả chúng sanh tự nhiên đắc độ.  Cho nên Bồ-tát thành Phật, ngài thấy đại địa hết thảy chúng sanh “đồng thành Phật đạo”.  Câu nói này nếu bạn chưa nhập Phật cảnh giới, thì bạn rất khó lý giải. Một khi nhập cảnh giới rồi thì bạn liền minh bạch.

Mạnh phu tử thuyết rất hay: “phản cầu chư kỷ”.  Lời giảng của thánh hiền chẳng sai, không luận là thuận cảnh nghịch cảnh, thiện duyên ác duyên. Chúng ta lục căn khi tiếp xúc với sáu trần liền quay đầu trở lại phản cầu chư kỷ.  Nếu thấy đó là thiện pháp thì phải nhận chân học tập bảo trì.  Nếu là ác pháp thì phải mau đoạn tuyệt, phải cải tiến.  Để thành tựu đức hạnh cho chính mình.  Giới luật là đức hạnh, thành tựu định công cho tự thân, thành tựu trí huệ cho tự mình. Về sau tự nhiên có đủ năng lực giáo hóa hết thảy chúng sanh.

Hai chữ “Nhất thiết” này thông thường chúng ta đều giảng là chỉ cho cửu pháp giới chúng sanh, không chỉ riêng giảng trong nhân đạo.  Phật Bồ-tát là lấy độ hoá tất cả chúng sanh làm sự nghiệp.  Đầu tiên, chúng sanh cần phải giáo hóa, cần phải thành tựu chính là tự mình.

Thích Ca Mâu Ni Phật đã vì chúng ta làm mô phạm.  Ngài tự mình tu hành, thành đạo, chứng quả sau đó mới ra giáo học.  Chúng ta thường giảng, tự mình trước làm được rồi sau đó lại dạy người khác. Đây là thánh nhân, đệ tử Phật cũng không có ngoại lệ.  Nếu như chưa có chứng đắc chân thật quả vị Bồ-tát.  Bồ-tát có hai loại: 1.- Quyền giáo Bồ-tát; 2.- Thật giáo Bồ-tát.  Thật giáo Bồ-tát là phá một phẩm vô minh thấy một phần chân tánh.  Bấy giờ có thể ly khai lão sư đi giáo hoá một phương.  Nếu như hãy còn chưa minh tâm kiến tánh, họ chỉ có thể thủ tại bên mình lão sư để tiếp nhận giáo huấn của thầy cũng giống như học sinh ở trường, khi còn chưa tốt nghiệp.  Phật pháp Bồ-tát tốt nghiệp là lấy minh tâm kiến tánh làm tiêu chuẩn.  Chưa minh tâm kiến tánh thì phải ở với lão sư, mới không để đi sai đường.  Nếu như không theo sát bậc thầy, mà bắt chước học theo Bồ-tát đi giáo hóa chúng sanh, thế là đi trên con đường vô cùng nguy hiểm.  Vì sao?  Chính là bạn tự mình tạo nghiệp thọ báo, biết phải nói sao đây!  Bạn không những tự làm tự chịu, bạn nếu đem người khác, cũng dắt dẫn họ đi trên con đường sai lầm, thứ tạo tác tội nghiệp, tội lỗi này thì thật vô cùng nghiêm trọng.

Trong Phật pháp thường giảng:  một người mù dẫn dắt theo kẻ mù, kéo nhau vào hầm lửa.  Bạn tự mình không có đạo nhãn, không có giác ngộ, lại còn dẫn dắt chúng sanh cùng theo bạn để rồi đọa lạc.  Quả báo này rất nặng.  Tự mình đọa lạc quả báo không nghiêm trọng, bạn dẫn dắt lầm đường cho người khác, thì tội báo này so với cái gì cũng đều nghiêm trọng hơn.  Cổ đức thường giảng: “địa ngục môn tiền tăng đạo đa” (trước cửa địa ngục, tăng đạo nhiều).  Chữ Tăng đạo đó là bao quát luôn tại gia Phật đệ tử. Nếu bạn không hướng dẫn người khác, thì bạn sẽ không tạo tác lỗi lầm này.  Nếu bạn dẫn dắt người khác, thì bạn phải gánh chịu nhân quả trách nhiệm.  Cho nên nhất định phải thành tựu cho chính mình trước rồi mới đủ khả năng giáo học.

Tôi trước đây ở Đài Trung, Lý lão sư hạn định chưa đủ 40 tuổi thì không thể đi giáo hoá chúng sanh.  Đây là ý nghĩa gì?  Bạn ở trước mặt thầy học tập đã có được chút ít thành tựu rồi, hiện tại tiêu chuẩn thành tựu không giống trước kia , trước kia là phải minh tâm kiến tánh.  Tiêu chuẩn hiện tại là bạn có đủ sức biện biệt thị phi, tà chánh, chân vọng, có năng lực biện biệt mấy thứ này.  Bạn có thể ly khai lão sư, mà không đến nỗi đi lầm đường lạc bước.  Nếu không có năng lực biện biệt tà chánh, thị phi, chân vọng, bạn quyết định không thể ly khai lão sư.  Ly khai lão sư quyết định đọa lạc.  Đạo lý này chúng ta không thể không hiểu.

“Đại lạc”  chính là phá mê khai ngộ, thoát ly được phiền não sanh tử luân hồi.  Nói cụ thể là chân chánh đắc sanh tây phương cực lạc thế giới, đây mới thật là chân chánh đại lạc.

“Tất” là bình đẳng, trong đây quyết định không có thể lấy cảm tình để dụng sự. Đối đãi với tất cả chúng sanh phải dùng tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh, giúp đở chúng sanh lìa khổ được vui .

ĐIỀU GIÁC BIẾT THỨ SÁU

Kinh Văn:

Đệ lục giác tri
Bần khổ đa oán
Hoạnh kết ác duyên
Bồ-tát bố thí
Đẳng niệm oán thân
Bất niệm cựu ác
Bất tắng ác nhân.

DỊCH:

Điều thứ sáu phải nên giác biết:
Người khổ nghèo lắm kết oán hờn.
Không duyên tạo ác đâu sờn,
Bồ-tát bố thí, ai hơn kẻ này.
Lòng không còn thấy kia đây,
Ít khi nhớ đến buồn gây thuở nào.
Dù người làm ác biết bao,
Một lòng thương xót, khổ đau cứu giùm.

“Bần khổ” không chỉ bao quát tất cả vật chất, đồng thời cũng bao quát cả tinh thần ở trong đó.  Nếu như chân chánh có trí huệ, tuy rằng bần khổ trên vật chất nhưng tinh thần của họ vẫn rất vui. Họ cũng không cùng chúng sanh kết ác duyên.  Trung Quốc cổ thư có ghi chép một đoạn về chuyện Nhan Hồi, học sinh của Khổng lão phu tử, ông ta có đời sống sinh hoạt vật chất vô cùng nghèo khó.  Nếu đem nó đặt để cho một số người thì đều cảm thấy vô cùng khổ.  Nhưng chúng ta từ trong lời nói của Khổng tử hiểu được, Nhan Hồi không những không cho đó là khổ, mà còn lấy đó làm vui.  Khổng phu tử rất khen ngợi đời sống của ông ta, nói rằng: “nhân bất kham kỳ ưu, Hồi dã bất cải kỳ lạc”.  (người không kham nổi tất lấy đó làm lo, Nhan Hồi lại lấy đó làm vui mà không muốn thay đổi).  Có thể thấy được cuộc sống của ông ta vô cùng thống khoái, nghèo mà vui.  Do đây có thể biết, chỗ này nói “bần khổ” thì trong đó nhất định là ở mặt đạo đức, trí tuệ.  Người thiếu thốn đạo đức, thiếu thốn trí tuệ thì người đó chính là thật sự bần khổ.  Nhân vì không có trí tuệ tất là ngu si, ngu si tất thường sanh phiền não, cũng chính là tham sân si mạn đặc biệt nghiêm trọng, đương nhiên sẽ cùng với một số người “hoạnh kết ác duyên”,  điều này tất khó tránh khỏi được.

Bồ-tát bố thí.  Đẳng niệm oán thân.  Bất niệm cựu ác.  Bất tắng ác nhân.  Mấy câu nói này thật tại mà nói: giả sử người không học Phật, chỉ tu nhân thiên phước báo  cũng cần phải tuân thủ.

“Bố thí” đặc biệt là đối với người bần khổ.  Bồ-tát có trí huệ, hiểu được sự lý nhân quả, nên muốn giúp đỡ chúng sanh.  Thứ nhất chính là bố thí.  Bố thí là biếu tặng vô điều kiện, cúng dường vô điều kiện, chúng sanh nếu thiếu thốn về vấn đề ăn mặc, lúc bấy giờ tất yếu phải giúp đỡ họ.  Trong các loại bố thí cúng dường, tối trọng yếu là pháp bố thí.  Nhân vì tất cả chúng sanh quyết định không thể nương tựa người khác bố thí cúng dường cả đời, vì làm thế tất khiến người này có tội.  Tội gì?  Phần trước giảng rồi, họ sanh ra làm biếng, tránh nhác, dựa theo người khác cúng dường, tự mình không thể độc lập sanh tồn, nên họ phạm vào tội lỗi.  Chỉ có tiếp nhận cúng dường mà không hiểu được phải hồi biếu.  Làm gì có đạo lý này?  Vì vậy lúc chúng sanh bị bần cùng khổ nạn, người cứu tế bố thí cúng dường nhất định phải giúp đỡ họ khai trí huệ, nhất định giúp đỡ họ có được năng lực.  Do đây có thể biết, trong bố thí cúng duờng tối trọng yếu là giáo dục, không chỉ dạy họ sanh trí huệ, hãy còn dạy họ có kỹ năng, tức là chúng ta giảng dạy giáo học kỹ thuật năng lực, giáo học luân lý đạo đức.  Từ bi cứu tế như vậy mới tính là chân chánh viên mãn.

“Đẳng niệm oán thân”.  Đẳng là bình đẳng.  Niệm là đối đãi, lấy tâm bình đẳng đối đãi.  Oán là oan gia đối đầu.  Thân là gia thân quyến thuộc của bạn.  Vì sao?  Nếu như bạn có thiên lệch lợi ích, tôi chỉ đối với thân thuộc của tôi, tôi không thể bố thí  oan gia trái chủ của tôi.  Nói cách khác sanh hoạt của bạn không đủ đạt đến an toàn, bình tĩnh, tại làm sao?  Những oán thù trái chủ này nhất định sẽ tìm bạn quấy rối.  Trung quốc có ngạn ngữ thường nói: “nhất gia bão noãn thiên gia oán” (một nhà no ấm muôn nhà oán ghét).  Bạn là đối tượng mọi người oán hận, mục tiêu oán hận, bạn còn có thể có những ngày tháng yên bình sao?.  Xã hội muốn mới có thể an định, thế giới muốn có được hòa bình, đó chính là oán thân bình đẳng không luận người nào.  Trong đại xã hội ngày nay không luận quốc gia, tộc quần nào, tuy có văn hoá bất đồng, Bố-tát là bình đẳng đối đãi, bình đẳng bố thí cúng dường.  Xã hội liền an định, thế giới hoà bình, nhân dân hạnh phúc, tôi cũng hạnh phúc, xã hội hưng vượng, gia đình chúng ta cũng hưng vượng.  Đây đạo lý nhất định, cho nên không thể có tâm thiên lệch, quyết định không thể có lòng thương yêu thiên lệch.

Hai câu sau nói được càng nói rõ hơn, phương pháp hóa giải xung đột tuyệt vời hơn.  “Bất niệm cựu ác, bất tắng ác nhân”, người này quá khứ đã làm những việc bại hoại, chỉ cần họ có thể hồi đầu.  Hồi đầu là bến, hồi đầu rồi thì họ là người tốt, không thể cứ ghi nhớ mãi điều quấy, việc ác từ trước của họ, phải nên tha thứ cho họ, khoan hồng cho họ.  Đây là hành vi của bậc đại nhân.

“Bất tắng ác nhân”.  người xấu tại làm sao phải làm ác?  Ở trước nói họ là “bần khổ đa oán”. Nhưng đối với những người này rất có tiền, thì tiền bạc kia chỉ là tài phú giàu có, còn tinh thần của họ thì rất bần khổ, họ không có trí huệ, họ rất hồ đồ. Cho nên từ trên phương diện đức hạnh và trí huệ mà nói thì họ rất đáng thương, họ xác thật là bần khổ.  Vì vậy họ rất dễ dàng phạm tội, dễ dàng làm sai sự việc.  Họ phiền não tập khí quá nặng nề, không chịu được mảy may châm chích, chỉ cần chút xíu ngoại duyên khích động thì phiền não tập khí của họ liền khởi hiện hành, họ liền phát tác.  Phật, Bồ-tát thấy hạng người này, trong kinh thường giảng: thật đáng thương xót.  Họ làm hạnh ác, Phật, Bồ-tát vẫn là “bất niệm cựu ác, bất tắng ác nhân”.  Tội nghiệp của họ đương nhiên phải thọ quả báo.

Nhân quả là định luật tự nhiên, không chỉ là phàm phu tạo nhân ác phải chịu quả báo ác.  Chư Phật Bồ-tát lúc còn chưa tu thành đạo nghiệp, chỗ đã tạo các tội nghiệp thì các ngài vẫn phải thọ báo.  Thích Ca Mâu Ni Phật, chư vị ở trong kinh điển thấy có mã mạch([1]) quả báo.

Tộc Thích Ca trong nhiều kiếp xa xưa về trước đã tạo ra ác nghiệp, nên đời nay phải chịu lấy quả báo vua Lưu Ly tiêu diệt dòng họ Thích, Đức Phật cũng không thể cứu.  Nhân duyên quả báo, việc này vẫn phải tự mình đảm đương, tự mình lãnh chịu.  Phật, Bồ-tát đối với bạn dù đại từ đại bi cũng đều giúp không được, đạo lý này chúng ta phải hiểu.  Bạn chân chánh hiểu đạo lý này, bạn mới học được: “bất niệm cựu ác, bất tắng ác nhân”.  Tâm của bạn bình đẳng rồi, thì nghiệp chướng mới có thể tiêu trừ.  Nghiệp chướng tuy tiêu trừ rồi, nhưng vẫn còn là trọng tội khinh báo, quả báo đến lúc đáo hạn thì nhẹ bớt đi.  Bạn tự mình rất rõ ràng, rất minh bạch.  Cho nên là cổ đức giảng: “bất muội nhân quả”.  Không phải không có nhân quả, mà chớ lầm nhân quả, cần phải rõ ràng minh bạch.

Vì vậy, nếu chúng ta tự mình không nguyện ý chịu quả báo khổ thì ngàn vạn lần chớ nên tạo nhân.

Bạn đã tạo nhân rồi mà hy vọng tương lai tránh né quả báo, đây là ngu si, việc này không thể nào.  Trong Phật môn thường giảng: “chúng sanh sợ quả, Bồ-tát sợ nhân”.  Muốn thoát ly khốn khổ, hóa giải oán kết, quan trọng nhất vẫn là giáo dục, đặc biệt hơn là giáo dục của Thánh hiền, giáo dục luân lý đạo đức.  Nếu như đem những việc này đều coi thường, thì xã hội sẽ sanh bệnh.  Ngày nay có rất nhiều người giảng: trái đất sanh bệnh rồi.  Lời này thật chẳng sai, chính là những chúng sanh cư trụ trên trái đất này, xã hội sanh bệnh rồi, sản sanh vấn đề rồi.

Thời xưa, tại đông phương có giáo dục của Thánh hiền, tại Ấn độ có giáo dục của Phật pháp, tại Tây phương có giáo dục của tông giáo. Cho nên xã hội nhờ đó mà được an định hòa  bình.  Nhân dân có được cuộc sống chánh thường.  Trong vòng hai thế kỷ gần đây nhất, do vì khoa học kỹ thuật phát đạt, con người tự cho rằng mình rất thông minh, tự mình có thể làm được tất cả ; không cần đến Phật, Bồ-tát, không  cần đến Thánh nhân, cũng chẳng cần tôn giáo, hoàn toàn bằng vào sự tốt xấu hay dở của mình.  Ỷ vào những phước báo tu tập tích lũy được trong đời quá khứ của mình, vì vậy chỉ biết tùy thuận phiền não tập khí tự mình.  Cho nên Phật, Bồ-tát đi mất, bậc Thánh hiền cũng ly khai thế gian này.  Thế gian này không còn Thánh học nữa, biến thành bệnh trạng của xã hội ngày nay, tạo thành nguyên nhân căn bản của tất cả tai nạn, thiên tai, nhân họa.

Do đây chúng ta liên tưởng đến, nếu có một người quan tâm học tập giáo dục của Thánh hiền, đẩy rộng nền giáo dục Thánh hiền, thì người này quyết định được tất cả chư Phật hộ niệm, long thiên thiện thần ủng hộ.  Còn như vẫn tùy thuận phiền não tập khí tự mình, thường thường bất như ý, tôi phải đem bạn loại trừ, tiêu diệt.  Bạn hủy diệt giáo lý Thánh hiền, chính là hủy diệt pháp thân huệ mạng của hết thảy chúng sanh.  Bạn có thể tận sức đi làm, nhưng quả báo bạn không có nghĩ đến.

Ở Đại thế chiến thứ 2, Hitler vào thời điểm cực thịnh nhất, lúc đó ai thể tưởng tượng được 4 năm sau ông ta sẽ bị diệt vong.  Nếu như ông ta biết được 4 năm sau ông phải chết, nước mất nhà tan, tôi tin rằng ông ta sẽ không tạo những ác nghiệp đó.  Cho nên, lịch sử là một tấm gương lớn.  Nhìn thấy quá khứ bạn có thể nghĩ đến tương lai. Chúng ta tự mình đắc được thân người quả thật không dễ dàng.  Trong kinh luận thường giảng: “Nhân thân nan đắc, Phật pháp nan văn”. (Thân người khó được, Phật pháp khó được).  Được thân người, nghe Phật pháp, quả là điều quý báu, thù thắng vô cùng.  Đây chính là cơ hội để được giải thoát, có thể vượt thoát luân hồi, là cơ hội viên thành Phật đạo.  Có được cơ hội làm một công đức lợi ích vô lượng vô biên.  Cái cơ hội này, nếu không cầm lấy cho chắc, vì đó chính là cơ duyên của: “trăm ngàn muôn ức kiếp khó gặp.”  Bạn nếu không chịu nắm vững, vẫn còn tùy thuận phiền não tập khí của mình, không tin tưởng thánh giáo, vẫn y theo thói cũ hồ đồ làm bậy, bạn xác thật là đại oan uổng, đại sai lầm.  Lịch sử là một tấm gương, cảnh giới lục trần ở trước mắt, đâu không phải là một tấm gương?  Tôi đã từng cùng chư vị nói qua rất nhiều lần.  Tôi từ lúc còn rất nhỏ, hãy còn đi làm, chưa có xuất gia.  Mỗi ngày đều xem coi báo chí, chỗ tôi xem báo chí không giống với người khác.  Mọi người đều lưu tâm nghe ngóng báo chí có những tin tức gì, tôi mỗi ngày chỉ để tâm xem phần cáo phó.  Mỗi ngày đọc xem những người nào qua đời rồi, lớn tuổi có, kẻ nhỏ tuổi có, xem mấy cái này thì tâm mình thường có chỗ cảnh giác.

Ấn Quang đại sư dạy bảo người học, phải đem chữ “tử” dán ngay trên trán.  Ngày ngày thường quán xét chữ “tử” này.  Tôi mau chóng phải chết, chết rồi sau đó tôi sẽ đi về đâu?  Tôi lúc còn chưa học Phật, đã có tâm cảnh giác này.  “Người lúc sắp chết, thường nói lời thiện”.  Nếu quán thấy mình là người sắp chết, thì hà tất còn cùng người so đo, hơn thua, lỗi phải?  Từ trên phương diện này mà quan sát, thì trong một đời này, không luận là trước khi học Phật hay sau khi học Phật, tôi chỗ khởi tâm động niệm, ngôn ngữ tạo tác đó, tạo nên ác nghiệp sẽ ít đi.  Hy vọng ở trong một đời này, đem hết thảy ác nghiệp có thể tiêu trừ.  Mục đích của tôi là tâm địa thuần tịnh, ngôn hạnh thuần thiện.  Tôi đi con đường này, đây là công đức vô lượng, cái này mới thật sự có thể mang theo được.  Vì tất cả thế xuất thế gian pháp, không có thứ nào bạn có thể mang đi được.  Trong Phật pháp có nói: “Vạn ban tương bất khứ, duy hữu nghiệp tùy thân”(muôn vật mang chẳng đặng, chỉ có nghiệp tùy thân).  Đạo lý này chúng ta không thể không lưu ý.

Cho nên hai chữ “bần khổ” này chúng ta nhất định phải thực hành ở ngay nơi đạo đức, trí huệ.  Đạo đức của chúng ta vô cùng thiếu thốn, trí huệ của chúng ta vô cùng nghèo nàn.  Vì vậy bạn mới hay tùy thuận phiền não tập khí của mình, cùng tất cả chúng sanh “hoạnh kết ác duyên”.

“Đẳng niệm oan thân, Bất niệm cựu ác,  Bất tắng ác nhân”.  Ba câu này là hóa giải xung đột bên trong và bên ngoài của pháp môn không hai, cũng là một cách chân chánh tu hành thanh tịnh bình đẳng giác, là nguyên tắc chỉ đạo tối cao.  Người thông minh, người có trí huệ, chỗ mong cầu của họ quyết định là thanh tịnh bình đẳng giác. Họ sẽ tu tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm giác ngộ.  Quyết định không đem tâm hạnh bất thiện của tất cả chúng sanh để vào trong tâm mình, thế là sai lầm rồi.  Tâm thanh tịnh bình đẳng giác của chính mình liền biến thành cái thùng rác ác, chất chứa nghiệp bất thiện của tất cả chúng sanh rồi.  Bạn nói người này có trí huệ không?  Đây thật là ngu si đến chỗ cùng tột rồi vậy.  Cho nên mắt chúng ta không nên xem hình tướng ác, tai không nghe âm thanh ác, lục căn không tiếp xúc cảnh giới ác.  Thế, xuất thế gian thánh nhân đều là như vậy mà dạy bảo chúng ta.  Ba câu này là tổng cương lĩnh, tổng nguyên tắc.  Chúng ta nhìn thấy tất cả hình sắc bất thiện, chúng ta lập tức tránh xa.  Nghe đến âm thanh bất thiện, chúng ta cũng lập tức đem nó chặn đứng, không nên đem mấy thứ này để vào trong tâm.  Để vào trong tâm tức biến tâm hạnh của mình trở thành bất tịnh bất thiện.  Nếu như vậy thì tu giác chánh tịnh  đến lúc nào mới có thể thành tựu.  Những việc này đều xảy ra ngay xung quanh đời sống chúng ta, thời thời khắc khắc phải biết ngăn ngừa, phải để tâm đề cao cảnh giác.  Đây mới gọi giác tri, giác ngộ.

ĐIỀU GIÁC NGỘ THỨ BẢY

Kinh văn:

Đệ thất giác ngộ
Ngũ dục qua hoạn
Tuy vi tục nhân
Bất nhiễm thế lạc.
Thường niệm tam y
Ngõa bát pháp khí
Chí nguyện xuất gia
Thủ đạo thanh bạch
Phạm hạnh cao viễn
Từ bi nhất thiết

DỊCH:

Điều thứ bảy là thường giác ngộ:
Năm dục gây lầm lỗi ngất trời.
Tuy người thế tục ngoài đời,
Mà lòng không nhiễm vui chơi thế tình.
Ba y thường nhớ của mình,
Ngày nào sẽ được ôm bình ngao du.
Chí mong lìa tục đi tu,
Đạo gìn trong sạch chẳng lu không mờ.
Hạnh lành cao vút kính thờ,
Thương yêu tất cả không bờ bến đâu.

“Ngũ dục” dục là dục vọng, ngũ là chỉ cho năm điều: “Tài sắc danh thực thùy”.  Người xưa thường giảng thất tình ngũ dục, tất cả mấy cái này không phải vốn có trong tự tánh.  Nói cách khác, trong chân tâm tự tánh không có thất tình ngũ dục.  Thất tình ngũ dục là hư vọng.  Thất tình như hoan hỷ, phẫn nộ, bi ai, khoái lạc,…  mấy thứ này đều là xung động của cảm tình, là hiện hành của phiền não tập khí.  Có một số người đối với những thứ này, thường thường cũng vô phương khống chế.  Thứ tình tự này khiến họ phải phát tác, nhưng nếu phát tác thì cần phải có tiết độ.  Vào thời xưa, các bậc thánh hiền giáo hoá chúng sanh, biết được chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay, ở trong sanh tử luân hồi đều có thất tình ngũ dục nghiêm trọng.  Những phiền não tập khí này chỉ có đại thánh đại hiền, các ngài có công phu tu dưỡng trong thời gian dài, đem phiền não tập khí này đoạn dứt hẳn.  Còn người bình thường đối với mấy thứ này chưa đoạn dứt được, lúc phát tác cũng phải nên để cho họ phát tác.  Nhưng phải bảo cho họ biết rằng: cần phải có chừng mực, chớ nên quá đáng, quá đáng thì sẽ phạm vào sai lầm.

Trước đây chúng tôi lúc còn ở tại Singapore, có vị cư sĩ là Hứa Triết nói với tôi.  Bình thường, một người khi gặp phải việc không như ý liền khởi tâm tức giận, chỉ cần phát giận trong 3 phút thì phải cần đến 3 ngày mới có thể đem tâm tình của mình khôi phục lại chánh thường.  Nói như vậy, bạn liền hiểu được sân hận đối với thân thể này gây nên tổn thương vô cùng nghiêm trọng.  Một người mà thường nổi giận tức là không biết thương tiếc tự mình, chính là không biết yêu quý chính mình.  Xung động trên tình tứ, đối với thân tâm của bạn quyết định sẽ sản sanh những thứ cực đoan bất lợi. Cho nên con người ta thông thường không hưởng thụ hết được cuộc sống thiên nhiên của họ.  Cuộc sống thiên nhiên của một người, chiếu theo y học cổ xưa như “Hoàng đế nội kinh linh khu”.  Trong sách này giảng, con người chánh thường thọ mạng là 200 năm.  Nhưng vì bạn đem thân thể của chính mình xài xể, làm hư mất.  Chính là vì bạn không biết đạo lý dưỡng sanh, không biết thương bộ máy cơ khí.  Bạn phải hiểu đặc tánh của nó, chiếu cố cho nó, và yêu tiếc nó.  Chánh thường thọ mạng là sử dụng 200 năm, mà nay mới mấy chục năm đã hư hại mất.  Cái gì đã xài xể nó?  Chính là tình tứ xung đột, cảm tình xung động.

Cho nên chỗ này giảng: “ngũ dục quá hoạn”. “Quá hoạn” thật tại là vô cùng nghiêm trọng, chúng ta vì thời gian hạn chế, không thể cùng quý vị nói tường tận.

“Tuy vi tục nhân, bất nhiễm thế lạc”.  Tuy rằng làm tục nhân ở đời, nhưng bạn cũng phải ghi nhớ, đối với cái vui của thế gian không nên nhiễm trước. Đặc biệt hơn là khoái lạc của thế giới hiện đại.  Chúng ta thử xem điện ảnh thời nay, tivi, ca vũ, hý trường, âm nhạc, thậm chí đến hội họa mỹ thuật ngày nay, những thứ này đều là “thế lạc”.  Quý vị chỉ cần để ý quán sát sẽ thấy được mấy thứ này, nó dạy con người ta những gì?  Chỗ dạy đó hoàn toàn là mặt trái, không phải chánh diện, tức cùng với luân lý đạo đức, trung hiếu nhân nghĩa, chẳng chút mảy may can hệ.  Cho nên xã hội làm sao chẳng loạn?  Chúng sanh làm sao không khổ?

Đọc kinh Phật, đọc sách Thánh hiền, rồi quay đầu nhìn lại quán sát xã hội hiện tiền. Trong đây giảng nhân trước quả sau, không có gì khó hiểu.  Liễu giải rồi thì tự mình phải biết cần nên có cuộc sống như thế nào, làm sao làm việc, làm sao làm người, làm sao giúp đỡ tự mình, làm sao giúp đỡ xã hội đại chúng.

Kinh văn:

Thường niệm tam y
Ngõa bát pháp khí
Chí nguyện xuất gia
Thủ đạo thanh bạch
Phạm hạnh cao viễn
Từ bi nhất thiết.

Cổ đại đức thường dạy bảo chúng ta: “Chẳng sợ niệm khởi, chỉ sợ giác chậm”.  Đã là phàm phu nhiều kiếp luân hồi trong lục đạo, muốn không khởi tâm, không động niệm thì khẳng định là làm chẳng được.  Chân chánh làm được không khởi tâm, không động niệm phải là cảnh giới của các bậc A-la-hán trở lên. Nói cách khác, phải là hàng thánh giả của tứ thánh pháp giới, không phải phàm phu.  Đối với phàm phu mà nói, thì niệm khởi là hiện tượng chánh thường, nhưng những niệm đầu này rất đáng sợ, rất kinh khủng, vì khẳng định là ác niệm nhiều, thiện niệm ít.  Cho nên Bồ-tát dạy chúng ta phải giác ngộ, “chẳng sợ niệm khởi chỉ sợ giác chậm”, đặc biệt là đối với ác niệm.  Nếu như một khi giác ngộ được đây là ác niệm, tức thời phải chặn đứng, thì thiện niệm liền sanh.  Thường thường trụ ở trong thiện niệm thì cùng với người lành liền hay gần gũi, thường muốn cùng với người lành chung ở, thì trong bất tri bất giác lâu dần sẽ huân tập được khí chất lành, trở thành vị thiện nhân.  Chúng ta giảng là cải biến khí chất, phương pháp cải biến khí chất hay nhất, không gì bằng là thân cận thiện tri thức.

Phật là đệ nhất thiện tri thức của thế, xuất thế gian.  Phật ở đây dạy bảo chúng ta: “Thường niệm tam y, ngõa bát pháp khí”.  Phật đắp y chỉ dùng đến ba cái nên gọi ba y.  Ngoài ba y ra, chỉ còn có một cái bát ăn cơm. Chúng ta ngày nay nói là chén cơm.  Cái bát thông thường đều làm bằng bát sành, nên gọi ngõa bát.  Ngoài ra còn một thứ nữa là thiết bát (tức bát sắt).  Trong Phật pháp chỉ có 2 loại bát này là như pháp, đó là thiết bát và ngõa bát.

“Pháp khí” là đạo cụ tùy thân.  Đó là sự thị hiện của đức Thế Tôn ở tại thế gian chúng ta, hành trang sinh hoạt hằng ngày của ngài, tài sản có được là bấy nhiêu đó.  Cho nên thế xuất thế pháp, vạn duyên đều buông xuống, ngài làm được rồi mới dạy chúng ta, chẳng phải chỉ có nói mà không làm.  Ngài thật sự làm được rồi mới nói.  Chúng ta ngày nay không chỉ học thánh nhân đã khó, học theo hiền nhân cũng chẳng dễ dàng.  Nhưng Thánh hiền là mục tiêu vĩnh viễn cho chúng ta hướng đến. Chúng ta nhất định phải nhận chân nổ lực hướng về các ngài học tập, phải gắng tu học sao cho được giống.

“Chí nguyện xuất gia”  đây là người đối với chân tướng vũ trụ nhân sanh  đã hiểu rõ, thì họ nhất định sẽ phát nguyện.  Nguyện gì?  Là nguyện xuất gia.  Xuất gia đây tuyệt đối không phải chỉ cho ra khỏi gia đình thế tục của chúng ta.  Chỉ rời bỏ gia đình thế tục không thôi thì cũng chưa phải là chân chánh xuất gia.  Gia đây là nghĩa gì?  Trong Phật pháp giảng “sanh tử gia”.  Bạn có thể xuất ly sanh tử, bạn mới thật xuất gia.  Bạn phải xuất ly được phiền-não gia, ngũ-ấm gia, đây mới là trọng yếu.  Chỉ như rời bỏ gia đình thế gian không thôi thì không mấy quan trọng.  Trong Phật pháp giảng xuất gia đại khái có thể phân làm hai thứ là tại gia xuất gia và xuất gia xuất gia.

Tại gia xuất gia là thân tuy còn ở nhà, nhưng tâm đã xuất gia, giống như ở trước giảng “bất nhiễm thế lạc”, thì người này xuất gia rồi.  Lúc Phật còn tại thế, Duy Ma Cật cư sĩ, ngài là một tôn Phật, là tại gia Phật.  Thích Ca Mâu Ni Phật là xuất gia Phật.  Còn như giảng chân chánh xuất gia thì cư sĩ Duy ma Cật cũng xuất gia.  Ngài xuất sanh-tử gia, tam-giới gia, ngũ-ấm gia, cùng Thích Ca Mâu Ni Phật không hai không khác.  Chỗ bất đồng là ở trên hình thức, ngài là thị hiện tại gia xuất gia.  Thích Ca Mâu Ni thị hiện là xuất gia  xuất gia, điểm không đồng là ở chỗ này.

Thủ đạo thanh bạch, Phạm hạnh cao viễn, Từ bi nhất thiết. Thế Tôn cùng Duy-ma cư sĩ quyết định không có hai thứ.  Điểm này chúng ta nhất định phải minh liễu, cho nên người xuất gia trăm ngàn lần quyết không nên cống cao ngã mạn.  Nghĩ rằng mặc y phục xuất gia vào rồi thì so với ai cũng cao hơn.  Thứ tư tưởng này, thường thường đọa A tỳ địa ngục. Cống cao ngã mạn là đem hình tướng Phật pháp phá hoại mất.  Phật pháp là từ bi nhất thiết, là cung kính khiêm nhường.  Làm gì có Bồ-tát cống cao ngã mạn! Bạn đem hình tướng Phật pháp phá hoại, đương nhiên bạn phải chịu nhân quả báo ứng.  Xuất gia như vậy, thì tại gia không cần phải nói.  Tại gia khi đắp được mạn y nếu cống cao ngã mạn, thì tội lỗi này sánh với xuất gia cống cao ngã mạn hãy còn nặng hơn.

Cho nên vào thời kỳ mạt pháp, phá giới, phạm lỗi vì sao lại nhiều thế, phổ biến vậy?  Thật tại mà nói là do vì lơ là về giới luật, lỗi ở chỗ không chịu đọc kinh.  Chúng ta đối với giới luật không chịu đọc tụng, cũng không nghĩ đến, thì lấy gì để áp dụng thực hành?  Không chỉ không làm được mà luôn cả nghĩ cũng không nghĩ đến.  Cho nên tỳ-kheo thời mạt thế, thân tâm đều là tội lỗi.  Địa Tạng Bồ-Tát Bổn Nguyện Kinh thuyết được rất rõ rằng: “chúng sanh trong cõi Diêm phù đề khởi tâm động niệm không chi là chẳng phải tội.”  Lời này là lời thật, một chút cũng không giả dối.  Những việc này đều tại ngay trước mắt chúng ta.  Chỉ cần chúng ta lặng lẽ quán sát liền rõ ràng minh bạch.

Hôm nay chúng ta đọc đến câu: “chí nguyện xuất gia”thì phải biết làm sao để xuất sanh-tử gia, xuất phiền-não gia, xuất tam-giới gia.  Đương nhiên đối với thế tục gia, thân tuy ở nhà, nhưng nếu trong tâm thanh tịnh chẳng một chút vướng bận, vẫn có thể coi như là chân chánh chí nguyện xuất gia.

 “Thủ đạo thanh bạch”.  Đạo ở đây, đem phạm vi gom lại thật nhỏ, thì đạo này là giáo đạo của chư Phật, Bồ-tát, là giới định huệ, tam phước, lục hòa, tam học, lục độ, Phổ Hiền thập nguyện.  Đây là đại đạo của Phật, Bồ-tát, cần phải tuân thủ.  Tu đạo tức là bồi dưỡng tự tâm thanh tịnh, tâm chân thành, tâm bình đẳng, tâm chánh giác, tâm từ bi.  “Phạm” là thanh tịnh.  “Hạnh” là hành vi, tức là thân tâm thanh tịnh.  Người này thế gian xưng thành cao nhân, đại nhân, có lòng đại từ đại bi đối với tất cả chúng sanh, bình đẳng ban rãi từ bi, bình đẳng giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn.  Trong tất cả khổ nạn của chúng sanh, khổ nạn lớn nhất chính là mê hoặc, bất giác. Cho nên cần chẳng giúp đở chúng sanh phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui mới thật là chân chánh từ bi.

ĐIỀU GIÁC BIẾT THỨ TÁM

Kinh văn:

Đệ bát giác tri
Sanh tử xí nhiên
Khổ não vô lượng
Phát đại thừa tâm
Phổ tế nhất thiết
Nguyện đại chúng sanh
Thọ vô lượng khổ
Linh chư chúng sanh
Tất cánh đại lạc.

DỊCH:

Điều thứ tám lại nên giác ngộ:
Tử sanh hoài đau khổ vô cùng.
Phát tâm dõng mãnh đại hùng,
Quyết lòng độ hết đồng chung Niết-bàn.
Thà mình chịu khổ muôn vàn,
Thay cho tất cả an nhàn thảnh thơi.
Mọi người đều được vui tươi,
Đến bờ giác ngộ rạng ngời hào quang.

“Sanh tử xí nhiên”.  Xí nhiên là tỷ dụ, giống như ngọn lửa lớn, được đốt lên vô cùng mạnh mẽ.  Như hiện tượng mặt trời lúc bị nhật thực, chúng ta nhìn thấy thái dương như một biển lửa lớn.  Chữ “Xí nhiên” ở trên đây cho chúng ta ấn tượng rất sâu.  Sanh tử là hình tướng chúng sanh trong lục đạo, trạng huống này vô cùng thống khổ.  Chúng sanh từ khi đọa lạc vào lục đạo rồi, thì rất khó có cơ hội thoát ra.  Ở trong lục đạo, hiện tượng tử sanh sanh tử luân hồi, vĩnh viễn không có ngưng nghỉ.  Cho nên Phật kinh giảng “sanh tử bì lao”.  Ở trong mắt Phật Bồ-tát nhìn thấy trạng huống này thì đây là điều quả thật đáng thương vô cùng.  Trong lục đạo sanh tử luân hồi, thì thời gian ở trong ba ác đạo quyết định rất dài, còn ở trong ba đường thiện đạo có được thời gian ngắn.  Chúng sanh trong lục đạo, chúng ta có thể nói ba đường ác là gần như là quê hương của họ, còn ba thiện đạo chỉ là nơi vào ra tạm trú mà thôi, giống như du lịch tham quan vậy.  Vì sao lại có hiện tượng này?  Chúng ta từ trên nghiệp nhân quả báo mà quán sát thì có thể minh liễu, không cần suy nghĩ về ai khác, chỉ cần suy nghiệm việc của tự mình.  Hôm nay tôi từ sáng đến tối, khởi tâm động niệm là thiện niệm nhiều hay ác niệm nhiều?  Như vậy liền minh bạch rồi.  Nếu như ác niệm nhiều thì chỗ cảm ứng sẽ là tam đồ ác đạo, còn thiện niệm nhiều thì chỗ cảm được sẽ là nhân thiên phước báu. Chúng ta khởi tâm động niệm đa phần là ác nhiều thiện ít,  quả báo đương nhiên là tam đồ thời gian dài, nhân thiên thời gian ngắn.  Hãy còn một phương pháp trắc nghiệm rất minh hiển.  Phàm là người đều có nằm mộng.  Hãy nghĩ xem bạn mỗi đêm nằm mộng, thì ác mộng nhiều hay thiện cảnh nhiều.  Từ chỗ này vô cùng rõ ràng, có thể để biết được trạng huống của mình ở trong luân hồi lục đạo.

Tôi kinh nghiệm chính bản thân mình, lúc chưa học Phật ngày ngày đều nằm thấy ác mộng.  Sau khi học Phật đại khái tối thiểu 10 năm đầu hãy thường thường còn ác mộng.  Đến lúc hoàn toàn không còn ác mộng nữa, đại khái cũng chỉ trong vòng 10 năm nay gần đây thôi.  Tôi học Phật đã được 50 năm, nói cách khác, phải mất 30-40 năm công phu, đêm về ác mộng mới không còn nữa.  Mấy chục năm nay, đều nhờ vào ngày ngày đọc kinh, nghiên cứu, giảng kinh, khuyên tự mình, khuyên người khác.  Tôi ở trên giảng đài giảng kinh hoàn toàn là khuyên chính mình, tự mình là thính chúng trung thực nhất, mỗi khoá đều không có vắng mặt, đắc được thọ dụng nhất cũng là chính mình.  Nhờ huân tập trong thời gian được dài, niệm kinh đại khái được lâu bất tri bất giác trong tâm biến chuyển rồi.  Đây là người xưa chỗ giảng:  “trường kỳ huân tu”, không cần khắc ý cố tâm để chuyển biến cảnh giới, mà là tự nhiên chuyển biến thôi. Cái chuyển biến này vào lúc tối sơ thì vô cùng chậm chạp và cũng rất không dễ gì, tự mình nhất định phải kiên trì.  Nhất định phải tuân thủ tin chắc lời Phật dạy, nhất định phải ghi nhớ lời thầy dạy bảo. Quyết định không thể trước mặt cho là phải, sau lưng lại làm quấy, tự khi mình khinh người.  Tự lừa gạt chính mình, cũng lừa gạt bậc thầy, gạt lừa Phật Bồ-tát, thế thì quyết định không có thành tựu.  Bạn ở trong Phật pháp bị đào thải mất rồi.   Bạn vẫn là tiếp tục truy tìm con đường của tam đồ ác đạo.  Chỉ có thành tín, thành kính, nhận chân nổ lực tu học cho tốt thì tự nhiên sẽ chuyển đổi cảnh giới, lúc chuyển đến được một công hạnh nhất định thì tốc độ liền trở nên mau chóng.  Cho nên càng về sau, chúng ta một số người giảng là tăng gia tốc độ.  Vì làm sao? Tâm địa chân thành.  Chúng tôi chỗ thuyết chân thành, thanh tịnh, bình đẳng, chánh giác, từ bi, xác thật là đạt đến được rồi, chân chánh tương ưng rồi.  Lúc này tốc độ tu hành chuyển cảnh giới không còn ở tốc độ thông thường nữa.  Chân thật gia tốc độ, tình hình này thường ở bên tôi, nhưng mà phải chân chánh dụng công nỗ lực thì họ mới có thể phát hiện.  Đặc biệt là 10 năm gần đây, bạn nghe tôi chỗ giảng kinh mỗi năm đều chẳng giống nhau, tháng tháng chẳng đồng dạng.  Bạn nếu để tâm quán sát.  Có thể quán sát được mỗi tuần chẳng giống nhau, cùng với tánh đức tương ưng rồi.

Liễu sanh tử, cầu vãng sanh thật có chỗ nắm chắc rồi.  Cho nên đối với thế giới này buông xuống rồi, thân tâm thế giới tất cả đều buông xuống.  Nếu hãy còn có một việc buông không xuống, thì bạn muốn vãng sanh cũng không thể nào!  Bạn cũng không thể mang theo vãng sanh, không có đạo lý này.  Đến khi nào bạn hoàn toàn buông xuống rồi, thì đối với việc vãng sanh tây phương Cực-lạc thế giới mới thật nắm chắc, bạn liền có được tín tâm. Quyết định không thể tạo ác nghiệp, quyết định chớ đắc tội lấy một người.  Quyết định không làm một việc gì bất thiện, tự làm cho tâm mình phải thuần tịnh, hạnh phải thuần thiện.  Biểu hiện một mô phạm, một hình tượng thật tốt cho xã hội đại chúng xem.  Hình tượng này là hình tượng Phật, Bồ-tát.  Ngàn vạn lần xin chớ hiện hình tượng của tam đồ ác đạo, thế thì sai rồi.  Bạn cùng với Phật pháp là đã đi ngược dòng mà rong ruỗi.  Học Phật, quy y Phật môn, hoặc giả xuất gia, trên thân khoác ca sa rồi, hãy còn làm trái ngược hình tượng Phật giáo.  Thì đây là người gì? chính là ma vậy.  Thế Tôn vào những năm còn tại thế.  Ma vương Ba-tuần đối Phật phát nguyện muốn tiêu trừ Phật pháp.

Phật nói:  Đại pháp của chư Phật Như-lai là từ tự tánh lưu lộ xuất ra.  Không một lực lượng nào có thể tiêu diệt.

Ma Ba-tuần liền nói:  đợi đến thời kỳ mạt-pháp của ngài, pháp vận suy rồi, tôi sẽ cho ma con, ma cháu, tất cả đều xuất gia, mặc áo ca-sa đến phá hoại Phật pháp của ngài.

Thích Ca Mâu Ni Phật nghe rồi một lời cũng chẳng nói, chỉ lặng lẽ rơi nước mắt.  Đối với Phật pháp, ma có thể phá hoại được không?  Đích thực là ma không thể phá hoại được.  Cái mà ma có thể phá hoại được chính là phá hoại hình tượng Phật giáo, phá hoại cơ duyên nghe pháp để được đắc độ của tất cả chúng sanh.  Cho nên ma kết tội, không phải cùng với Phật kết tội, mà là cùng tất cả chúng sanh kết tội.  Ma tuy rằng được thông khoái nhất thời, họ có thể đem Phật pháp tiêu diệt rồi.  Nhưng việc làm này sẽ dẫn dắt họ đọa A-tỳ địa ngục trong vô lượng kiếp, lại thêm vô lượng kiếp.  Cái khổ báo đó họ phải tự mình gánh chịu.  Hình tượng của Thích Ca Mâu Ni Phật bị phá hoại, bị tiêu diệt rồi, cũng không có sao cả.  Đệ ngũ tôn Phật:  Di Lặc Bồ-tát lại ra đời.  Ở trong Hiền kiếp có đến ngàn Phật xuất thế.  Thích Ca Mâu Ni Phật là đệ tứ tôn Phật.  Tiếp theo là đệ ngũ, sau đó hãy còn hơn 900 tôn Phật, ma có lực lượng gì có thể tiêu trừ Phật pháp?  Là việc không thể nào!  Đúng là tự mình hồ đồ làm quấy.  Tôi thường giảng tổng tư lệnh hộ pháp cho ngàn đức Phật là Vi đà Bồ-tát.  Chúng ta tán trợ Vi đà Bồ-tát chính là tán trợ ủng hộ ngàn Phật xuất thế, rộng độ chúng sanh.  Phật pháp là trùm khắp hư không pháp giới, quyết không phải chỉ tại một chỗ nào.  Cho nên chúng ta tại bất cứ nơi đâu đều có thể như lý như pháp tu hành.  Tại bất cứ địa phương nào đều có thể đem Phật pháp phát dương quang đại, làm lợi ích tất cả chúng sanh ở địa phương đó.  Cho nên trong Phật pháp thường giảng là “duyên sanh”.  Địa phương nào có duyên thì Phật Bồ-tát ở tại địa phương đó, thị hiện giáo hoá chúng sanh.  Nhưng mà duyên thì không phải vĩnh hằng, duyên là có sanh diệt.  Vì vậy người có trí huệ, có giác ngộ, phải khéo nhận biết cơ duyên, nắm chắc cơ duyên.  Có lúc ở địa phương này cơ duyên rất ngắn ngủi, chỉ trong vài ngày.  Tuy chỉ có vài ngày cũng phải nắm cho được . Một hai năm cũng phải nắm chắc.  Bởi vì sao?  Cơ duyên này là ngàn năm khó gặp, không thể để mất, là cơ hội cho bạn tích công lũy đức.  Bạn nếu coi thường để mất. Nói cách khác, cơ duyên để cho bạn tích lũy công đức cũng mất luôn.  Cho nên là người học Phật, không thể không hiểu đạo lý này, không thể không biết những sự thật chân tướng này.  Cơ duyên cũng giống như điện quang chớp  lên rồi biến mất.  Nắm chắc được rồi thì đó là công đức vô lượng vô biên.

“Sanh tử xí nhiên, khổ não vô lượng”, đây là chân tướng của chúng sanh ở trong lục đạo luân hồi.  Cho nên Phật khuyên bảo chúng ta: “phát đại thừa tâm, phổ tế nhất thiết”.  Đây là đại thừa Bồ-tát, phát Bồ-tát tâm, phát Bồ-tát nguyện.  “Phổ” là lấy tâm bình đẳng, tâm thanh tịnh, tâm chân thành bang trợ tất cả chúng sanh.  Giúp đỡ tất cả chúng sanh cũng chính là chân chánh giúp đỡ chính mình.

Nguyện đại chúng sanh, Thọ vô lượng khổ. Linh chư chúng sanh. Tất cánh đại lạc.  Bồ-tát nhập thế, thị hiện thế gian.  Không đâu không phải là vì việc hy sinh  phụng hiến, xả thân vì người, hay nhẫn chịu thay cho tất cả hành vi của người, cùng hiện tượng thiên nhiên tai hại để giáo hoá chúng sanh.  Nếu như chúng ta từ trên đại tạng kinh để quán sát.  Chư Phật Như-lai, pháp thân Bồ-tát chúng ta không luận đến. Chỉ xem trong thập pháp giới, những vị đại A-la-hán, Bích Chi Phật, quyền giáo Bồ-tát.  Thật tại mà nói thì các ngài đối với kiến tư phiền não đoạn dứt rồi, trần sa phiền não cũng gần sạch rồi.  Ở trong lục đạo thị hiện, vẫn là thị hiện trì giới, giữ quy củ.  Các ngài đã đạt đến lý sự vô ngại, sự sự vô ngại cảnh giới. Sao phải còn cân nhắc tính toán mấy thứ tiểu tiết này?  Chẳng có gì khác, cũng chỉ vì dạy bảo hàng sơ học, giáo hoá chúng sanh mê hoặc điên đảo.  Vì những người này mà làm quy tắc, cũng giống như trên sân khấu biểu diễn vậy.  Trên sân khấu biểu diễn rất nhập vai, rất cố gắng, biểu diễn được vô cùng giống thật.  Vì ai?  Vì người xem. Chư Phật, Bồ-tát đến thế gian này thị hiện biểu diễn, là vì chúng sanh.  Biểu diễn phải chịu rất nhiều khổ sở, chẳng chút tự tại, tất cả mọi thứ, không một thứ nào chẳng phải là vì giáo hoá chúng sanh.  Đây chính là từ bi nhất thiết, cũng chính là thay chúng sanh thọ khổ?  Vì làm sao Thế tôn lúc thị hiện ở thế gian, nhất định sống qua ngày với tam y nhất bát, dưới cây ngủ một đêm, giữa ngày ăn một bữa ngọ.  Tại làm sao không thể có cuộc sống khá hơn một chút?  Chúng ta hãy xem lịch đại chư vị tổ sư đại đức, nói đến gần đây nhất là Ấn Quang đại sư, Hư Vân lão hòa thượng, Từ Chu pháp sư, chúng ta đều rất quen thuộc.  Tại Đài Loan chúng tôi tự thân thấy được Lý Bỉnh Nam lão cư sĩ không phải là không thể có cuộc sống khá hơn một chút.  Ngài tự mình có việc làm, có nguồn thâu nhập.  Nhưng đời sống sinh hoạt rất khổ, có thể tiết kiệm liền tiết kiệm.  Tiết kiệm một đồng, một hào đều tốt.  Lấy tiền tiết kiệm ra bang trợ Phật pháp, giúp đỡ tất cả chúng sanh khổ nạn.  Tôi gần thầy Lý 10 năm.  Hành trạng sinh hoạt chân chánh của ngài tôi thật không biết, đến lúc ngài vãng sanh rồi, mọi người làm cho ngài một kỷ niệm quán.  Chúng tôi đi tham quan kỷ niệm quán mới hiểu được, áo mặc trong của ngài vá rồi lại vá,   vớ tất cũng vá rồi lại vá, là ngài tự vá lấy.  Y phục bên ngoài của ngài đại khái mặc hết 3-40 năm.  Nếu có học sinh cúng dường y phục cho ngài, vừa qua tay liền biếu tặng cho người khác, cúng dường người khác tự mình chẳng dùng.  Tôi cùng Thầy Lý sống chung, sanh hoạt mỗi ngày là 2 đồng tiền Đài Loan.  Đây là việc của 40 năm trước, trị giá mỹ kim lúc bấy giờ đại khái một đô là 40 đồng.  Nói cách khác, thầy Lý mỗi tháng đời sống tiêu dùng tính theo Mỹ kim đại khái hơn một đô.  Thu nhập của ngài rất khả quan, toàn bộ đều đem đi làm việc từ thiện, đây xác thật là thân giáo.  Chúng tôi là chính mắt nhìn thấy, không còn lời để nói nữa.  Những gì ngài dạy bảo chúng tôi, là ngài tự mình làm được rồi.  Tự mình chưa làm, làm không được thì không dám đi dạy người, sợ người ta truy vấn.  Bạn nói thì hay đấy, vậy bạn làm được chưa?  Đó là việc khó, bạn làm sao trả lời người ta?  tự mình làm được rồi sau đó mới có thể giáo hoá chúng sanh.  Tự mình chân chánh trì giới, chân chánh đạt được thanh tịnh đạo tâm, bạn mới có đủ sức cảm hoá người khác.  Khiến người khác thấy rồi nghe rồi từ trong nội tâm sanh lòng kính ngưỡng, nên bảo rằng tâm phục.

“Tất cánh đại lạc”.  Giúp đỡ chúng sanh tại thời kỳ mạt pháp chỉ có một phương pháp, là khuyên bảo người khác niệm Phật cầu sanh tịnh độ.  Niệm Phật cầu sanh tịnh độ thật không phải dễ dàng.  Tuy nói là dị hành môn (pháp môn dễ hành).  Tức trong tám vạn bốn ngàn pháp môn so ra thì là dễ dàng nhất, đơn giản nhất.  Trên thật tế cũng không phải dễ dàng như trong tưởng tượng đâu.  Trong tam thời hệ niệm Phật của Trung Phong thiền sư giảng nói rất hay: Tâm phải cùng tâm Phật A di đà tương ưng.  A di đà Phật là tâm gì?  Chân thành thanh tịnh bình đẳng chánh giác từ bi. Tâm của bạn có phải là tâm này không?  Nguyện phải cùng nguyện của Phật A di đà tương đồng, trong “Vô lượng thọ kinh” 48 nguyện.  Bạn làm được điều nào?  Hành cùng Phật A di đà tương đồng.  Đó chính là tâm cùng nguyện thực hành ở trong đời sống.  Áp dụng vào trong việc xử sự, đãi người, tiếp vật.  Hạng người này, trong một đời chỉ niệm một câu A di đà Phật cũng có thể vãng sanh.  Nếu như tâm, nguyện, hạnh của bạn cùng với A di đà Phật đều chẳng tương ưng, thì bạn mỗi ngày dù niệm 20 vạn tiếng Phật hiệu vẫn là:  “hét bể cuống họng cũng là uổng công”.  Cái lý sự này đều đã giảng rõ ràng, giảng minh bạch.  Muốn khuyên bảo tất cả chúng sanh, tự mình phải thật sự làm.  Như vậy mới không phải lừa gạt người khác.  Tôi chính mình có chỉ thể  nói, mà không thể làm, thế là bạn gạt người, người ta không thể tin tưởng bạn nữa.  Bạn gạt người, bạn chính là phá hoại hình tượng Phật pháp.  Đây là đạo lý nhất định.

U THÔNG PHẦN

KẾT KHUYẾN

Kinh văn:      

Như thử bát sự,
Nãi thị chư Phật,
Bồ-tát đại nhân,
Chi sở giác ngộ,
Tinh tiến hành đạo,
Từ bi tu tuệ,
Thừa pháp thân thuyền,
Chí Niết-bàn ngạn,
Phục hoàn sanh tử,
Độ thoát chúng sanh.
Dĩ tiền bát sự,
Khai đạo nhất thiết,
Linh chư chúng sanh,
Giác sanh tử khổ,
Xả ly ngũ dục,
Tu tâm Thánh đạo.
Nhược Phật đệ tử,
Tụng thử bát sự,
Ư niệm niệm trung,
Diệt vô lượng tội,
Tiến thú bồ-đề,
Tốc đăng chánh giác,
Vĩnh đoạn sanh tử,
Thường trụ khoái lạc.

DỊCH:

Tám điều như thế dạy qua,
Chính hàng Bồ-tát cùng là Thế Tôn,
Đã từng giác ngộ lẽ chân,
Tiến tu đạo hạnh vô ngần từ bi.
Đốt đèn trí tuệ phá si,
Pháp thân thuyền quí dạo đi Niết-bàn.
Trở vào sanh tử thanh nhàn,
Chúng sanh độ thoát an toàn vui lây.
Lại dùng tám việc trước này,
Mở đường khai lối dắt dìu chúng sanh.
Khiến cho hết thảy biết rành,
Tử sanh khổ não đừng manh chớ mờ.
Xa lìa năm dục đục lờ,
Tâm tu đạo Thánh không giờ nào quên.
Nếu là Phật tử phải nên,
Tám điều như thế hằng đêm tụng hoài.
Ở trong mỗi niệm hằng ngày,
Bao nhiêu tội lỗi diệt rày sạch trơn.
Bồ-đề hoa báu nhẹ thơm,
Trên bờ chánh giác gót chân giẫm liền.
Hằng hà sanh tử lưu linh,
Thường vui yên ổn tâm tình tiêu tan.

Như thử bát sự,  Nãi thị chư Phật, Bồ-tát đại nhân, Chi sở giác ngộ.  Mấy câu nói này vô cùng trọng yếu.  Thế Tôn ở trên đã thuyết ra tám điều, chính chỗ giác ngộ của mười phương ba đời tất cả chư Phật Như-lai, pháp thân Bồ-tát.  Chúng ta tuy là phàm phu, nay có duyên tiếp xúc đến, nghe đến, thấy đến rồi, cần phải hướng Phật Bồ-tát học tập, cũng sẽ có được giác ngộ như vậy.  Phật đã giảng ra cho chúng ta tám điều.

  • Điều thứ nhất: Đức Phật vì chúng ta thuyết minh vũ trụ nhân sanh chân tướng.  Phàm phu chúng ta khẳng định là “tâm thị ác nguyên, hình vi tội tẩu”.  Nói cách khác giống như trong “kệ sám hối” chỗ giảng.  Lục đạo phàm phu là “vãng tích sở tạo chư ác nghiệp” (xưa kia vốn tạo bao ác nghiệp).  Bậc cổ đức nói:  “Nếu như số tội nghiệp đó có hình tướng, hình tướng dù lại rất nhỏ giống như hạt bụi.  Đem quá khứ đời đời kiếp kiếp chỗ tạo ác nghiệp đó biến thành hình tướng, thì tận hư không cũng dung nạp không hết.  Câu nói này là thật.  Tội từ đâu sanh ra? là từ tâm tưởng sanh.  Cái tâm đây là vọng tưởng, là từ trong niệm đầu này sanh ra.  Thân thể của chúng ta là công cụ tạo tác tội nghiệp.   Nên nói “hình vi tội tẩu”, chúng ta nhất định phải liễu giải.  Đây là nhân tố thứ nhất khiến cho sanh tử bất đoạn trong lục đạo luân hồi. Vọng niệm từ đâu sanh?  Từ trong dục vọng sanh, từ trong đa cầu sản sanh ra.
  • Điều thứ hai và điều thứ ba, Phật dạy chúng ta: “Thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại”.   Đây là sinh hoạt theo đời sống của chư Phật, Bồ-tát.  “Đa cầu”  xác thật  là “tăng trưởng tội ác”.  Cho nên Phật dạy chúng ta phải tri túc, phải an bần lạc đạo, phải hiểu được cầu trí huệ.  Nói đến đây, khiến tôi liên tưởng đến trước đây, khi còn  thân cận bên thầy Lý.  Thầy Lý một đời sanh hoạt với mức sống thấp nhất.  Học trò của ngài có đến vài chục vạn người.  Học sinh chiếu cố ngài cũng được vô cùng chu đáo, nhưng ngài đều không tiếp nhận.  Vẫn theo nếp xưa, sống với những ngày tháng thanh bần.  Trong đây có đạo lý rất sâu.  Ngài làm mô phạm, làm quy tắc cho hàng hậu học xem.  Tôi nhìn thấu được cửa đạo của ngài, cho nên tôi hướng ngài học tập, học hết 8 tháng,  rồi mới đến ngài báo cáo.  Trước hết là từ trong sinh hoạt hằng ngày hạ thủ, mỗi ngày ăn một bữa.  Ngài hỏi, tám tháng qua ông đối với thân thể, cảm giác so với trước đây có gì sai khác?  Tôi nói: cảm thấy không có gì sai khác, rất bình thường.  Ngài đập nhẹ tay xuống bàn bảo: vĩnh viễn cứ theo như vậy, một đời không cầu người.  “Nhân đáo vô cầu phẩm tự cao”  (Người đến chỗ vô cầu, phẩm đức tự cao).  Chân chánh dinh dưỡng của đời sống mỗi người không giống nhau.  Dinh dưỡng là năng lượng bổ sung, mỗi một người thân thể không tương đồng.  Giống như hiện tại quý vị nhìn thấy xe cộ trên đường lộ, có chiếc ít tốn xăng, có chiếc rất hao xăng, không tương đồng.  Xe thuộc loại hao xăng mà bạn bổ xung năng lượng thiếu, thì xe không chạy được.  Còn xe ít hao xăng, chỉ cần một chút năng lượng thì nó có thể xử dụng được rất lâu.  Chúng ta phải hiểu đạo lý này.  Năng lượng tiêu hao phần lớn, đại khái hơn 95% là tiêu hao vì vọng tưởng.  Người nhiều vọng niệm, nhiều dục vọng, nhiều tham cầu.  Họ tất yếu phải cần nhiều năng lượng để bổ sung. Con người có tâm địa thanh tịnh, không có dục vọng, không có sở cầu thì họ tiêu hao năng lượng rất ít.  Cho nên chỉ cần một chút ẩm thực. Họ liền có thể duy trì rất bình thường.  Họ sống được rất hạnh phúc, rất vui vẻ.  Điều này có số người, họ thật sự không thể lý giải được.  Sự lao tâm, lao lực tiêu hao năng lượng vô cùng có hạn.  Còn “Vọng tưởng” không thể nào tưởng tượng nổi, từ sáng đến tối ngày đêm không có gián đoạn, hơn thế nữa là tự tư tự lợi, tổn người lợi mình, thứ niệm đầu này tiêu hao năng lượng lớn nhất, phải hiểu đạo lý này.  Phật ở trong kinh dạy bảo chúng ta.  “Tri túc – an bần – lạc đạo”.  Bạn mới chân chánh thể hội được, bạn mới chân chánh sanh lòng khát ngưỡng, chân chánh muốn học theo mà làm, đối tự mình mang lại lợi ích lớn.
  • Điều thứ tư dạy bảo chúng ta: “giãi đãi trụy lạc”. Đây là câu nói cảnh cáo vô cùng nghiêm trọng.  Phật khuyên bảo chúng ta phải tinh tấn, phải đoạn phiền-não, phải chế phục ma-chướng.  Phục ma-chướng chính là quyết định không bị dụ hoặc bởi ngũ dục lục trần.
  • Điều thứ năm khuyên bảo chúng ta: phải học rộng nghe nhiều, phải thành tựu trí huệ biện tài, phải phát tâm giáo hóa chúng sanh, hành Bồ-tát đạo.
  • Điều thứ sáu khuyên bảo chúng ta: “bần khổ đa oán”. Chúng ta khẳng định, nghĩa của Phật thuyết mấy câu nói này chính là đặt nặng nơi luân lý đạo đức, giới định, trí huệ. “Bần khổ” hoàn toàn không phải chỉ cho vật chất thọ dụng, mà là đặt nặng ở trên tinh thần giác ngộ.  Không giác ngộ mới là chân chánh bần khổ.  Cho nên đức Phật ở ngay trên đời sống sinh hoạt thị hiện cho chúng ta xem, chúng ta phải thể hội cho được. Hình trạng của Thích Ca Mâu Ni Phật lúc ở đời chỉ ba y một bát, dưới cây ngủ một đêm, giữa ngày ăn bữa.  Vật chất sinh hoạt hằng ngày của ngài so với học trò của Khổng lão phu tử là Nhan Hồi hãy còn khổ hơn.  Cái bần khổ của Nhan Hồi hãy còn một gian nhà cỏ tranh.  Thích Ca Mâu Ni Phật luôn cả mái tranh cũng không có, là dưới cây ngủ qua đêm.  Do đây có thể biết, Phật chỗ giảng “bần khổ đa oán” chính là chỉ cần tinh thần sinh hoạt được an lạc, còn trên vật chất có thiếu thốn cũng không lấy đó làm khổ.  Đối với người thế gian thì đó là khổ, vì họ lấy đó làm đời sống tiêu chuẩn cho mình, nhưng đó không phải tiêu chuẩn của người giác ngộ.  Tiêu chuẩn của người giác ngộ là:  “Thiểu dục vô vi, thân tâm tự tại”.  Vì trong đây có “chân lạc”.  Họ nhìn thấy người thế gian chúng ta có phòng ốc, có đất đai, có vợ con.  Họ cho đó là “gia lụy”, là thừa thãi vô ích.  Cái này rất khổ, người thế gian sống ở trong khổ mà không biết đó là khổ.

Tôi hôm qua từ bên ngoài nhìn thấy trong khách đường có một tấm “tỉnh thế đồ”.  Tấm “tỉnh thế đồ” đó vô cùng có ý vị.  Bức họa này nguyên gốc là tại Đài Nam, ở trong khách đường của Khai Nguyên Tự.  Nói về việc này đại khái cũng có hơn 30 năm về trước, tôi đã chụp tấm hình này.  Nó rất có giá trị khiến người thể hội, giác ngộ, Phật Bồ-tát trong mắt thấy tình hình này.  Đây là khổ, không phải vui.  Cho nên Phật dạy người: “chí nguyện xuất gia, bất nhiễm thế lạc”.  Thế lạc là căn nguyên của khổ.  Thế gian đâu có vui?  Phật giảng “lạc là hoại khổ”.  Nhân vì nó không thể vĩnh viễn tồn tại , đến lúc cái vui sản sanh biến hoá rồi, thì khổ của bạn liền đến.  Cho nên Phật giảng thế gian có ba điều khổ:  1.- Khổ khổ ;   2.- Hoại khổ ;    3.- Hành khổ.  Ba cõi đều là khổ, không một chút vui.  Vì sao lại khổ?  Bạn luôn cảm thấy thiếu thốn, do vì nghèo đạo đức, nghèo giới định, nghèo trí tuệ.  Cho nên bạn mới có khổ.  Phật dạy bảo chúng ta: “đương hành bố thí”.  Bố thí tài thì tài vật dùng không khiếm khuyết.  Thích Ca Mâu Ni Phật thị hiện cho chúng ta.  Ngài một thứ cũng không có, nhưng ngài mỗi ngày đối với vấn đề ăn mặc, chỗ cần cầu đều không khiếm thiếu.  Vì làm sao không khiếm thiếu?  Ngài ngày ngày đều tu tài bố thí, tu pháp bố thí, tu vô-úy bố thí.  Thích Ca Mâu Ni Phật một phân tiền cũng đều chẳng có, làm sao tu tài bố thí?  Là tu nội tài bố thí.  Nội tài là cái thân thể này.  Đem thân thể này vì tất cả chúng sanh làm việc tốt là bố thí.  Khẩu vì tất cả chúng sanh thuyết pháp, là bố thí.  “Niệm”, trong mỗi niệm đều nghĩ giúp đỡ chúng sanh phá mê khai ngộ ly khổ đắc lạc.  Thân khẩu ý ba nghiệp của Ngài là đều tại bố thí.  Nội tài bố thí, chỗ đạt được là công đức, không phải nói phước đức, siêu quá bố thí ngoại tài.  Cho nên quả báo của ngài, tài vật dùng không khiếm thiếu, trí huệ ngày ngày tăng trưởng, mạnh khỏe sống lâu.  Thọ mạng của ngài là vô lượng thọ.  Xác thật là tự tại khoái lạc.  Cửu pháp giới chúng sanh, không ai có thể cùng Phật tương sánh.  Cái này chúng ta cần phải nên học tập.  Ngài dạy chúng ta bố thí, ngài tự mình đã làm được rồi.  Trong khi bố thí thì phải biết: “đẳng niệm oán thân, bất niệm cựu ác, bất tắng ác nhân”, thì việc bố thí của bạn mới có thể làm đến được viên mãn.

  • Điều thứ bảy Phật dạy chúng ta: “bất nhiễm thế lạc”.  Cái thế giới này, tất cả danh văn lợi dưỡng, sự hưởng thọ của ngũ dục lục trần, quyết định không nên tham nhiễm.  Trong đại thừa Phật pháp, Bồ-tát thị hiện chỉ vì muốn tiếp dẫn chúng sanh.  Các ngài ở trên hình tướng, cùng với chúng sanh là “hòa quang đồng trần”, ở trong đó thị hiện là “Tứ nhiếp pháp”.  Tâm địa quyết định không nhiễm, nếu tâm địa nhiễm trước tức là phàm phu.   Không những độ không được chúng sanh, mà khẳng định còn bị chúng sanh độ đi mất.  Hiện tượng này từ xưa đến nay, có rất nhiều.  Chúng tôi lúc mới học Phật, lão sư đã một lần cảnh cáo.  Quý vị ở bên ngoài giảng kinh thuyết pháp, đi độ chúng sanh phải cẩn thận, không khéo sẽ bị chúng sanh độ chạy mất.  Tôi lúc xuất gia, sư phụ thế độ cho tôi, số tuổi so với tôi sai biệt không nhiều lắm, đến năm thứ hai thì ông ta hòan tục, bị tại gia nữ đệ tử độ đi mất.  Cho nên việc này thật rất không dễ gì.  Bạn tự mình không có định lực, không có trí huệ, vô cùng dễ dàng nhiễm trước danh văn lợi dưỡng.  Hiện rõ nhất là cống cao ngã mạn, tự lấy làm hãnh diện về mình, người khác đều bằng tôi.  Cống cao ngã mạn là phiền não, không phải trí huệ.  Xưa nay chư đại đức chân chánh tu hành, cũng đều khó tránh khỏi.

Đồng học chúng ta đều biết Từ Bi Tam Muội Thủy Sám.  Bạn thấy trong đó nói về Ngộ Đạt quốc sư là thập thế cao tăng, quả thật là điều không dễ dàng có được.  Trong mười kiếp luân hồi ngài đều không bị mê hoặc.  Sau khi chuyển thế, ngài hãy còn được xuất gia, hãy còn đủ duyên tu hành, đều có được thành tựu.  Không mê mất bổn tánh, điều này đâu phải dễ dàng.  Đến đời thứ 10 được làm bậc thầy của vua, tức làm Quốc sư.  Hoàng Đế tặng cho ngài một bảo tọa trầm hương.  Ngài vì một niệm kiêu mạn tâm khởi lên, cảm giác rằng mình thật vô cùng vinh hạnh, đâu phải vị xuất gia nào cũng được như thế.  Cái tâm niệm kiêu ngạo này vừa khởi lên, thì hộ pháp thần liền đi mất. Hộ pháp thần thì vô cùng công chánh.  Ngài không có nói cảm tình. Bạn thật có đạo hành, ngài liền đến hộ trì bạn.  Bạn từ từ có một chút phiền não sanh khởi hiện hành, đạo hạnh mất đi, thì ngài liền đi mất. Hộ pháp thân vừa đi, thì oan gia trái chủ của ngài liền nhập vào thân thể.  Cho nên oan gia nên giải không nên kết, chúng ta cần phải liễu giải.  Qua câu chuyện của Ngộ Đạt quốc sư, cho ta một bài học rất hay.  Oan gia này đối đầu cùng ngài đời đời hết 10 đời.  Nhân vì đời đời ngài đều tu hành có đạo hạnh, đều có hộ pháp thần bảo hộ, không có cách nào tiếp cận.  Đến kiếp này cơ hội đến rồi, tâm kiêu ngạo vừa khởi lên, thì Hộ pháp thần đi mất.  Oan gia trái chủ này liền nhập vào thân, hại thành một mụn nhọt mặt người.  Gần như là muốn lấy mạng người vậy.  Quý vị đọc phần duyên khởi của Từ Bi Tam Muội Thủy Sám sẽ hiểu được.

Hiện tại một số người, đạo hạnh sánh không bằng Ngộ Đạt quốc sư, nhưng mà tâm cống cao ngã mạn, tạo tác tội nghiệp, cùng chúng sanh kết oán cừu, vượt quá Ngộ Đạt quốc sư rất nhiều.  Ngộ Đạt quốc sư kia thì bị hại thành mụn mặt người, còn tôi đây không có bị hại.  Đại khái tôi sánh với Ngộ Đạt quốc sư phải cao hơn nhiều.  Ngộ Đạt quốc sư đó là trả biệt nghiệp biệt báo.  Chúng ta hiện nay, chỗ tạo tác tất cả tội nghiệp đó, chỉ sợ không qua được vài năm, khi thời tiết nhân duyên đến, tất cả oan thân trái chủ đều cùng họp lại tổng tính sổ, quả báo này thật không dám tưởng tượng.  Chúng ta phải liễu giải sự thật chân tướng này.  Thế gian ngũ dục lục trần, dụ hoặc đó chính là ma.  “Tài sắc thanh thực thùy”,  không có cái nào chẳng phải là yêu ma quỷ quái.  Bạn chỉ cần nhiễm trước nó, thì bạn tuyệt đối sẽ không có những ngày tốt đẹp.  Bồ-tát là có giới định huệ, các ngài có thể lợi dụng những thế gian pháp để làm Phật sự, cũng là lợi dụng những nhân duyên này để tiếp dẫn chúng sanh, để khai phát chúng sanh, giáo hóa, giác ngộ chúng sanh.  Đây là chính xác, tức có thể dùng nó nhưng tuyệt đối không thể tiêm nhiễm.  Đến lúc nào chúng ta mới có thể lợi dụng ngũ dục lục trần để hoằng pháp lợi sanh?  Tự mình phải xác thật đối với ngũ dục lục trần đoạn sạch rồi, ở trong đó quyết định không khởi tâm động niệm, tuyệt đối không khởi tham sân si mạn, lúc này mới có thể.  Ở Trung quốc nổi danh nhất là Tế Công Phật sống, xác thật có người này.  Trong Cao Tăng Truyện có truyện ký về Tế Công trưởng lão, viết được đặc biệt tường tận, gồm hết 4 quyển.  Chúng ta thấy truyện ký của rất nhiều cao tăng đại đức khác chỉ viết có một đoạn ngắn ngắn, riêng ngài có đến 4 quyển.  Phải có công phu như thế mới được.  Chúng ta không có thứ công phu đó, không có thứ đức năng đó thì bạn phải lưu tâm cẩn thận.  Bạn nếu lỡ đọa lạc rồi không ai cứu bạn.

Trong tất cả cách bố-thí thì pháp bố thí là quan trọng nhất.  Chúng ta cũng có tài bố thí, nhưng tài bố thí đó chỉ để làm tăng thượng duyên, không phải chủ yếu.  Nhân vì cùng tất cả chúng sanh tiếp xúc không thể không có tài bố thí.  Người thế gian chúng ta thường giảng là thiếu nhân tình, đối với tình người chưa có làm được.  Cho nên cần có tài bố thí, nhưng đây chỉ là thủ đoạn, là phương thức, mà không phải là mục đích.  Điều này cần phải biết. nhưng cũng không thể để khiếm thiếu.  Thế chúng ta có cần phải đi cầu tài không?  Nếu bạn dụng tâm đi cầu tài, đem tài bố thí đó cùng mọi người kết duyên, thế thì bạn dụng tâm sai lầm rồi.  Tâm của bạn đã sản sanh thành vọng niệm.  Cổ đại đức dạy bảo chúng ta: “đa sự bất như thiểu sự, thiểu sự bất như vô sự”.  (nhiều việc chẳng bằng ít việc, ít việc chẳng bằng không việc gì).  Cho nên bạn hà tất phải cầu đa sự.  Phật dạy chúng ta là phải tùy duyên mà chẳng phải phan duyên.  Tùy duyên là gì?  Khi chúng ta có nhu cầu cần đến thì tiền tài liền đến, chúng ta không có đi cầu họ, là họ tự đem đến tặng, việc này nên làm.  Chúng ta phải khéo nhận biết phước đức hiện tại của chúng sanh.  Phật, Bồ-tát đem tiền đến cho, thì chúng ta cần nên đi làm.  Đằng này không có người đem tiền đến biếu, chúng ta phải đi hóa duyên, đến chỗ này kiếm, đến chỗ kia tìm để có tiền, thế thì sai rồi.  Đó gọi là tạo nghiệp.  Thế thì đối với giáo huấn của Phật pháp, chúng ta đã làm trái nghịch rồi.  Nói cách khác, Phật pháp giáo huấn đó đều là tánh đức của tự tánh, bạn chỗ làm đó hoàn toàn trái nghịch với tánh đức.

Chúng tôi đến Hàng Châu đi tham quan Đạo tràng của Liên Trì đại sư.  Hiện tại đạo tràng này đã biến thành trường sở tham quan tụ lạc.  Điện Đường đều biến thành chỗ chiêu đãi, chúng tôi nhìn thấy thật đau lòng.  Ở trong cổ thư có ghi chép, đại điện của Liên Trì đại sư gọi là ”thần vận điện”.  Chính là quỷ thần thay ngài tạo dựng.  Đến lúc bạn thật sự cần phải có, thì chư Phật Bồ-tát, quỷ thần liền cảm ứng, mỗi mỗi đều thay thế bạn giải quyết, không cần dùng đến tự mình một chút lao tâm.  Chúng sanh có cảm, Phật Bồ-tát có ứng.  Chúng ta thân là đệ tử Phật, thì phải biết tùy thuận lời Phật dạy. Khi cơ duyên thành thục rồi thì nhất định phải đi làm.  Nếu như duyên chưa thành thục thì quyết định không thể đi làm.  Vì sao?  Đối với tự mình khẳng định sẽ tạo thành tổn hại, phiền phức.  Đối với tự mình đã có hại, thì làm sao có thể lợi ích chúng sanh?  Cho nên người xưa giảng: “phàm sự chi bổn, tất tiên trị thân”, đây là đạo lý nhất định. Đức Thích Ca Mâu Ni Phật đã vì chúng ta thị hiện, nhất định là tự mình tu hành chứng quả thành đạo trước, rồi sau đó mới giáo hóa chúng sanh.  Trong công tác giáo hóa chúng sanh vẫn phải tùy duyên.  Cái này trong Phật môn có một câu nói: “Phật bất độ vô duyên chi nhân” (Phật chẳng độ người không có duyên).  Duyên chưa thành thục, thì Phật Bồ-tát sẽ không đến.  Duyên thành thục rồi thì các ngài tự nhiên sẽ đến, là tùy duyên mà chẳng phan duyên.  Điều này vô cùng trọng yếu.  Chúng ta phải hướng Phật, Bồ-tát, hướng tổ sư đại đức mà học tập.  Tự mình có thành tựu rồi.  Mới có đủ sức thành tựu cho tất cả chúng sanh.  Cho nên nguyện không thể không có.  Không những thế mà nguyện phải lớn, nguyện phải sâu: “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”.  Phải bắt đầu từ đâu để độ?  Không phải từ chúng sanh, mà là bắt đầu từ chính mình, tức là tự mình chân chánh đắc độ.  Cái gì gọi đắc độ?  phiền não đoạn tận rồi, ngu si đoạn tận rồi, ác nghiệp đoạn tận rồi, tự mình được độ rồi, sau đó mới có thể cảm hóa tất cả chúng sanh.  Trong số tất cả chúng sanh, có chúng sanh căn duyên thành thục rồi. Bạn có phong cách, tâm hạnh làm tốt rồi, họ từ trong đó nhìn thấy, nhận ra được thì họ liền giác ngộ, họ lập tức hồi đầu.  Người chưa có thiện căn thành thục, thì chúng ta giúp họ gieo trồng thiện căn.  Người thiện căn thành thục rồi thì tự nhiên được đắc độ.  Cho nên hết thảy các pháp, nhất định phải cầu chính mình.  Hướng ra ngoài tìm cầu là sai rồi, vì đó là ngoài tâm cầu pháp.  Nhất định phải hiểu được hồi đầu, hướng vào trong tâm tánh của tự mình mà cầu.  Đây gọi là “nội học”, Phật pháp là nội học.  Về sau bạn tự nhiên đối với thế xuất thế gian tất cả tánh tướng, lý sự, nhân quả, bạn sẽ thấy được rất rõ ràng.  Bạn có đủ sức liễu giải, mà không bị mê hoặc, điên đảo.

Trên kinh giảng: “thủ đạo thanh bạch, phạm hạnh cao viễn”,  đây là tự nhiên thành tựu.   Mấy năm qua, tôi ở trong giảng đường thường thường giảng: “tâm địa thuần tịnh, hành vi thuần thiện”. Phật ở trong Thập Thiện Nghiệp Đạo Kinh nói: “chẳng để một tơ hào bất thiện xen tạp, chẳng cho một mảy may bất tịnh xen lẫn.” Chúng ta liền chân chánh đạt được thọ dụng của Phật pháp.  Phương Đông Mỹ tiên sinh, là người đem Phật pháp giới thiệu cho tôi.  Ông nói:  “học Phật là hưởng thụ tối cao của đời người”.  Tôi ở trong 50 năm, đem câu nói của ông ta chứng minh rồi.  Nhưng mà hưởng thụ tối cao chỉ có chính bản thân mình rõ nhất, người ngoài không hiểu được.  Bên ngoài, có số người nhìn vào thấy chúng ta rất khổ.  Thịt cũng không ăn, áo quần đẹp cũng chẳng mặc, họ thấy chúng ta rất đáng thương.  Nhưng chúng ta đây đang là hưởng thụ tối cao, họ đâu có biết?  Phật Bồ-tát biết, chúng ta tự mình biết, người có đạo hạnh biết.  Người thế tục thì quyết định không thể hiểu được.  Hưởng thụ tối cao, chúng ta xác thật là trong tâm không có phiền não, không có lo lắng, không trách móc lo nghĩ, không có sợ được mất.  Cao hơn một chút nữa là không có sanh tử.  Tâm cùng hư không pháp giới hợp thành một thể.  Thân này cùng sát độ chúng sanh dung hợp làm một.  Cái này chính là phần sau kinh chỗ nói: “thừa pháp thân thoàn, chí Niết-bàn ngạn” (nương thuyền pháp thân, đến bờ Niết-bàn), cái này là đại lạc.  Người thế gian, họ có nằm mộng cũng nghĩ không ra.  Bạn giảng cho họ, họ cũng không hiểu được. Chỉ có người nhập vào cảnh giới này mới rõ ràng, minh liễu.

“Tinh tiến hành đạo” chữ “đạo” này là chỗ giảng tám điều phía trước.  Phật ở chỗ này khuyên bảo chúng ta, đối với tám điều này bạn xác thật phải giác ngộ giác tri.  “Từ bi tu huệ”, Phật pháp là lấy ”từ bi vi bổn, phưong tiện vi môn” (từ bi làm gốc, phương tiện làm cửa).  Tâm từ bi của bạn phải rộng khắp hư không pháp giới.  Đối với tất cả chúng sanh, hành đại từ bi, tu chân thật trí huệ, “thừa pháp thân thuyền”.  “Pháp thân” là thân pháp tánh.  Thân pháp tánh là thân chân thật của chúng ta, thân này không sanh không diệt.  Thân thể chúng ta hiện tại đây là thân nghiệp báo.  Thân nghiệp báo là tùy nghiệp lưu chuyển.  Chúng ta đem thân pháp tánh bỏ quên mất.  Hiện tại tùy thuận theo thân nghiệp báo, ở trong lục đạo luân hồi chịu khổ.  Phật dạy bảo chúng ta phải khôi phục lại thân pháp tánh của mình, khôi phục chân thân chính mình.  Được vậy thì bạn đã chứng đắc, đồng với  chư Phật Như-lai trụ đại Niết-bàn vô thượng.  Làm thế nào để khôi phục pháp tánh?  Chỉ cần tinh tiến hành đạo, từ bi tu huệ là được rồi.  Bốn câu này là giảng công đức lợi ích của chúng ta, tự mình tu hành chứng quả.

Kinh văn:       

Phục hoàn sanh tử
Độ thoát chúng sanh
Dĩ tiền bát sự
Khai đạo nhất thiết
Linh chư chúng sanh
Giác sanh tử khổ
Xả ly ngũ dục
Tu tâm thánh đạo

Đoạn này là giảng Bồ-tát tự mình thành tựu rồi.  Tiêu chuẩn tự mình thành tựu phải là chứng đắc pháp thân, chứng đắc Niết-bàn.  Đây mới thật chân chánh thành tựu.  Thành tựu xong rồi không phải chẳng còn việc gì.  Mà là tái sanh trở lại lục đạo luân hồi, hiện thân trong cửu pháp giới, giúp đỡ những chúng sanh còn chưa giác ngộ.  Dùng phương pháp gì giúp đỡ?  Chính là đem tám điều ở trước để giúp đỡ.  Tám điều này là tổng cương lĩnh của Phật pháp.  Nếu như nói rõ hơn, thì tám điều này là tổng cương lĩnh của đức Thế tôn 49 năm chỗ thuyết tất cả kinh giáo.  Chúng ta hiểu ý nghĩa này, thì phải đem Phật pháp khai đạo cho tất cả chúng sanh, giúp đỡ tất cả chúng sanh giác ngộ.  Điều trước hết cần phải giác ngộ, đó là phải biết được cái khổ của lục đạo chúng sanh ở trong sanh tử luân hồi.  Sanh tử luân hồi từ đâu đến?  là do tham luyến ngũ dục lục trần mà ra , chỉ cần có thể đem ngũ dục lục trần buông xuống, tham sân si mạn buông xuống, thì bạn liền có thể thành tựu Thánh đạo.

Kinh văn:       

Nhược Phật đệ tử
Tụng thử bát sự
Ư niệm niệm trung
Diệt vô lượng tội
Tiến thú Bồ đề
Tốc đăng chánh giác
Vĩnh đoạn sanh tử
Thường trụ khoái lạc.

Đoạn kinh văn này, ngàn vạn lần chớ nên đem nó ngộ nhận.  Nếu “y văn giải nghĩa” thì bạn sai rồi.

Nhược Phật đệ tử, Tụng thử bát sự, Ư niệm niệm trung liền có thể:  “diệt vô lượng tội”.  Vậy tôi ngày ngày tụng niệm là được rồi.  Tụng niệm như vậy tội liền diệt mất không?  Không thể diệt mất. Câu thứ nhất giảng “đệ tử Phật”, ở đây không luận là tại gia, xuất gia, mà là tứ chúng đều bao quát ở trong đó.

“Tụng thử bát sự”.  Bạn có thể tụng kinh văn này, phải liễu giải được ý thú của kinh, phải thực hành được trên sự.  Ở trước không phải đã nói rất rõ rồi sao?  Bạn phải tinh tấn hành đạo, phải từ bi tu huệ, phải chứng pháp thân, phải nhập Bát Niết-bàn.  Bốn câu này là tổng kết của tám điều ở trước.  Tám điều đó có thể giúp bạn từ bi tu huệ, giúp đỡ bạn chứng đắc thanh tịnh pháp thân.  Giúp đỡ bạn nhập vào đại bát Niết-bàn của Như-lai.  Không phải chỉ giản đơn đem kinh văn ra tụng là coi như xong.  Cái đó chẳng dùng được gì.  Nếu quả nhiên có thể y giáo phụng hành, thì đích xác là “diệt vô lượng tội”.  Sau khi diệt tội rồi, đạo hạnh của bạn mới có được tiến bộ.

“Tiến thú Bồ-đề”.  Tiến là tinh tấn, tiến bộ.  Thú là thú hướng, đường bạn đi sẽ là Bồ-đề đại đạo. Bồ-đề  là phạn ngữ, dịch nghĩa là “giác”, chính là chữ giác trong tám điều “giác ngộ”, “giác tri”, “tốc đẳng chánh giác”.  Chánh giác là quả vị của A-la-hán.  Quả vị của Bồ-tát là chánh đẳng chánh giác.  Như-lai quả vị là vô thượng chánh đẳng chánh giác.  Bạn sẽ mau chóng tiêu trừ nghiệp chướng, viên mãn chứng đắc Phật quả vô thượng Bồ-đề.

“Vĩnh đoạn sanh tử”. Hai thứ sanh tử vĩnh viễn đoạn diệt rồi. Ở trước đã cùng chư vị đề cập đến, đẳng giác Bồ-tát hãy còn một phẩm sanh tướng vô minh chưa đoạn.  Nói cách khác, các ngài hãy còn một lần biến dịch sanh tử.  Đến khi chứng đắc vô thượng Bồ đề, phần biến dịch sanh tử này mới vĩnh viễn đoạn diệt, mới chân chánh gọi liễu sanh tử.

“Thường trụ khoái lạc”.  Lúc này đối với thế xuất thế gian tất cả khổ, bạn vĩnh viễn đoạn tận.  Đoạn tận tất cả khổ thì an lạc liền hiện tiền.  Niềm vui này không phải cái vui của khổ vui, cái vui này chúng ta phàm phu quyết định không có cách gì tưởng tượng đến được, đây là cảnh giới quả địa của Như-lai. Cảnh giới không tương đồng thì không có cách chi lý giải.  Chí như Đẳng giác Bồ-tát cũng không biết được cảnh giới của Phật,  Thập địa Bồ-tát không biết được cảnh giới của Đẳng giác Bồ-tát.  Cũng giống như chúng ta hiện nay.  Bạn không biết cảnh giới của tôi, tôi không biết cảnh giới của bạn, là đạo lý như vậy.  Ở trong Phật pháp giảng, người ở tầng cao biết được cảnh giới của tầng thấp.  Người ở tầng thấp quyết không thể lý giải được cảnh giới của người tầng cao.  Cho nên chúng ta phải nhận chân nổ lực tu học, đề thăng cảnh giới của tự mình, ở  trong đây sẽ đắc được đại lạc.  Chúng ta thường giảng, ngày ngày phiền não nhẹ.   Vọng tưởng, phân biệt, chấp trước, âu lo, trách móc, ngày ngày giảm bớt đi.  Trí huệ ngày ngày tăng trưởng, thì ở trong đấy mới thật có chân lạc, có đại lạc.  Nếu chẳng nhận chân tu học,  thì cái lạc thú này vĩnh viễn không đạt được.  Không chỉ là không đạt được, mà bạn vĩnh viễn không có cách chi tưởng tưọng đến được.  Nếu như bạn thật sự làm, chân thật khế nhập cảnh giới, thì bạn sẽ thường sanh tâm hoan hỷ.  Trong kinh Phật thường giảng:  “thường sanh hoan hỷ tâm, pháp hỷ sung mãn”. Cái hoan hỷ, pháp hỷ này sẽ lại đề thăng cảnh giới của bạn, giúp bạn càng dũng mãnh tinh tấn.  Bấy giờ bạn mới có thể thật sự đem thế gian buông xả, đối với Phật pháp thêm dũng mãnh tinh tấn. Chính nhờ cái lực lượng này duy trì, đó là: “pháp hỷ sung mãn”.

Bát Đại Nhân Giác Kinh. Chúng ta giảng đến đây coi như viên mãn rồi, hy vọng chư vị đồng học trân quý cơ duyên hy hữu này.  Đây là Phật pháp cương lĩnh khai thị quan trọng nhất, kinh văn tuy rằng không dài, nhưng nghĩa lý, cảnh giới xác thật là không có biên tế.  Chính đồng như Hoa Nghiêm Kinh chỗ nói “một chính là tất cả, tất cả chính là một”.  Phật thuyết tất cả pháp, đều là từ trong chân tâm, tự tánh lưu lộ ra, tự tánh không có lớn nhỏ, không có sâu cạn.  Bạn xem trong kinh này, mỗi câu, mỗi chữ, đều là bao quát tất cả pháp.  Tất cả pháp cũng ở trong một pháp .  Kinh này thuyết ra tám điều, tức là tám pháp.  Mỗi một pháp đều bao quát tất cả pháp.  Hết thảy pháp dung nạp tại trong một pháp.  Một pháp triển khai ra chính là tất cả pháp.  Cái này mới là chân chánh chân thật pháp từ trong tự tánh lưu lộ xuất ra.  Tự tánh của ai?  Là tự tánh của chính chúng ta.  Chúng ta ngày nay tại mê.  Thích Ca Mâu Ni Phật là giác. Ngài từ trong tự tánh lưu lộ xuất ra đại pháp, chính là chúng ta tự mình từ trong chân tâm vốn đầy đủ Phật pháp.  Chúng sanh cùng Phật là một, không phải là hai.  Chúng sanh và Phật là không hai.  Chúng ta liễu giải đạo lý này, cho nên cần phải trân quý cơ duyên này mà nhận chân nổ lực học tập.  Hy vọng tất cả chúng ta ở trong một đời này, đều đồng thành Phật đạo.  Phát tâm bồ đề giúp đỡ tất cả khổ nạn chúng sanh.

([1])  Mã mạch chi báo:  là chuyện kể về đức Phật có lần trong suốt 3 tháng an cư phải chịu nạn ăn lúa mì, thứ lúa mì dành cho ngựa ăn vậy, nên nói mã mạch.



Từ Ngữ Phật Học Trong: Kinh Bát Đại Nhân Giác Giảng Giải