Home > Khai Thị Phật Học
Phiền Não
Cư Sĩ Huỳnh Lão | Sa Môn Thích Viên Giáo, Việt Dịch


Phiền não cũng gọi là: Hoặc, trần lao, nhiễm ô v.v... Do vì nó nhiễm loạn sự thanh tịnh thân tâm chúng sinh hữu tình, không được giác ngộ, làm chướng ngại lý tưởng Niết Bàn.

Phiền não chủ yếu không hiển bày bề mặt mà là tiềm ẩn tánh cách tà ác và cố tật ở chỗ sâu xa nội tâm, một khi có cơ hội liền hiển bày biến hóa.

Phiền não, có thể riêng phân ra: “căn bản phiền não” và “tùy phiền não”. Tùy phiền não lại có thể từ lớn tới nhỏ về phạm vi nhiễm ô mà chia ra: tiểu tùy phiền não, trung tùy phiền não và đại tùy phiền não. Nay đem các món phiền não mà phân biệt một cách đơn giản để lần lượt nói ra:

Căn bản phiền não.

Căn bản phiền não có sáu việc: tham sân si mạn nghi kiến, được giải thích từng việc như sau:

Tham: là chỉ cho tham dục hoặc tham ái. Tham tức là đối tượng và sự yêu thích đối lòng ưa thích, càng nhiều càng tốt, tham lam không bao giờ biết đủ.

Sân: là nguyện vọng đối với mình, khi yêu thích rồi mà có lúc trái ngược, thì tâm tình phẫn nộ liền sinh khởi.

Si: tức là “vô minh” của mười hai duyên khởi, không rõ thị phi, không tin nhân quả, mà khởi lên các món tà kiến, tà hạnh.

Mạn: nâng cao chính mình mà xem thấp người khác, lấy tự “bản ngã” mà tình kết trong tâm.

Nghi: hoài nghi luật nhân quả, hoài nghi thiện ác báo ứng, hoài nghi chơn lý Phật nói; nó làm ngăn trở sự tăng trưởng của huệ căn.

Kiến: tức không giữ được chính niệm, lấy tà kiến, tà hạnh làm pháp đạo để tu.

Trong sáu món phiền não, năm món trên là sự mê hoặc tình ý chấp trước trên tập quán, gọi là TƯ HOẶC (tu hoặc). Đối với phiền não tư hoặc này dù cho có thể hiểu biết trên lý luận nó là loại sai lầm, nhưng hãy còn rất khó sửa đổi, loại tập quán này mê hoặc ngoan cố, cần phải dựa vào sự nỗ lực tu hành thời gian dài mới có thể lần hồi dứt trừ. Tư hoặc cũng gọi là “độn sử” (phiền não nặng nề chậm lụt)

Món Kiến, là sự mê hoặc trên tư tưởng, cũng gọi là KIẾN HOẶC. Loại phiền não này như có thể nghe lý luận chính xác mà lãnh ngộ, thì có thể lập tức trừ bỏ mê hoặc, do đó cũng gọi là “lợi sử” (phiền não nhạy bén). Như có thể đoạn được kiến hoặc, cũng là thấy được vị trí đạo, tức là KHAI NGỘ. Như nếu dứt được kiến hoặc và tư hoặc, tức là chứng quả A LA HÁN.

Tiểu tùy phiền não

Tiểu tùy phiền não có mười món: 1. Phẫn, giận dỗi kịch liệt. 2. Hận, do sân giận tích chứa kết ở trong tâm. 3. Phú, chính sự che đậy của mạng sống thường xuyên mà thành lớn. 4. Não, ác não, phiền muộn. 5. Tật, sự đố kỵ ganh ghét. 6. Lận sắc (khan), lòng dạ hẹp hòi. 7. Cuống, dùng lời nói dối lừa người khác. 8. Siểm, dùng lời nói để đánh dò người mà vui sướng. 9. Kiêu, kiêu ngạo (món này cùng với “mạn” của căn bản phiền não có sự khác nhau, là sự tự hào chưa trải qua sự so sánh bản thân mà sinh khởi). 10. Hại, là từ nơi sự sân hận phát sinh ra hành động thêm hại cho tâm người khác. Sự tàn nhẫn cũng là gần như hại.

Trung tùy phiền não

Trung tùy phiền não có hai món: 1. Vô tàm, không có sự hổ thẹn đối với nội tâm. 2. Vô quý, không có sự hổ thẹn đối với thế giới bên ngoài.

Đại tùy phiền não

Đại tùy phiền não có tám món: 1. Hôn trầm, tâm tình nặng nề không mở mang. 2. Điệu cử, tâm tình bềnh bồng không định. 3. Bất tín, không tin có báo ứng nhân quả. 4. Giãi đãi, không có sự nỗ lực. 5. Phóng dật, tức là mặc tình lung tánh vọng làm. 6. Thất niệm, mất đi chánh niệm (có muốn cũng không khởi ra). 7. Tán loạn, tâm không chuyên nhất. 8. Bất chánh tri, không có sự thấy hiểu chính xác.

Tiểu, trung, đại; ba món “tùy phiền não” ở trước, đều là chi mạc phiền não (phiền não cành nhánh), theo nơi sáu món căn bản phiền não mà sinh khởi. Tóm lại, cũng là phiền não nhiễm ô, trở ngại cho việc thực hiện chứng ngộ.