Home > Nhân Qủa Nghiệp Báo
Ðạo Tràng Của Bồ Tát
Hòa Thượng Thích Minh Châu


Ngày xưa ở một ngôi chùa lớn tại Trung Quốc, có một vị sư nổi tiếng là khùng. Thầy không bao giờ ở chùa, quanh năm mặc cái rách đi lang thang la cà khắp các trà đình tửu điếm, bạn với những kẻ côn đồ, nghiện ngập. Những kẻ này sau khi giao thiệp với Thầy, phần lớn đâm ra hiền lương và trở thành những hiệp sĩ ưa giúp đời. Chúng tụ tập tại các bến chợ, đỡ đần gánh nặng cho những người già yếu, sản phụ, trẻ con. Sau những giờ làm việc nghĩa chúng hội họp lại ôn những lời dạy bảo của vị sư khùng. Ðược biếu món gì ngon chúng để dành cúng dường vị thầy yêu mến vì lâu lâu chúng mới thấy được bóng dáng Thầy ngất ngưởng trở về đô thị một lần. Thầy đi đâu? Thì ra chỗ hóa duyên của Thầy là một làng đánh cá ở biển. Thầy thường ở trong làng ấy, thỉnh thoảng mới về chùa một ngày, vào các dịp giỗ lớn.

Chúng Tăng trong chùa rất bực bội về bề ngoài của Thầy khùng, thật là mất hết thể thống của một vị Tăng nhất là khi họ thấy Thầy không trường trai như quy luật ở chùa. Thầy không đòi ăn gì khác hơn đại chúng mỗi khi về chùa, nhưng buổi sáng Thầy về thì buổi chiều họ đã thấy “bổn đạo” của Thầy ở biển gánh tới chùa một gánh cá biển, tôm, cua, đủ thứ sơn hào hải vị để cúng dường. thầy quát mắng:

Tiên sư tụi bây, tao ăn gì hết mà gánh tới nhiều dữ vậy? Lần sau có muốn đem cho thì chỉ đem cho tao một con cá là đủ.

Một điều quái lạ, là mặc dù Thầy đối với họ có vẻ thô lỗ cộc cằn, mà những dân đánh cá xem ra rất kính trọng Thầy. Họ xoa tay cười nịnh:

Dạ để Thầy biếu bà con trong chùa… Chúng con nghĩ là chùa đông người.

Ý, tụi bây ngu. Các Thầy chùa không nạp thứ này, hiểu chưa? Chỉ có tao. Thôi, về đi.

Họ riu ríu kéo nhau về, hớn hở sau khi cúng dường Thầy vài con cá, và được gặp Thầy. Ðến giờ thọ trai, Thầy ngồi vào bàn chư Tăng, xách theo con cá biển mới luộc. Tăng chúng không chịu nổi mùi tanh, vác chén chạy, tránh ngồi gần Thầy. Thầy cười điềm nhiên gắp cá luộc, hề hề chấm nước tương ăn qua bữa.

Chỉ có vị Phương trượng hình như rất hiểu và thương Thầy, do đó Tăng chúng không dám bàn ra tán vào mặc dầu thái độ nghênh ngang của Thầy. Vì lâu lắm Thầy mới về chùa, nên Phương trượng cùng ngồi chung bàn với các đệ tử vào những dịp ấy. Ðó là một biểu lộ rõ rệt của lòng ưu ái nơi bậc Thầy khả kính. Có Thầy, Phương trượng vui hẳn lên. Hai Thầy trò đàm đạo rất tương đắc. Phương trượng dường như không quan tâm mảy may tới mùi tanh nồng nặc của con cá Thầy đang ăn, mặc dù chính Ngài đang dùng rau luộc.

Trong bữa ăn ấy, Thầy khùng lỡ đánh rấm kêu cái đùng. Thầy điềm nhiên bỏ đũa, ra trước đại chúng lạy ba lạy sám hối. Lạy xong, trở về chỗ cũ tiếp tục ăn. Vài người không nhịn cười được, vừa ăn vừa cười khúc khích. Thầy quắc mắt, mắng:

Tiên sư tụi bay, ta đã lạy sám hối, còn cười cái gì? Ngồi ăn trước mặt Thầy không được cười giỡn.

Bẵng đi một dạo khá lâu, Thầy không trở về chùa. Một buổi chiều nọ Tăng chúng thấy Thầy thất thiểu bước lên đồi, dẫn đến chùa, mặt mày nghiêm trang khác hẳn mọi khi. Chúng ra chào Thầy:

Hôm nay sao sư huynh nghiêm trang thế?

Này mai giỗ Tổ, về bái biệt Thầy đây.

Sư huynh đi đâu.

Về chầu Tổ.

Ðại chúng cười rộ, không tin lời Thầy. Nhưng đến giờ ngọ hôm sau tắm rửa xong Thầy vào nhà thiền lạy Phương trượng ba lạy từ biệt và bảo đại chúng:

Hãy lên chuông trống bát nhã đi. Tây phương Tam Thánh sắp đến rước ta rồi.

Ðại chúng chưa tin hẳn, nhưng nhìn ra thì cả làng đánh cá ùn ùn kéo lên chùa tiễn đưa Sư phụ của họ về Tây phương. Một mùi hương lạ xông khắp, và trên hư không, mọi người đều trông thấy ba luồng ánh sáng chói lòa của Tây phương Tam Thánh (Di Ðà, Quán Âm, Thế Chí) đến rước người con yêu dấu của các Ngài khi vị này đã mãn duyên hóa độ.

Ba hồi chuông trống vang rền trong khi Sư khùng điềm nhiên tọa tịch trong tư thế kiết già. Ðại chúng rơi lệ sụp lạy sám hối trước con người mà họ thường báng bổ vì không thể hiểu thấu hành tung của Ngài. Sau khi Ngài thị tịch, đại chúng hỏi Phương trượng:

Bạch Thầy, thì ra sư huynh chúng con tu mật hạnh khó nghĩ bàn. Nhưng tại sao người phải làm như vậy, sao không sống bình thường như những vị khác.

Ðể hóa độ những dân dao búa, đệ tử ta phải làm như vậy. Nhờ ông ấy mà cả làng đánh cá mới quy y theo Phật, đa số bỏ hẳn nghề ác. Cho nên xét người, các ông chớ nên chỉ xét bề ngoài. Ðức Phật đã dạy: “Nếu thấy tướng mà không chấp tướng mới thấy được Phật”, các ông phải nhớ lấy điều ấy.

Thích Nữ Trí Hải

“Hoa nở hoa tàn việc thế gian

Ðường tu tự tại cảnh thanh nhàn

Việc gì cần đến thì ta đến

Như vậy trần gian tức Niết bàn”.