Ngài Đàm Ma Da Xá (dịch là Pháp Minh) người nước Kế Tân, hiếu học từ thuở nhỏ. Năm mười bốn tuổi, theo tu học với ngài Phất Nhã Đa La. Lúc trưởng thành, khí khái cao vợi, thần huệ minh mẫn; xem qua kinh luật liền hiểu rõ thâm sâu hơn người; hun đúc tư tưởng, nhập cửa thiền, để tâm nơi bảy phần giác. Người đương thời thường gọi Ngài là Phù Đầu Bà Đà. Ngài thường đến khe núi rừng hoang, mà chẳng sợ hổ sói, để đơn độc quán xét tâm niệm vọng tưởng. Bấy giờ, mỗi lần ngồi dưới các gốc cây, Ngài luôn tự trách rằng đã ba mươi tuổi mà vẫn chưa chứng quả, thì sao lại giải đãi! Do đó, không ăn không ngủ, ngày đêm chuyên cần khắc khổ sám hối nghiệp tội. Đêm nọ, Ngài mơ thấy Bác Xoa Thiên Vương bảo:
- Sa môn thường phải có chí nguyện hoằng dương Phật pháp, rộng độ quần sinh. Sao Ngài lại chấp nê tiểu tiết, chỉ đơn độc tự tu tự độ. Các duyên nếu đầy đủ thì sẽ thành thục, chẳng nên ép tâm cần cầu, khiến không thể chứng quả.
Tỉnh dậy, Ngài bèn phát tâm đi khắp các lân quốc mà truyền đạo. Vào những năm đầu đời Tấn Long An (397 401), Ngài đến Quảng Châu, trú tại chùa Bạch Sa. Ngài thường tụng bộ luật Tỳ Bà Sa, khiến quần chúng Phật tử cảm kích mà gọi Ngài là Đại Tỳ Bà Sa. Bấy giờ, Ngài đã được tám mươi lăm tuổi, và có khoảng tám mươi lăm đồ chúng. Do các thiện tín như thanh tín nữ Trương Phổ Minh thỉnh cầu, Ngài thuyết về pháp duyên khởi. Lúc ấy, Ngài cũng dịch được một quyển kinh.
Trong niên hiệu Nghĩa Hi (405 418), Ngài đến Trường An, và gặp sa môn người Thiên Trúc là Đàm Ma Quật Đa cũng vừa đến đó. Bấy giờ vua Dao Hưng rất tôn sùng Phật pháp, nên thấy Ngài đến bèn ân cần hậu đãi cúng dường. Ngài lại cùng với Đàm Ma Quật Đa dịch bộ Xá Lợi Phất A Tỳ Đàm, từ năm 407 đến năm 414 thì hoàn tất, được hai mươi hai quyển. Thái tử Dao Hoằng đích thân duyệt xem. Thầy Đạo Tiêu viết lời tựa.
Sau này, Ngài xuôi vào miền nam, đến Giang Lăng, trú tại chùa Tân Tự, hoằng pháp thiền mạnh mẽ. Bấy giờ, có ba trăm sĩ thứ đến nghe Ngài giảng kinh pháp. Mới đầu họ không tin tưởng, nhưng vừa gặp mặt Ngài thì đều hân hoan cảm kích. Ngài thường bảo rằng một thầy một đệ tử, tu đạo đắc được quả A La Hán. Lần nọ, đang đóng cửa chùa để tọa thiền, Ngài chợt thấy năm sáu vị sa môn từ ngoài đi vào, rồi bay qua lại, tới dưới gốc cây mà tọa thiền. Ngài thường giao tiếp với các thần minh, tuy có dấu chân mà không thấy hình, nên người đương thời đều bảo rằng Ngài đã chứng quả thánh.
Đến đời Tống Nguyên Gia (424 453), Ngài từ biệt trở về Tây Vực, rồi không ai biết chung cuộc ra sao.
Ngài Đàm Ma Da Xá có đệ tử là Pháp Độ. Pháp Độ vốn là con của Trúc Bà Lặc. Trúc Bà Lặc thường qua Quảng Châu buôn bán. Trên đường đến Nam Khang, sinh hạ đứa con trai, nên Trúc Bà Lặc đặt tên là Nam Khang. Lớn lên đổi tên là Kim Già. Sau khi xuất gia được pháp danh là Pháp Độ. Pháp Độ tinh tường tiếng Phạn và tiếng Tàu, nên thường giúp ngài Đàm Ma Da Xá chuyển ngữ dịch kinh. Pháp Độ là đệ tử thừa thọ pháp với ngài Đàm Ma Da Xá đầu tiên nhất. Lúc ngài Đàm Ma Da Xá trở về Tây Vực, Pháp Độ chủ xướng chuyên học giáo lý Tiểu Thừa, mà không đọc tụng kinh điển Phương Đẳng; chỉ lễ Phật Thích Ca, chứ không lạy mười phương chư Phật; thường mang bình bát bằng đồng để dùng cơm chứ không dùng vật nào khác, rồi lại bắt ni chúng phải thường hành sám hối nghiệp tội. Đương thời, ni chúng ở Đông Độ và Giao Châu như Pháp Hoằng (con gái của quan Y Nhan Thuân ở Đơn Dương) và Phổ Minh (con gái của thứ sử Trương Mục ở Giao Châu), v.v... thường đến thọ pháp nơi Pháp Độ.