Home > Khai Thị Phật Học > Nam-Gioi
Năm Giới
Cư Sĩ Huỳnh Lão | Sa Môn Thích Viên Giáo, Việt Dịch


Năm giới là giới điều rất cơ bản của bốn chúng đệ tử Phật. Không luận là xuất gia hay tại gia đều phải tuân thủ. Người tu hành “ năm giới không giữ, dứt đường nhân thiên”.

Năm giới, mười thiện nghiệp là tiêu chuẩn đạo đức nhân loại, mỗi điều giới luật đều là “chẳng làm các ác” biện chứng thống nhất “vưng làm các thiện”. Đạo đức Phật giáo là một đường lối rất chú trọng động niệm và hiệu quả, bất luận người khác nói như thế nào và làm như thế nào đều là một lối. Ngược lại, như riêng tư, tự lợi, tạp niệm nảy sinh, thì bất luận người khác nói nhiều, đẩy đưa nhún nhường động tiếng thế nào cũng đều là giả, đây là nguyên tắc cơ bản của đạo đức Phật giáo cân lường.

Năm giới, mười thiện nghiệp của Phật giáo là cùng với luân lý xã hội và pháp luật Quốc gia gần giống nhau, cho nên vấn đề lý tánh nhân từ thuần khiết, là tập trung tinh hoa đạo đức xã hội loài người, mọi người có thể làm được năm giới, mười thiện nghiệp của Phật giáo cũng có thể đạt đến tư tưởng đẹp, hành vi hay, thế này quan hệ người và người cũng sẽ hòa mục và an khang. Đạo đức Phật giáo, chủ yếu là vưng làm năm giới, mười thiện nghiệp, khiến cho hoàn thành một con người tốt lương thiện.

Năm giới là: không sát sinh  trộm cắp - không tà dâm - không nói vọng không uống rượu.

KHÔNG SÁT SINH

Luận Đại trí Độ nói: “Trong các tội nghiệp, sát nặng nhất; trong các công đức, không sát thứ nhất”. Động vật bay lên trời, bơi trong nước, có bản năng sinh tồn của nó, có tự do sinh tồn của nó; Con người tại sao tự tàn sát nhau? Hoặc vì miệng thèm giết nó để ăn, tạo thành “oan oan tương báo” thời gian không thể không kết.

“Không tranh giành” thì chẳng thể sát sinh, lấy tâm bình đẳng mà đối đãi với chúng sinh thì chẳnh thể tranh giành; nếu khởi lên cái niệm ta mạnh hơn người, ta làm hơn người, ta lớn hơn người thì sát sinh cũng là nhân ở nơi tâm tranh chấp mà tác quái, một khi tranh chấp thì sẽ mày chết tao sống... chết và bị thương vô số.

KHÔNG TRỘM CẮP

Trong kinh Lăng Nghiêm, đức Phật dạy rằng: “A Nan! lại nữa thế giới, sáu đường chúng sinh, tâm không trộm cắp, thì không nuôi lớn sự tương tục sinh tử. Ông tu Tam Muội vốn ra khỏi trần lao, tâm trộm nếu không trừ thì trần lao không thể ra. Dù có đa trí và thiền định trong hiện tiền nếu như không dứt trộm cắp, thì quyết phải rơi vào tà đạo”.

Của không cho chẳng lấy, là nói chẳng chuyên chỉ trộm cắp tài vật của người khác, tức là ở nơi tâm hành sự có loại giống như trộm cắp ấy, cũng gọi là trộm cắp: như lời nói và việc làm dối trá khác là: Phỉnh dụ mê hoặc người không biết, mong lấy lợi dưỡng, tổn người lợi mình, cậy thế lấy tiền của, dùng kế mưu của v.v...

“Không tham” thì không thể trộm cắp, vì sao phải trộm cắp tiền của người khác? Tức là do vì tham. Nếu người không có tâm tham, thì kể ra người ta cho anh, anh cũng không cần, cho nên cần phải đem tâm tham mà trừ bỏ mới không thể trộm cắp.

KHÔNG TÀ DÂM

Đức Phật chế cho hàng đệ tử tại gia, nếu không phải là vợ chồng hợp pháp thì tuyệt đối nam nữ không thể hành dâm – chẳng dâm, là chẳng riêng chỉ hành dâm mà nói, lại còn bao quát niệm dâm khởi lên trong tâm, lời dâm ở nơi miệng nói. Vì dâm là cội rễ của vạn vật sinh tử. Người học Phật tu hành thì cần phải đoạn dứt dâm! dâm không đoạn thì Phật đạo không thành!

“Không cầu” thì chẳng thể có tâm dâm, tâm dâm dục tức là cầu cái sở hữu, nữ cầu người yêu nam, nam cầu người yêu nữ đều là cầu khác tính không chỉ riêng cầu lại còn “truy” cầu; Giả như không cầu thì dâm thế nào?

Trong kinh Lăng Nghiêm nói “dâm” là giới đầu; Người tu hành không thể đoạn trừ tâm dâm và việc làm dâm, thì không cách nào đoạn trừ cội rể sinh tử. Nhân đây không luận người ta tinh tấn tu hành như thế nào, tuyệt đối không cách nào ra khỏi ba cõi. Dẫu người này khéo nói pháp yếu, có biện tài, hiện tiền thiền định hữu lậu, anh ta vẫn là qua lại với ma quỷ, không những Tam muội chân thật (định) không thể hiện tiền, ngược lại lấy trí thiền nuôi giúp tâm dâm khiến dâm tăng trưởng lẫy lừng, rốt rồi khiến mình rơi vào ma đạo. Kinh nói rằng:

“Cho nên A Nan! nếu không đoạn dâm, tu hành thiền định, như đem cát đá muốn nấu thành cơm, trải trăm nghìn kiếp, chỉ là cát nóng. Bởi vì sao vậy? Chẳng phải gốc cơm, mà là cát đá thành vậy. Ông lấy thân dâm, cầu diệu quả Phật, dù cho được ngộ, đều là rễ dâm, cội rễ thành dâm luân hồi ba đường quyết chẳng ra khỏi: Như Lai niết bàn, đường nào tu chứng? Phải khiến thân tâm, cơ dâm đều dứt, tánh dứt cũng không, Bồ đề chư Phật có thể cầu mong. Lời ta nói đây, gọi là Phật nói, không như đây nói, tức Ba tuần (Ma vương) nói”.

Trên đây là đức Phật đối với người không như pháp, không như luật mang lấy dâm mà tu hành, vốn mong tu chơn, ngược lại thành ma nghiệp, sau khi mệnh chung, ắt phải rơi thứ nhứt ma đạo mà Ngài dạy răn phải sáng suốt xét nét thanh tịnh. Bốn chúng Phật tử muốn cầu thành tựu đạo nghiệp đối với lời dạy răn của đức Phật, lý phải tin thọ phụng hành, như vậy mà tu hành.

KHÔNG NÓI VỌNG

Lời nói rỗng vọng là nói mà không có tin, không xuất phát từ hư vọng vậy. Nếu thấy nói không thấy, không thấy nói thấy: lấy hư làm thật, lấy thật làm hư: lấy có làm không, lấy không làm có: Phàm là tâm và miệng không tương ứng nhau, muốn lừa dối với người, đều là như vậy cả.

Kinh Lăng Nghiêm, Đức Phật nói rằng:

“A Nan, như vậy thế giới sáu đường chúng sanh, tuy thân tâm không có báo của sát – đạo – dâm, ba hành nghiệp đã mãn, như nếu đại vọng ngữ, tức là “Tam ma đề” không được thanh tịnh, thành thọ kiến chấp ma, mất đi hạt giống Như Lai”.

Thế nào gọi là đại vọng ngữ? Là tự mình chưa được Bồ đề vọng nói tự mình đã được Bồ đề, mình chưa chứng niết bàn vọng nói đã chứng niết bàn. (chưa được nói là được, chưa chứng nói là chứng), giả Phật lộn xộn mê hoặc chúng sinh đời sau, hoặc giả được quả vị Bồ tát... đó là ma ba tuần, là tạo đại vọng ngữ.

“Không tư riêng” thì không thể dấy lên lời nói vọng. Mọi người nói vọng cũng nhân vì sợ mất đi lợi ích của chính mình, tâm riêng tư tác quái cho nên nói dối lừa người, muốn khiến người không nhận biết mình.

KHÔNG UỐNG RƯỢU

Các loại rượu một ngụm cũng không nên uống, uống một ngụm thì sẽ có ngụm thứ hai, rồi tiếp ba, bốn... khói cũng không nên hít, đồ độc cũng không nên ăn dùng.

Uống rượu là một phương thức giao tế của người hiện đại, nhân uống rượu mà sự việc lầm lạc so ra đều như thế, từ rất sớm hơn hai nghìn năm trăm năm trước trong kinh điển Phật cũng đã rõ ràng nêu chỉ chỗ xấu của uống rượu, ngày nay xem ra chỗ nói đó không phải hư rỗng. Uống rượu xong mà niệm Phật tụng kinh, ngang với không tụng không niệm, không thể không biết.

“Không tư lợi”, thì chẳng thể phạm giới rượu. Người ta vì sao phải uống rượu? Tức là muốn mê loạn thân tâm mình, làm cho nó mơ mơ màng màng, làm cho tự mình thành tiên, thành thần, tiêu diêu ở trên trời. Uống rượu say sẽ chửi người cho rằng là việc muốn làm, lại tăng trưởng dâm dục, lại muốn dùng rượu để giúp cho huyết khí lưu thông nhanh một chút, uống rồi quên đi tất cả, như hít vào rồi chẳng phải mạng khác mà một kiểu phiêu phiêu. Đây đều là tâm tự lợi tác quái, cho nên không uống rượu.

Đức Phật nói: “Ba nghiệp thân miệng ý làm ác, chỉ rượu là căn bản”. Uống rượu say loạn, tâm không chừng mực, dùng phung phí vô độ vậy. Đó là cửa của các bệnh, gốc của đấu tranh. Cho nên các loại rượu đều không nên uống.

Đức Phật nói: “Người uống rượu có sáu việc tổn thất: tài vật dể tổn thất, dễ sinh bệnh, ưa thích đấu tranh, chuốt bày tiếng xấu, dễ giận dữ táo bạo, càng lúc càng không có trí tuệ”.

Kinh Ưu Bà Tắc nói rằng: “Nếu lại có người ưa uống rượu, người đó hiện tại thường mất của, thân tâm nhiều bệnh, thường thích đấu tranh, tiếng xấu nghe xa, tản mất trí tuệ, bị xấu nhan sắc và sức lực, chỗ làm đáng trách tất cả, người ta không ưa gặp, không thể tu thiện, đó gọi là báo ác hiện đời của người uống rượu.”