1. Triều nhà Lương, Phật tử Lưu Tề là một người rất có chí hướng. Tuy sống trong gia đình nghèo thiếu nhưng Ông là người con chí hiếu, học hành siêng năng không chịu lùi bước. Ông cùng với em trai ngày đêm chịu khó đèn sách, dùi mài kinh sử, rộng thông tất cả các sách. Vào niên hiệu Thiên Giám nhà Lương, Ông ra làm quan trông coi hai ấp lớn. Vốn là người có tâm tính nhân từ, thương dân như con nên Ông nổi tiếng là vị quan nhân đức vào thời ấy. Lúc Ông năm mươi tuổi thì Mẹ Ông là Minh Thị bị một cơn bệnh nặng, ngày Ông lo việc quan, tối đến lại lo cơm cháo thuốc thang cho Mẹ, đến nổi không còn lúc nào rảnh để vá lại chiếc áo mình mặc. Trải qua thời gian bảy tuần lễ, Ông phát nguyện tụng Kinh Phổ Môn vạn biến, cầu nguyện cho Mẹ qua hết bệnh trạng và được tăng thêm tuổi thọ. Một đêm nọ, Ông nằm mộng thấy một vị Tăng đến bảo rằng: “Mẫu thân của Ngài đã tận số nhưng do tâm chí thành khẩn thiết của Ngài nên sẽ sống thêm được sáu mươi ngày nữa mới tạ thế.” Đúng như lời Tăng nhân mách bảo, mẫu thân Ông sống lại thêm hai tháng thì tạ thế. Ông bèn từ quan, xây một cái chòi tranh bên mộ của Mẹ, ngày đêm chuyên tâm niệm Phật, nguyện cầu cho Mẹ được siêu sanh Lạc quốc, ngày ngày đều có một cặp bạch hạc quấn quít bên chòi tranh của Ông. (Trích Lương Thư).
2. Triều nhà Minh, Bành hiếu Từ Hữu Nguyên tự Tín Vũ là người ở Ích Dương tỉnh Hồ Quảng. Ông phát tâm tín kính Tam Bảo từ lúc thơ ấu, hàng ngày thường trì tụng Kinh Phổ Môn và Chú Đại bi để cầu nguyện cho song thân được tăng tuổi thọ. Một ngày nọ, phụ thân Ông bị trọng bịnh, Hữu Nguyên bèn cắt thịt cánh tay để làm thuốc điều trị cho phụ thân lành bệnh, nhờ đó phụ thân Ông sống thêm được mười năm năm nữa. Sau khi cha chết, Ông thờ Mẹ chí hiếu. Sống trong cảnh gia đình túng thiếu nhưng Ông luôn cố gắng làm thuê làm mướn, kiếm tiền để mua món ngon vật lạ dâng lên cho mẹ hàng ngày. Đến niên hiệu Sùng Trinh, mùa Thu năm Bính Tý, mẫu thân Ông lâm trọng bệnh, bệnh liệt giường không ngồi dậy nổi, lại bị lở loét ung nhọt ăn lủng bàn tay, đau nhức rên la thảm thiết. Hữu Nguyên nhìn thấy cảnh tình này nên trong lòng buồn rầu không xiết. Một đêm, Ông nằm mộng thấy Quán Âm Đại Sĩ mách bảo: “Thọ số của mẫu thân người sắp hết, chứng bệnh đang phải thọ khổ đó không có phương thuốc nào trị lành, ngoại trừ phải ăn gan người thì bệnh mới mong qua khỏi.” Sáng hôm sau Ông đến thăm Mẹ thì Bà bảo muốn ăn món gan dê. Hữu Nguyên bèn thưa: “Thưa Mẹ, đây là sự việc Bồ tát có dạy con trong giấc mộng đêm qua, xin Mẹ cứ yên tâm, để con đi tìm món ăn này dâng lên cho Mẹ”. Ông nói xong thì từ giã Mẹ ra khỏi phòng rồi đi đến trước bảo tọa Quán Âm, chí thành lễ bái rồi bạch rằng: “Nam mô Quán Thế Âm Bồ Tát, Bồ Tát đã thùy từ chỉ dạy cho con, cầu xin Bồ tát chứng minh gia hộ cho con, con nguyện tự mổ gan mình để cứu cho Mẹ con khỏi bệnh.” Đêm ấy, Ông nằm mộng thấy Quán Âm Bồ tát cùng với các Thánh hiền ngự trước mắt mình, lại thấy có vô số chúng cầm tràng phan, bảo cái theo hầu. Ông giật mình tỉnh giấc thì toàn thân toát mồ hôi như nước, bèn đi tắm rửa sạch sẽ rồi vào trước Phật đài đảnh lễ, sau đó trở về nơi nghĩ, rồi dùng dao tự rạch bụng chổ có là gan. Vì quá đau đớn nên Ông ngất đi một hồi lâu. Khi tỉnh lại, Ông gọi vợ bảo: “Bà hãy đem lá gan này chưng cho thật kỹ rồi dâng cho mẫu thân.” Người vợ vâng lời, đem dâng món gan cho Mẹ chồng mình ăn. Bà Mẹ không biết tưởng là gan dê nên vui vẻ dùng món ăn thì quả nhiên lành bệnh. Sự việc này sau đó được đồn khắp nơi, nên xa gần người người đều cảm động rơi lệ tán thán, nhiều người đến thăm Ông nhìn thấy vết thương quá lớn đều nghẹn ngào, họ đến trước bảo tọa của Đại Sĩ cầu đảo cho Ông. Tuy bị trọng thương nhưng tinh thần của Hữu Nguyên vẫn an ổn như thường. Đêm ấy, Ông lại mộng thấy Đại Sĩ hiện thân và bảo rằng: “Lá gan và vết thương của hiếu tử con muốn mau lành không khó, nhưng vì đây là thời mạt pháp, thế gian kẻ nhân hiếu hiếm có nên Ta muốn để vết thương này sẽ tự lành trong một trăm ngày, để cho tất cả thế nhân đến xem mà phát khởi tâm hiếu đạo phần nào. Qua thời gian một trăm ngày, vết thương con sẽ tự bình phục lại bình thường như trước đây.” Sự tích trên đây là do Tiến sĩ Vương Văn Nam tự ghi lại rồi mướn người chép ra và in ấn thành bản rất nhiều, phát cho dân chúng để mong mọi người học theo hạnh hiếu đạo của Hữu Nguyên. (Trích Quán Thế Âm Trì nghiệm ký).
3. Triều nhà Minh, có Phật tử tên Ngô Chương ở huyện Ngô Giang, tỉnh Giang Tô, lúc mới lên mười một tuổi thì phụ thân đã tạ thế. Ông sống với người mẹ trẻ là Lục Thị. Ngày ngày cắp sách đến trường và chuyên tâm lo học hành vì mọi việc đã có mẹ lo. Nhờ gia đình Ông cũng khá giả nên cuộc sống cũng không có gì khó khăn. Nhưng thế sự vô thường. Vào niên hiệu Vĩnh Lạc, năm Quí Mão, triều đình ban sắc lệnh tuyển dụng tất cả sương phụ đưa vào triều nội, nên Ngô Chương đã mất cha, giờ đây lại mất thêm Mẹ. Đến niên hiệu Tuyên Đức nhà Minh năm Bính Mùi, Lục Thị vì không thể trái lệnh của triều đình nên theo họ Vương về nhậm chức tại tỉnh Quảng Đông. Ngô Chương nghe tin thì quyết đi tìm Mẹ cho kỳ được. Ông thuê một chiếc thuyền lớn để đi đến xứ Quảng. Trên đường đi, Ông lập bàn thờ cúng dường Quán Âm Đại Sĩ, ngày đêm lễ bái xưng niệm cầu đảo, mong Bồ tát từ bi gia hộ cho chí nguyện được thành tựu. Không may là lúc trên ghe, Ông mắc phải chứng bệnh kiết lỵ rất nặng. Trong cơn mê, Ông vẫn mặc niệm Thánh hiệu Quán Âm, có khi gọi Mẹ không dứt. Trên thuyền có vị Tăng là Uẩn Không, thấy Ông bệnh nên hết lòng điều trị, Ông nhờ đó mà được lành bệnh. Khi thuyền đến nơi, Ông tìm đường đến dinh của quan tỉnh mà hỏi thăm thì được biết họ Vương đã đổi đến Nhiêu Châu làm tri phủ. Đường đi đến Nhiêu Châu lại vô cùng gian nan vì không có phương tiện nào đến đó. Ngô Chương lại tự mình trèo núi, băng sông, khi đi bộ qua một bãi sa mạc thì hai chân Ông bị phỏng nứt hết không thể đi tiếp được, Ông tìm được một ngôi chùa trong một làng nọ để xin nghỉ trọ nơi hành lang và may mắn được một Tiên đạo nhân cho thuốc xức lành. Ngô Chương lại tiếp tục lên đường, lúc băng qua một ngọn núi thì lại bị rắn độc cắn, đôi chân thấm nọc độc nên phải nằm lại trong đường núi, may thay được vị Tiên nhân trước đây tìm thấy và cứu chữa, Ông lại tiếp tục đi xuống núi thì gặp được một ngôi làng lúc trời tối. Ông ghé vào một ngôi nhà tranh xin tá túc. Khi vừa nằm xuống nghỉ, thì bỗng đâu bọn người đến cướp nên Ông chống cự, lao ra khỏi nhà, gặp tiết trời Đông lạnh giá, tuyết rơi dày khắp nơi nên Ông phải lết trên tuyết. Được một đoạn, nhìn thấy một ngôi miếu cũ nên Ông ghé vào tá túc. Đêm đó Ông lại mộng thấy vị đạo nhân trước kia đến bên an ủi: “Con vì tìm Mẹ mà quên thân mình, thật là một người gan đồng dạ sắt. Trời sẽ không phụ tấm lòng chí hiếu và những gian khổ của con. Ta chắc chắn con sẽ sớm được gặp lại Mẹ.” Dứt lời, vị đạo nhân lấy trong túi ra chiếc bánh cho Ông ăn đỡ đói lòng. Khi trời gần sáng, Ngô Chương lại vội vã lên đường. Đi đến khi quá ngọ thì mới hỏi được đường đến phủ họ Vương, biết Mẹ Ông hiện có ở trong phủ này nên ngày ngày Ông đến khẩn cầu, lạy lục xin cho Mẹ được về nhà để mình trọn đời phụng dưỡng nhưng Quan phủ không đồng ý. Không biết phải làm sao nên Ngô Chương bèn thuê một gian phố phía Đông của Phủ quan, chính giữa nhà viết hai chữ lớn “Tử Thân” bên cạnh là hai câu đối: “Vạn Lý tâm thân lịch, bách gian nan vô hối. Nhứt triệu kiến mẫu, thệ cửu tử dĩ hà tử” nghĩa là “Muôn dặm tìm Mẹ, chịu dữ gian nan nào có hối. Sớm mai thấy Mẹ, chín lần bị giết cũng không từ.” Vương Công nghe được câu chuyện, cảm động ngợi khen nên ưng thuận lời yêu cầu của Ngô Chương. Từ đó, hai mẹ con được gặp nhau và Ngô Chương được suốt đời phụng dưỡng Mẹ như ước nguyện. Dân chúng ai nghe chuyện của Ngô Chương cũng đều khen ngợi tấm lòng chí hiếu của Ông đã cảm đến lòng từ bi của Quán Âm Bồ tát nên Ngài đã nhiều lần hiện thân để gia hộ cho Ông. (Trích Tiên Tân Lục).
4. Triều nhà Minh, Châu Đức Trinh, người Lư Giang là con gái thứ ba của Quan Tể Tướng Đại thần. Từ thuở bé, nàng đã được sự dạy dỗ của gia đình nên là một người con chí hiếu và giữ gìn đức hạnh trinh tiết không ai bì được. Lúc được tám tuổi, cha mẹ hai bên gia đình hứa hôn, gả nàng cho con của Nghi Vệ Đại Thần Vương Đình Khanh là Trọng trường, mặc áo vải thô, mượn thợ vẽ Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ để thờ, mai chiều hương khói lễ bái tụng kinh niệm Phật, cầu nguyện cho chồng. Lúc đến tuổi cập kê, có một công tử trong vùng đến cầu hôn nhưng Đức Trinh đến trước song thân chấp tay thưa rằng: “Con gái cha mẹ đã là vợ của họ Vương, từ ngày được tin Trọng Hiền thệ thế, con đã thề sẽ không tái giá.” Cha mẹ Cô vừa nghe xong, nổi giận đánh mắng Cô thậm tệ, nhưng Đức Trinh vẫn cương quyết không thay đổi, Cô lại phát thệ rằng: “Con không thể kết hôn với người sống mà lổi đạo với người chết, nếu cha mẹ cho là trái lệnh phụ mẫu, ra lệnh giết chết thì con cũng cam lòng chịu chết.” Phát thệ xong thì Cô tuyệt thực nhiều ngày liền, cha mẹ Cô thấy vậy sợ Cô chết nên không bàn đến việc hôn nhân nữa. Niên hiệu Thiên Khải, nhà Minh, vào mùa thu năm Tân Dậu, đến ngày mãn tang Trọng Kiên, Đức Trinh đến lễ bái song thân rồi vào Tổ miếu dâng hương lễ bái ông bà tổ tiên, đến ngày 29 tháng 8, Cô về nhà họ Vương, mặc áo vải thô, tay cầm gậy làm lễ mãn tang cầu siêu cho chồng. Sau lễ cầu siêu, Cô đến chùa xin Thầy truyền trao Tam quy ngũ giới, rồi về nhà dọn dẹp thành ngôi Tịnh thất trang nghiêm thờ Tây phương Tam Thánh. Mỗi ngày hai thời, thời khóa sáng thì tụng kinh Phổ Môn và Chú Đại Bi, niệm Phật còn thời khóa chiều thì tụng Kinh Di Đà, chú Vãng Sanh, niệm Phật, … Đức Trinh xưa kia nổi tiếng là nữ sĩ giỏi về thi văn nhưng bây giờ thệ bỏ hẳn. Mỗi năm, đến ngày giỗ của Trọng Hiền, Cô lại lo chuyện cúng tế rất chu đáo, từ trái cây phẩm vật cúng dường Tam bảo, đến tụng kinh niệm Phật từ sáng đến tối, nhất nhất nghi tắc không sai. Cha mẹ chồng thấy nàng dâu như vậy thì vô cùng cảm động nên đều nguyện trường chay niệm Phật. Sự ăn uống hàng ngày của cha mẹ chồng đều do tự tay Cô nấu nướng đem dâng. Lúc hai ông bà bị trọng bệnh, Cô đến săn sóc, vấn an rất kính cẩn và chu đáo. Năm Giáp Tý, phụ thân của Đức Trinh lâm trọng bệnh, Cô nguyện cắt bắp thịt ở chân để làm thuốc cho cha uống. Đêm ấy, phụ thân của Cô nằm mộng thấy Đại Sĩ đến dạy rằng: “Ngươi nhờ có đứa con gái chí hiếu nên bệnh sẽ được lành hẳn và còn sống lâu nữa.” Thời ấy, người ở Hương Giang từ quan đến dân, ai ai cũng ngợi khen tấm lòng chí hiếu và đức tiết trinh của Đức Trinh. (Trích Quán Thế Âm Trì nghiệm ký).
5. Triều nhà Thanh, có một người đàn ông họ Huỳnh là người ở xứ Sở Bắc, ưa thích tu tập thiện pháp, lại là người con chí hiếu. Ông sống trong cảnh nhà thanh bần, làm nghề giáo, dạy trẻ con trong làng. Tuy đã đến tuổi lục tuần nhưng bên cạnh chỉ có đứa con gái nhỏ mười bốn tuổi. Đứa bé gái này rất hiền từ lại có trí huệ vì từ lúc nhỏ đã được theo Cha đọc sách Thánh hiền. Cô từng mua chỉ tơ về thêu bức tranh Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát để thờ cúng. Hàng ngày, Cô lễ bái xưng niệm rất chí thành. Một đêm nọ, Cô nằm mơ thấy Đại Sĩ dạy rằng: “Tự Cô! (tên gọi của đứa con gái duy nhất nối dõi tông đường trong nhà) Cha của con là người hiền đức, chí hiếu nên Ta không nở để cho tuyệt tự. Vậy nay Ta muốn đem thân con biến thành một nam tử.” Dứt lời thì Bồ Tát đưa cho Cô một bình thuốc hồng và bảo Cô uống. Sau khi uống xong, Cô cảm nhận có một luồng nhiệt khí từ ngực chạy xuống đến bụng, rồi bắt đầu hôn mê và ngủ suốt bảy ngày. Khi thức dậy, Cô thấy khỏe khoắn nhưng chỉ có điều lạ là thân nữ giờ đã biến thành nam nhi. Cô vừa thẹn thùng, vừa cảm động vui mừng vì biết việc này là do thần lực bất khả tư nghì của Bồ tát muốn cho cha mình có người nối dõi. Vì vậy, tín tâm của Cô với Tam bảo càng sâu nặng, tu hành càng dõng mãnh tha thiết hơn. (Trích Vạn Ngọc Sơn Phòng Bút Ký).
6. Triều nhà Thanh, Mẫn Trinh tự là Chánh Trai, người ở Quảng Tế, tỉnh Hồ Bắc là người hiền lương và chí hiếu, cha mẹ đều đã tạ thế từ lúc còn nhỏ. Khi lớn lên, vào một dịp cuối năm đến ngày trừ tịch, mọi người đua nhau dọn dẹp nhà cửa, sửa sang bàn thờ, đem hình tượng của ông bà, cha mẹ lên bàn thờ để cúng tế. Chánh Trai nhìn thấy nên sụt sùi giọt lệ, lòng đau đớn vì không được nhìn thấy di dung của cha mẹ. Nhiều người thấy thế cũng cảm động thương tâm, có người bảo rằng: “Các nhà vẽ chân dung có pháp tri dụng, vậy ông nên tìm những người còn sống, mặt mũi, thân thể ốm gầy, cao thấp tương tự với song thân mình trong lúc sanh tiền, có thể lấy những người ấy làm mẫu để vẽ chân dung thì chắc cũng có thể phảng phất được”. Nhưng các nhà vẽ chân dung trong nước không có ai có diệu xảo, vì vậy Chánh Trai quyết lòng đi học họa miêu thần nhiếp sắc. Nhờ gắng công học hỏi, chỉ trong một năm thì Ông nắm được diệu xảo trường khang. Sau khi học nghề thành công, Ông liền mai chiều đối trước Quán Âm Đại Sĩ, chí thành lễ bái cầu đảo, mong sao gặp được hai người tương tự như cha mẹ mình. Trong ý nghĩ của Chánh Trai cho rằng người trong trời đất này không lẽ không có một đến hai người tương tự với cha mẹ mình. Ông cầu xin Bồ tát từ bi dùng thần lực mách hộ, xui khiến cho người ấy đến trước mặt mình để làm người mẫu cho mình họa hình tượng cha mẹ. Dân chúng trong làng nghe nói, ai nấy đều cười chê cho là điều ngu ngốc, thậm chí có người còn tìm cách gạt Ông bảo rằng: “Chánh Trai ơi! Vừa rồi Tôi thấy có hai ông bà xách giỏ chống gậy, giống hệt với hình dáng của Ông bà song thân Anh lúc sanh tiền. Tôi có hỏi thăm thì nghe hai Ông bà ấy nói vì có duyên sự phải đến Kinh Như, mà lộ trình từ đây đến đó không xa lắm, Anh có thể theo kịp để rước về nhà làm mẫu mà họa hình song thân.” Chánh Trai vui mừng, tin rằng đó là sự thật nên bỏ mọi duyên sự, sắm sửa hành trang cất bước lên đường. Một ngày đêm đi hơn hai trăm dặm mới đến Kinh Như, hai chân bị sưng phồng lên không đi được nữa thì bỗng nhiên gặp được hai ông bà già giống hệt song thân mình. Ông cúi đầu chào và năn nỉ rước hai ông bà về nhà, hai ông bà lão vui vẻ ưng thuận. Về đến nhà, Ông lo cơm nước cho hai ông bà lão dùng, xong rồi ngơi nghỉ. Lúc bấy giờ, Chánh Trai mới đem việc mình cầu xin Bồ Tát giúp và đến giờ phút này Bồ Tát thương xót, minh gia cho mình được toại nguyện, kể cho ông bà nghe. Hai ông bà bèn đồng ý lưu trú lại đó một thời gian ngắn. Sau khi Chánh Trai họa xong chân dung, thì hai ông bà nói trên bổng nhiên biến mất. Tất cả bô lão trong vùng trông thấy hình vẽ đều ngợi khen là giống hệt cha mẹ của Chánh Trai. Trong xóm làng, già trẻ lớn bé đều muôn miệng đồng lời, xưng tán ngợi khen và cho rằng do tâm chí hiếu của Chánh Trai mà cảm đến đức từ của Bồ tát minh gia nên được sự linh dị như thế. (Trích Mộng Hán Tập Trước).
7. Triều nhà Thanh có người thiếu phụ ở xứ Quảng, tỉnh Hồ Bắc, người chồng vì tìm kế sanh nhai phải đi xa xứ. Lúc ấy trong gia đình chỉ còn có hai người là mẹ chồng và nàng dâu. Gia đình đã nghèo thiếu giờ càng bất hạnh hơn vì bà mẹ chồng mắc phải chứng bệnh nghẹn, chẳng những cơm ăn không được mà hớp nước cũng không vô, chạy chữa thuốc thang đều không hiệu quả. Lưu Thị thấy thế hết sức buồn đau vì thuốc đã vô hiệu thì không biết lấy phương cách gì mà chạy chữa. Lúc ấy, Lưu Thị nghe người chỉ bảo, bèn tự nguyện cắt thịt bắp đùi, hầm cháo dâng cho Mẹ chồng dùng, Bà ăn cháo ấy xong thì bệnh liền lành, nhưng một tuần sau bệnh lại tái phát. Lưu Thị lại tiếp tục cắt thịt bắp đùi mình làm thuốc dâng cho Mẹ. Bà dùng thuốc này xong thì bệnh lành tức khắc nhưng sau một tuần thì vẫn tái phát như cũ. Lưu Thị không còn biết phương cách gì nữa nên đến quỳ trước Quán Âm Bồ tát cầu nguyện, xin đem thân mình thay thế cho mẹ chồng, nhờ Bồ tát từ bi gia hộ, chỉ cho phương cách cứu Mẹ. Bấy giờ, trong hàng y sĩ có một người bảo rằng: “Bệnh này không thể dùng thuốc mà trị được. Nếu có được miếng gan tươi của người sống thì mới có thể trừ tiệt bệnh căn.” Lưu thị hớn hở tin theo, lập tức lén dùng dao bén mổ dưới hông mình, lá gan lòi ra ngoài chừng vài tấc thì lập tức cắt đi. Nhưng vì qua đau đớn nên Lưu Thị té nhào xuống đất ngất đi. Trong lúc bất tỉnh, nàng mơ màng thấy Quán Âm Đại Sĩ vuốt ve trên thân thể nàng mà nói rằng: “Khổ lắm phải không con?” Dứt lời, Ngài dùng hoàng thuốc phết lên chổ bị thương. Lưu Thị liền tỉnh lại, đem miếng gan đi chưng cách thủy và dâng cho mẹ chồng ăn. Sau khi Bà ăn món thuốc này thì bệnh lành hẳn, không còn tái phát nữa. Sau khi bệnh đã khỏi thì thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn. Mẹ con chung sống trong gia đình rất vui vẻ nhưng Bà để ý thấy có điều lạ là Lưu Thị khi làm việc cũng như đi đứng, thường đem bàn tay đỡ nơi hông. Bà gạn hỏi nhiều lần nhưng Lưu Thị vẫn không chịu đáp. Một hôm nọ, Bà tự động đến dở vạt áo Lưu Thị lên xem thì thấy có một vết mổ rất lớn. Bà kinh hoàng hỏi duyên cớ, Lưu Thị biết không thể dấu diếm nên thưa rõ tự sự đầu đuôi. Bà nghe xong cảm động kêu lớn: “Dâu hiền vì Ta mà đến nông nổi này sao con ơi, lòng Mẹ sao nỡ nhận việc làm ấy của con”. Sau đó Bà đem chuyện con dâu mình đã làm kể cho khắp mọi người gần xa biết. Người người đua nhau đến xem, không chổ chen chân nhưng Lưu Thị vẫn nhốt mình trong phòng kín, không chịu ra cho mọi người thấy mặt. Vì thế, mọi người thất vọng giải tán ra về. Người trưởng tộc đem việc này trình cho quan huyện Lý Quân biết nên Ông liền cho người mời Lưu Thị đến để nghiệm xét sự thật nhưng Lưu Thị từ khước và nói với Sứ giả của quan huyện rằng: “Kẻ hèn này nhìn nhận đã vì mẹ chồng bệnh nặng, không tiếc kiếp sống thừa của mình để làm việc ấy, nhưng không mong được biểu dương. Xin Ngài về bẩm lại với quan trên không cần phải kiểm nghiệm thực giả để làm gì.” Sứ giả trở về tâu lại, quan huyện vô cùng cảm động nên sanh tâm cung kính. Việc này sau đó được lan truyền đến tai của một vị đại quan, lập tức Ông sai người mang kiệu, cờ xí đến đón Mẹ chồng nàng dâu về tư dinh, nguyện cung cấp bảo hộ suốt đời. Từ ấy, mẹ chồng nàng dâu có nơi ăn chốn ở rất êm ấm, không phải lo đến chuyện sinh kế hàng ngày nữa. Một ngày khi nghĩ lại, Cô cảm động đến đức từ bi của Bồ tát đã gia hộ nên phát nguyện chuyên tâm vào việc tu niệm, cả hai mẹ con thực hành bái Sám, niệm Phật, tụng Kinh rất tinh tấn. Gương sáng ấy đã ảnh hưởng đến cả gia đình của vị đại quan nên cả gia đình đều phát tâm kính tín Phật Pháp, lễ Phật, tụng Kinh, trì chú như mẹ con Lưu Thị. Việc này xảy ra vào niên hiệu Càn Long, triều nhà Thanh, tháng sáu năm Kỷ Hợi. (Trích Di Đà Khả Tín Lục).
8. Tôn Phục Nho là người ở Vũ Tấn, tỉnh Giang Tô. Vợ Ông là Kim Thị, tánh tình hiền hòa lại là người chí hiếu. Thấy cha chồng là người thích thực hành những thiện sự, đặc biệt là bố thí nên gia đình từ giàu có dần dần trở thành túng thiếu, nên Kim Thị phát mãi ruộng vườn, bán hết nữ trang để chu cấp phí tổn sinh hoạt trong nhà. Năm hai mươi bốn tuổi, chồng chết, nàng nguyện thủ tiết không tái giá. Bấy giờ, cha chồng sau mươi lăm tuổi bị bệnh nặng, một tay Kim Thị lo lắng cơm cháo, thuốc men. Trải qua sau mươi ngày đêm không hề nhắm mắt mà bệnh tình của cha chồng không hề thuyên giảm, Kim Thị không còn phương cứu chữa nên đến trước Thánh tượng của Quán Âm Bồ Tát chí thành lễ bái cầu đảo, nguyện cầu xin Bồ tát gia hộ. Nàng tự cắt thịt bắp đùi của mình để làm thuốc trị bệnh cho cha chồng. Lúc ấy cha chồng đang thèm ăn bánh bột gạo nên khi biết được việc ấy, Kim Thị bèn lấy thịt của mình xay chung với gạo để làm bánh bột gạo dâng cha. Cha chồng nàng ăn năm cái liền thì đêm ấy ngủ rất ngon giấc. Khi vừa thức giấc, Ông gọi Kim Thị lại và nói rằng: “Con ơi, chắc Cha không chết đâu vì Ta thấy trong người khỏe rồi.” Kim Thị cúi đầu chào cha chồng rồi bước ra, Ông ngủ trở lại và mộng thấy Bạch Y Đại Sĩ đến bảo rằng: “Dương số của ngươi đã hết nhưng do lòng chí thành của con dâu ngươi đã cảm đến Thiên đình nên tăng tuổi thọ cho ngươi thêm một kỷ nữa.”Quả nhiên, chỉ trong thời gian ngắn, bệnh của Ông lành hẳn và sống đến 77 tuổi, như lời Bồ tát đã dạy trong mộng là sống thêm được một kỷ nữa. (Trích Tự cầu Tập).
9. Triều nhà Minh, Công Tứ Tước tự Kinh Lược là người ở Thái Khương, tỉnh Giang Tô. Dù sống trong địa vị hiển vinh nhưng là người không háo sắc, hiền hòa, thích thực hành thiện sự, tất cả phạm vũ khắp nơi đều quyên góp tiền. Lúc tuổi về già, Ông mướn họa sĩ dùng nước kim ngân họa Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ, rồi tự tay viết bài để cho mọi người lễ bái xưng tụng (số lượng bài viết ấy không ghi lại là bao nhiêu). Con trai của Công Tứ Tước là Khâm Tiên Sinh, tên Hoạnh, thi đậu bảng nhãn. Cháu nội là Thời Mạnh, hiệu là Yên Khắc, là một Phật tử rất sùng kính Phật giáo. Yên Khắc là một đại quan trong triều, mỗi khi gặp nhằm năm mất mùa, dân chúng đói khát, Yên Khắc thường mở kho chẩn tế, lại tự mình xuất tiền mua gạo nấu cháo, giúp đỡ cho những người đói ăn. Bên cạnh đó, Yên Khắc còn thỉnh Văn Cốc Đại sư đến tư dinh, tuyên dương Phật pháp cho dân chúng để làm món ăn tinh thần. Lục Tiến Sĩ Doãn Thăng, một hôm nằm mộng thấy mình đi đến một ngôi đại già lam, lúc ấy có sáu người gánh đậu đến bán, trong đó có đậu nành lẩn với đậu tầm. Vị Lão tăng đứng bên cạnh nói: “Sáu gánh đậu này đều là quả lành của Yên Khắc chứa nhóm tu tập, đại thiện thì ghi bằng một hạt đậu tầm, tiểu thiện thì ghi bằng hạt đậu nành, tất cả chứa được thành sáu gánh.” Yên Khắc sanh được chín đứa con trai – đứa thứ tư tên Quỉ, còn đứa thứ tám tên Viên, con cháu đều đậu Tiến Sĩ. Gia tộc Ông đều là những người hiền hậu nhân đức, nên đời đời được hiển vinh. Tuy sống trong gia đình vọng tộc cao sang, giàu có sung sướng nhưng họ vẫn noi theo gương Ông cha, sùng tín Tam bảo, tu tập thiện sự, ăn chay niệm Phật. (Trích Hiếu Quả Tùy Lục).
10. Triều nhà Minh, Lâm Ong là người ở Phủ Hồ Châu, tỉnh Quảng Đông. Ông làm chức Điếu lại ở Hình Bộ. Công việc của Ông là xét xử những người có tội, nhưng tâm lại rất từ bi, thương xót những người bị hàm oan, bị nghi ngờ mà phải tống vào ngục. Một lần, Ông biết có người tử tội bị oan, nên tìm đủ phương cách rửa oan cho người ấy. Tình thế cấp bách Ông chẳng biết phải làm như thế nào nên đến trước Thánh tượng Quán Âm Đại Sĩ, ngày đêm lễ bái cầu đảo, mong Đại Sĩ chỉ dạy cho phương pháp cứu người hàm oan. Đêm nọ, Ông mộng thấy Đại Sĩ dạy rằng: “Lời nghị của Án viên ấy thật đáng nghi, vị Hình quan ấy thẩm xét tình tiết vụ án không xác thực, cứ theo đây mà luận biện thì có thể thấy tội nhân này thật sự không có tội”. Khi trời sáng, Ông đã thay thế người hàm oan ấy viết thư tỏ bày với Quan trên thì quả nhiên, nhờ lòng Từ bi của Bồ tát gia hộ nên kẻ ấy được quan trên khoan dung phóng thích. Người ấy vô cùng cảm động thâm ân cứu mạng của Lâm Ong. Khi biết họ Lâm chưa có người kế tự thìxin đem con gái mình cho làm thiếp để tạ ơn nhưng Lâm Ong quyết liệt từ chối không chấp nhận. Người ấy không biết làm thế nào nên tìm cách tổ chức yến tiệc, phục rượu cho Lâm Ong say rồi mời vào phòng kín ngơi nghỉ, đoạn bắt con gái mình vào phòng ngủ chung. Lâm Ong no say ngủ không biết gì. Lúc tỉnh giấc thấy có một tiểu thư bên cạnh mình thì nghiêm sắc mặt quở rằng: “Không được!”. Tiểu thư bèn thưa: “Con vâng lệnh của song thân bắt buộc.” Ông nói tiếp: “Không được. Không được”. Dứt lời, mạnh dạn bước ra khỏi nhà, từ ấy về sau không bao giờ đi ngang qua cửa nhà người ấy. Khi đến tuổi ngũ tuần thì vợ Ông sanh được một nam tử. Ông đặt tên con là Đại Không. Đứa trẻ này lớn lên học hành rất tấn phát. Vào niên hiệu Gia Tĩnh, nhà Minh năm Nhâm Thìn, Đại Không vào kinh đô ứng thí. Một ngày trước ngày thi, chủ nhân khách sạn Kinh đô nằm mộng thấy Đại Sĩ đến mách bảo rằng: “Sáng ngày sẽ có con của Lâm Ong đến ngụ tại đây, người ấy chính là tân khoa Trạng nguyên”. Quả thật sáng hôm sau, Đại Không đến mướn phòng nghỉ trọ. Chủ nhân khách sạn đem giấc mộng kể lại nhưng công tử Đại Không ngơ ngác không hiểu gì, đến ngày nêu tên lên bảng vàng thì không sai, Đại Không là Trạng nguyên tân khoa. Tân Trạng nguyên đem việc ấy về thưa lại với mẫu thân thì được Phu nhân dạy rằng: “Đây là nhờ âm đức của cha con đó.” Đại Không lúc bấy giờ là vị Trạng nguyên trẻ tuổi đương triều nhưng vẫn không quên noi theo gương sáng đức hạnh của Cha mình, nhất tâm tín kính Tam bảo. Hàng ngày, ngoài việc triều đình, thì lúc về nhà, ngày đêm Ông lễ bái thành kính cúng dường Quán Âm Đại Sĩ. (Trích Khuyến Giới Loại Sao).
11. Triều nhà Thanh, có Ni sư hiệu là Đăng Linh, họ Đặng, là người ở Phiên Ngôn, tỉnh Quảng Đông. Ni sư là người giữ gìn giới luật rất tinh nghiêm, đối với các thời khóa hàng ngày, không hề thiếu sót. Bà chuyên tu theo pháp môn Tịnh độ, chí nguyện thiết tha cầu vãng sanh Cực lạc thế giới, ngày đêm chuyên niệm Thánh hiệu Quán Âm Đại Sĩ không dứt. Ngày 23 tháng 7 năm Canh Dần, khi Bà đang lễ niệm đến lúc nửa đêm thì bỗng thấy cám cảnh không bạn đồng tu. Bà nhìn lên bàn Phật và bốn bức tường trong Tịnh thất trong cảnh tịch mịch thê lương này thì cảm thấy tinh thần mình như bị kiệt quệ. Khi đặt lưng xuống chiếu, lúc mơ màng thì cảm thấy trong bàn tay hình như đang có vật gì, bất giác Bà lấy vật ấy cho vào miệng rồi sau đó xòe bàn tay ra thì thấy có ba hạt rất đẹp, hìnhthù như châu sa. Từ đấy, Ni sư không cần ăn uống gì vẫn không thấy đói khát, tự lễ niệm Phật tinh tấn như thường ngày. Về sau Ni sư chỉ dùng chút ít bánh và thức ăn vào đúng thời, nhưng tất cả vật thực nấu nướng đều không chạm môi, da dẻ Ni sư vẫn hồng hào, thân thể khỏe mạnh, tinh thần tráng kiện hơn xưa. Ni sư an trụ nơi An nghiêm Tịnh tỉnh Quảng Châu, tu hành tinh tấn. Đến giờ phút cuối cùng, Ni sư an nhiên niệm Phật mà trường thệ. (Trích Quán Âm Từ Lâm tập).
12. Triều nhà Thanh, Phùng Như Kinh tự là Thu Thủy, là một người thuộc cao môn vọng tộc ở Ngạn Môn. Lúc ông nhậm chức quan Sứ ở Tây Ninh, tỉnh Quảng Đông, dân chúng nơi ấy đang nổi loạn. Sau khi dẹp yên loạn, nước nhà bình định, vị Tướng trấn nhậm nơi ấy có ý định đem những người làm loạn giết sạch. Phùng Tiên sinh bí mật vì dân, thỉnh cầu xin tha mạng nhưng Tướng quân không chấp thuận. Phùng Tiên Sinh bèn thưa: “Tướng quân nên biết, Trời đất lấy hiếu sanh làm đức, lấy chấm dứt can qua làm vũ khí. Hiện nay những kẻ nổi loạn đương nhiên là đáng tội nhưng những kẻ cầm đầu chỉ có khoảng mười người mà thôi. Số dân liên lụy đến mấy ngàn người, trong đó có người bị uy hiếp phải theo, hoặc có người vì vô trí khờ dại, hoặc có người vì già cả, yếu đuối, cô độc quả nên họ không phân biệt được tốt xấu sai trái như lá cờ phải theo hướng gió mà phất nên bây giờ phải đồng chung số phận với kẻ chủ xướng, chịu cảnh đầu rơi máu đổ, dưới lưỡi gươm đao phủ. Chúng ta mang danh cho mẹ của dân nở nào nhìn thấy cảnh tượng như vậy thưa Tướng quân. Xin Ngài chấp thuận lời thỉnh cầu của Tôi, nếu có biến loạn lần thứ hai, Tôi nguyện sẽ đem toàn gia chịu tội”. Phùng Tiên Sinh hai, ba phen khẩn cầu thì Tướng quân ấy mới ưng thuận. Bấy giờ chỉ vài người trong bọn cường phỉ bị chém đầu, còn binh sĩ thuộc hạ thì bị phạt sơ sài và đi đày, còn dân chúng tất cả đều được phóng thích. Đêm ấy, Phùng Tiên Sinh nằm mộng thấy từ vân bủa khắp trong nhà, phút chốc có một người từ trên trời giáng hạ giống hệt trong bức tranh Quán Âm mọi người thường thờ cúng. Đại Sĩ tay bồng đứa trẻ bảo Phùng Công rằng: “Ông không có con nên Ta đem đứa trẻ này tặng cho Ông. “Phùng Công đáp: “Con đã có con, vì sao Ngài lại nói không?” Đại Sĩ nói: “Đứa con ấy chẳng phải con Ông, đứa trẻ này mới chính thật là con Ông”. Phùng Tiên Sinh vội đưa tay tiếp đứa bé thì bỗng nhiên có một con trâu đứng giữa ngăn lại không cho Ông bước đến trước. Đại Sĩ nói tiếp: “Ông có biết vì sao không? Vì nhà Ông ăn thịt trâu nên từ đây phải chừa bỏ tội ấy mới được.” Phùng Công ở trước Đại Sĩ phát nguyện: “Con nguyện đời đời không ăn thịt trâu nữa.” Ông vừa dứt lời, con trâu biến mất. Phùng Công tiến tới phía trước, nhận lấy đứa bé, ôm vào lòng. Năm sau, phu nhân của Ông sanh con trai, sau này chính là Cấp Giáng Uy Vân Túc, một đại thần của nhà Thanh. Riêng về trưởng tử của Ông, khi đến tuổi trung niên thì qua đời, không có con nối dõi, chỉ còn con của Cấp Giáng Đại thần là những người kế tự. Trải qua mấy chục năm sau, nghiệm lại lời dạy của Bồ Tát nên Cấp Giáng Đại thần và con cháu đều noi theo gương cha ông, kính tin Phật pháp trong nhà thờ Quán Âm Bồ Tát thường lễ bái cúng dường, trì lục trai, tụng kinh niệm Phật, rất chuyên cần. (Trích Liễu Nhai Ngoại Bích).
13. Triều nhà Thanh, Thí Lệ Cẩm ở Chu Môn, lúc còn là chư sinh thì có nghe người nói về một thiếu phụ nhan sắc tuyệt đẹp, có thể nói là khuynh quốc nghiêng thành nhưng có thể dùng vàng dụ dỗ được. Lệ Cẩm dù không cố ý say đắm theo nữ sắc nhưng vẫn nghe theo bạn bè làm thử. Khi đến gần người đẹp ấy thì bỗng thấy thiếu phụ tỏ vẻ thẹn thùng, nơi mí mắt có giọt lệ rưng rưng. Lệ Cẩm gạn hỏi thì thiếu phụ ấy đáp: “Vì thiếp ở trong cảnh nghèo túng không biết lấy gì nuôi thân nên vạn bất đắc dĩ phải lấy sắc mà bán, để cho qua cảnh cơ hàn, chứ thật sự không phải là người tán tận lương tâm làm việc vô lương sĩ này.” Lệ Cẩm hỏi: “Bây giờ chồng của Cô đang ở đâu?” Thiếu phụ đáp: “Đang lẩn tránh trong nhà”. Lệ Cẩm bảo: “Cô mau gọi anh ta ra đây.”Khi chồng của thiếu phụ bước ra thì Lệ Cẩm gạn hỏi và quở trách việc để cho vợ phải tiếp khách. Chồng thiếu phụ trả lời: “Vì trong cảnh cơ hàn nên đành phải làm những chuyện lấp ngòi rảnh này để kiếm được năm – sáu lượng vàng trả nợ nần, phần còn lại sẽ làm số vốn nhỏ để vợ chồng cùng mua bán nuôi thân vậy thôi“. Lệ Cẩm nghe xong không nói một lời, vội vã ra về. Về đến nhà, Ông lấy mười lượng vàng đem đến đưa cho vợ chồng thiếu phụ rồi từ ấy về sau tuyệt tích không bao giờ ghé nhà của vợ chồng thiếu phụ ấy nữa. Người chồng cảm động đại ân của Lệ Cẩm nên thường lai vãng đến thăm hỏi. Người trong vùng vì thế đều xầm xì cho rằng Lệ Cẩm chắc có tư tình với mỹ nhân nên là một người không có liêm sĩ. Thiếu phụ nghe lời dị nghị ấy thì buồn thẹn muôn phần, phát tâm tạo pho Thánh tượng Quán âm Đại Sĩ rồi mai chiều dâng hoa, lễ bái cầu nguyện rằng: “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quán Thế Âm Bồ Tát, xin Ngài từ bi chứng giám cho sự nguyện cầu của con được mãn nguyện. Vì con có tâm bất chánh mà làm cho người nam tử ấy phải bị tiếng chê bai không trinh khiết mà chồng con cũng chẳng có lỗi gì. Nay thí sinh đó đã có từ tâm chu cấp giúp cho người hoạn nạn, bảo toàn danh tiết cho con mà trả lại thì bị hàm oan, nhận những lời chê bai khinh miệt như vậy, con nguyện xin Bồ tát chứng giám cho con, từ đây sớm chiều con nguyện lễ bái xưng niệm hồng danh của Ngài để cầu cho khoa thi này, chàng thí sinh họ Thí được đậu giải Nguyên để rửa được những tiếng thị phi nhơ nhục kia.” Quả nhiên, như ý nguyện của người Thiếu phụ mong cầu, khoa thi năm Canh Tý, niên hiệu Khang Hy nhà Thanh, Thí Lệ Cẩm đậu giải Nguyên ở Giang Nam. (Trích Khuyến giới Loại Sao).
14. Triều nhà Thanh, Giáng Nam Cư sĩ tự thuật lại câu chuyện sau: “Tôi cùng với Cần Sơn Trương Tiến Sĩ đồng ngụ tại Tây Giang, mỗi sớm mai đều nghe âm thanh tụng niệm của họ Trương, thanh cao lảnh lót nên Tôi gạn hỏi thì anh ấy nói: “Mỗi sáng, tôi đều tụng Tâm Kinh Bát Nhã, Bạch Y Thần chú cùng Kinh Cao Vương Nhân Thọ, v.v… mà không chỉ riêng Tôi trong đời này, trải qua từ ba đời trước, ông cha Tôi đã thâm tín phụng trì nên có rất nhiều linh nghiệm rõ ràng, tại sao Anh không trì tụng?” Tôi đáp: “Vâng”. Chàng họ Trương sau đó tặng cho tôi một quyển sách, trong đó gồm đủ Kinh Chú. Do vậy hàng ngày, Tôi đều chí thành trì tụng có ghi biến số. Về sau có duyên sự, Tôi đi đến Ngô Giang và đậu ghe nơi Cồn Thái Tử, lúc bước lên Cồn đi đến bảo điện thờ Quán Âm Đại Sĩ thì xin xâm được bài xâm như sau: “Khuyên người làm việc, tâm phải kiên trung. 34 có duyên đơn quế. Đồng căn ngày phát đạt. Rau cần thơm có giống thứ đệ liên.” Mùa Thu năm ấy, huynh trưởng của tôi lãnh trách nhiệm làm giám khảo Hương thí. Tôi thì được bổ vào Trường quân làm việc. Mấy đứa cháu cũng được vào trường của nhà nước học hành, thi đậu các kỳ thi. Có điều lạ là hai anh em tôi lúc nêu tên trên bảng thì số thứ tự được để kế nhau trong bảng, rất phù hợp như lá xâm lúc trước đã nói, do vậy mà Tôi càng thâm tín sự linh ứng của Quán Âm Đại sĩ và tin lời nói của Cần Sơn quả là đúng sự thật, không có sự lừa dối. (Trích Quán Thế Âm Kính bạc).
15. Tại Đương Hồ có một người họ Lâm có hai chị gái đều gả cho hai anh em nhà họ Lục. Người chị lớn sanh được đứa con trai thì sau đó người chị kế cũng sanh được một con trai, đặt tên là Thiên Tứ. Vào niên hiệu Khang Hy, nhà Thanh, năm Mậu Ngọ, người họ Lâm này bị bệnh chết. Qua hôm sau thì Anh sống lại, rồi nói với mọi người rằng: “Vô cùng quái lạ, hai đứa cháu trai họ Lục của tôi thật là một chuyện nhân quả ly kỳ. Vừa rồi, trong lúc Tôi bị bệnh và hôn mê thì thấy mình đi đến một nơi có cung điện lầu các nguy nga tráng lệ. Lúc ấy Tôi thấy có một nhóm thần nhân đem bảng khoa thi năm nay từ thiên đình xuống để tra xét rõ ràng công đức tội lỗi của những thí sinh để quyết định người nào đáng bỏ, người nào đáng lấy. Bấy giờ phía trong có một vị Vương gia đi ra, an toạ nơi bàn án, lập tức quan lại đem sổ bộ đến dâng. Tôi đứng bên cạnh thì nhìn thấy tên của người đậu giải nguyên là đứa cháu trai họ Lục. Trong sổ bộ lại ghi chép, mẹ của nó họ Lâm – chị dâu của Tôi, vì có lỗi ưa nguyền rủa, khẩu nghiệp rất nhiều nên phạm đến thiên đình. Vương gia vừa xem xong, nổi giận phừng phừng, Ngài kiểm tra tiếp việc làm của đứa cháu họ Lục thì thấy nó thường phạm về các tội mê đắm hai chữ sắc – tài. Vương gia lập tức cầm bút son vòng lại và gạch bỏ tên nó. Tiếp theo, Ngài kiểm tra đến tên thứ hai mươi mốt là thằng cháu trai họ Lục tên Thiên Tứ thì cũng thấy tội khẩu nghiệp của mẫu thân nó cũng bằng với bà Dì. Vương Gia cầm bút chuẩn bị gạch bỏ thì bỗng Quán Âm Bồ Tát từ đâu giáng lâm trước mắt Vương Gia. Ông liền tức khắc đứng dậy, rời khỏi chổ ngồi đến đảnh lễ Bồ Tát, đoạn truyền lệnh thiết lập pháp tòa, cung thỉnh Bồ Tát an tọa. Sau khi Bồ tát an tọa, Ngài nói với Vương Gia: “Nhà vua nên biết, phu nhân họ Lâm, mẫu thân của Thiên Tứ này, dù lời khẩu nghiệp có nhiều nhưng với Phật pháp thì có tín tâm, lại thờ Phật rất chí thành, vậy là có pháp lành đáng ghi. Hơn nữa Đại vương nên tra kỹ trong sổ bộ phần của Thiên Tứ có ghi chú rõ ràng việc có môt người bạn của nó vì trốn thuế nên bị phạt bằng đánh trượng rất nặng. Thiên Tứ đã vì bạn bồi thường số thuế giúp nên người bạn được tha tội. Chú của nó khi làm tri huyện, xâm tổn công quỹ rất nhiều, nó cũng lập tức bán tài sản bồi thường. Còn một điều cũng đáng lưu ý là nó từng cự tuyệt việc quan hệ bất chánh với một thiếu nữ. Ba sự kiện Ta vừa nói đều thuộc về đại thiện. Nếu Đại vương không tin thì bảo Phán quan đem sổ bộ tra thì sẽ rõ”. Vương gia nghe lời Bồ tát dạy, nhan diện vui tươi, tức khắc quỳ xuống chấp tay thưa rằng: “Xin Bồ tát từ bi tha lỗi, con xin vâng lời.” Đoạn Vương gia trở về chổ ngồi khuyên dụ Tôi rằng: “Chắc nãy giờ Ông đã nghe lời Bồ tát dạy Ta, cháu trai của Ông có ba điều đại thiện ấy sẽ được lưu danh vào trong bảng. Còn Ông, phước lộc cũng như tuổi thọ chưa hết nên mau trở về dương thế, cố gắng thực hành thiện sự. Đối với Tam bảo phải có tín tâm, ăn chay niệm Phật, tụng Kinh lễ Sám cho tinh cần thì mới khỏi phụ hồng ân của Đại sĩ đã giáng lâm nơi đây chỉ dạy.” Tôi cúi đầu lạy tạ Bồ Tát cùng Vương gia rồi bước ra khỏi điện thì trong lúc đang mơ màng đã thấy đến nhà nên Tôi sống lại.” Hai đứa cháu trai họ Lục nghe tin Cậu qua đời nên về nhà, đứng bên cạnh nãy giờ đã nghe rõ câu chuyện Cậu mình đã thuật. Hai đứa đều suy nghĩ đến việc mình đã làm trong lúc hàng ngày, bên nội bên ngoại không một ai hay biết nhưng dưới chốn Minh ty đều đã biết trước một cách rõ ràng thì lấy làm lạ không sao kể xiết. Khoa thi năm ấy khi nêu tên lên bảng, quả nhiên Thiên Tứ trúng tuyển thứ hai mươi mốt. Câu chuyện sau khi hồi dương người em kể lại từ dưới Âm Ty làm cả hai người Chị đều rùng mình rợn óc, từ ấy về sau đều nguyện bỏ tội ác khẩu nghiệp, rủa nguyền, đem thân lễ Phật, dùng miệng tụng Kinh niệm Phật để chừa bỏ tội lỗi khẩu nghiệp ngày xưa. Cậu con trai của người Chị cũng nguyện chừa bỏ tội tham luyến sắc tài, hướng về Phật pháp, lánh dữ làm lành. Riêng Thiên Tứ, dù lộc vị quí hiển nhưng vẫn không dám buông lung, mà y theo lời của Minh vương dạy cho Cậu mình nên ngày thì lo việc quan còn sớm chiều thì tu niệm rất tinh cần. (Trích Âm Chất Văn Tân Biên).
16. Có một Ni sư họ Đổng ở tại miếu Sáp Hoa, xứ Thượng Châu. Nhân ngày vía của Quán Âm Bồ Tát, Ni sư sắm trai phẩm hoa trái rất nhiều, từ sớm đến trưa lo dọn dẹp, rửa hoa trái. Vừa xong thì Ni sư cảm thấy tinh thần không yên nên tạm ngồi xuống ghế dưỡng thần. Khi vừa thiu thiu ngủ thì mộng thấy Đại Sĩ đến dạy rằng: “Ni Cô ơi, Ni cô không cần hiến cúng cho Ta vì Ni cô không cúng dường thì Ta cũng chẳng bao giờ đói mà Ni Cô có cúng dường, Ta cũng không no thêm. Hiện ngoài cửa chùa có khoảng bốn, năm người lưu dân đang xin ăn nhưng không ai cho một miếng, đói khát gần chết. Thôi vậy Ni Cô hãy đem phẩm vật cúng dường cho chúng nó ăn để đỡ đói thì Ni Cô sẽ có công đức gấp hơn mười lần cúng dường cho Ta”. Ni sư giật mình tỉnh dậy, mở cửa ra xem thì quả nhiên đúng như lời Bồ tát dạy. Do vậy mỗi năm đến ngày vía của Đại sĩ, Ni sư đều sắm trai phẩm, hoa trái rất nhiều, trước hiến cúng Bồ tát, sau đem bố thí cho những người ăn xin. Ni sư khuyến hóa họ rằng: “Đây là Tôi vâng theo Từ ý của Bồ Tát, thế nên vật thực cúng dường cho Ngài đều đem phân phát cho quý vị. Vậy Tôi mong quí vị thọ dụng thức ăn của Tam bảo, phải phát tâm tin Tam bảo, tưởng Phật, niệm Phật, giữ lòng thanh tịnh thì Tôi chắc chắn nhờ đức từ bi của Bồ tát gia hộ, quí vị sẽ được no đủ.” (Trích Hải Nam Nhất chước).
17. Đào Hoành Phong ở huyện Kim Lăng có vợ là Tống Thị. Bà thờ Quán Âm Bồ tát rất thành kính, hằng ngày đều trì tụng Kinh Chú rất chí thành. Vào năm 81 tuổi, Hoành Phong bị bệnh nặng nên Ông nói với Tống Thị rằng: “Tôi nhớ trước kia có một thầy tướng số cho biết tuổi thọ của Tôi ngang chừng đây. Hôm nay bệnh Tôi trầm trọng thập tử nhất sinh như vầy thì lời ấy chắc đúng.” Tống Thị vừa nghe xong thì hai dòng lệ tuôn trào, khóc nức nở. Đêm ấy, Bà đến trước Thánh tượng Đại Sĩ dâng hương lễ bái cúng dường cầu đảo, nguyện bớt tuổi thọ của mình để chồng được sống thêm, sau đó lại cắt thịt cánh tay, chưng làm thuốc để dâng cho chồng. Hoành Phong dùng thuốc ấy qua ngày sau thì bệnh hoàn toàn thuyên giảm. Tống Thị vô cùng cảm động đức Từ của Bồ tát minh gia nên từ đó Bà phát nguyện trì trai và sự tu hành ngày càng chí thành. Hoàng Phong sống thêm mười hai năm thì tạ thế. Sau khi Hoành Phong qua đời, trong tất cả các thời niệm Phật tụng Kinh, Tống Thị luôn cảm thấy như có thần minh tả hữu. Sớm mai thức dậy, dù bận rộn thế nào Bà cũng đều trì một trăm lẽ tám biến chú, không hề biếng nhác. Đến năm bảy mươi tuổi, gặp nhằm lúc tại Giang Nam, bệnh dịch lan tràn, Tống thị cũng bị nhiễm bệnh rất nguy kịch. Trong lúc bệnh nặng đang hôn mê thì Bà mộng thấy mình đi từ nhà ra cửa gặp một người áo mão chỉnh tề bảo rằng: “Trong thời gian này, ngươi không nên ở nơi đây, Ta sẽ dắt đến Đại Sĩ cầu Ngài cứu hộ.” Dứt lời thì người ấy dẫn bà đến một cung điện nguy nga. Khi mới đến, Bà không thấy Bồ Tát, chỉ thấy có hai vị phục sức áo mão như thời xưa ngồi ở trên. Tống Thị phủ phục trước bàn án hơn một giờ thì vị ngồi phía tả nói: “Người đàn bà này trong thời gian này không nên ở nơi ấy.” Vị phía hữu gật đầu, lập tức bảo người dẫn Tống Thị ra. Người dẫn đường nói: “Bà đã khỏi bệnh rồi, Tôi xin đưa Bà trở lại dương thế”. Khi Bà vào cửa thì bị té, liền giật mình tỉnh lại, toàn thân toát mồ hôi như tắm, bệnh liền lành. Đến năm tám mươi tuổi, Bà bị bệnh đau xương cổ, sức già yếu, suốt ngày đầu cúi xuống đất thì vô cùng đau nhức. Bà thường nói với mọi người: “Xương cổ tôi thế này, theo thế tục thì triệu chứng này là tôi sắp chết rồi.”Vào một đêm, Bà nhìn thấy có một bà già dắt một đứa đồng tử bước vào nhà và mang theo một chén nước trà trao cho Tống Thị rồi nói rằng: “Tôi vâng lệnh Quán Âm Bồ Tát đến đây để chữa cho xương cổ của Bà được thẳng. Bà chỉ cần uống chén nước trà này sẽ lành.” Tống Thị kính cẩn nhận chén nước trà, khi nhìn vào trong ấy thì thấy có những lá xanh nho nhỏ nổi lên giống như lá oắc hương. Khi Bà uống thì cảm nhận được mùi thơm, vị ngon ngọt. Uống xong chén trà thì không còn cảm thấy đau nhức nữa, khi dùng gương soi thì thấy xương cổ đã ngay. Lúc ấy Bà giật mình tỉnh giấc thì thấy quả nhiên xương cổ đã thẳng lại, chứng đau cổ cũng hết hẳn. Bà sống đến tám mươi tuổi, đến giờ phút cuối cùng thì thân không bệnh khổ, Bà gọi đứa con là Tầm Sơn đến dạy bảo: “Hôm nay Mẹ về Tây Phương, con ở lại, đối với Tam Bảo phải có tâm thâm tín, xa lìa các điều ác, cố gắng tu tập pháp lành, hàng ngày theo gương Mẹ nên tinh tấn trì chú niệm Phật.” Dứt lời thì Bà an nhiên niệm Phật trường thệ, lúc ấy hương thơm bay khắp nhà. Tầm Sơn vâng theo lời Mẹ, hàng ngày chiêm bái cúng dường Đại Sĩ và trì chú niệm Phật không hề giải đãi. (Trích Quán Âm Trì Niệm Ký).
18. Triều nhà Tống, có Trương Phụng Trực là người Hồ Lương, tỉnh Giang Tây. Ông có một đứa đầy tớ có tính thích giết trâu nên thường nằm mộng thấy thân mình nằm chung trong bầy trâu. Phật tử Phụng Trực nghe nói liền bảo rằng: “Mầy tạo ác nghiệp nghiêm trọng nên sắp bị đọa vào xúc sanh, nếu không thống thiết và sám hối tội lổi thì không thể nào thoát tội.” Nói rồi ông đem kinh Phổ Môn dạy cho đứa tớ. Không bao lâu, đứa tớ này tụng thuộc được phẩm Phổ Môn, lại phát thệ bỏ hẳn tội trước. Trải qua thời gian 10 năm, một ngày nọ hắn gặp người đồ tể giết trâu, người tớ sanh tâm hoan hỉ, mua nửa phần thịt để đem đi bán. Đêm đó, người tớ nằm mộng lại thấy điềm mộng như trước. Sáng ngày thức dậy muốn tụng Kinh nhưng bây giờ đã quên hết, một câu cũng không nhớ nổi, những chữ trong Kinh trước kia biết đọc, bây giờ cũng quên hẳn, rồi rồi sau đó bị ác bệnh hoành hành hơn một tuần rồi chết. (Trích Hải Nam Nhất Chước).
19. Triều nhà Minh, Phật tử Trương Tổ là người ở Cao Kiều, Tô Châu. Ông vốn là một Phật tử thành kính ngôi Tam bảo, bình nhật Trương Tổ hay sắm đồ cúng dường Tam bảo. Vào niên hiệu Vạn Lịch nhà Minh năm Tân Hợi, Trương Tổ đến Phổ Đà Sơn để chiêm bái Quán Âm Bồ Tát. Khi đi, Ông dắt theo đứa cháu tám tuổi. Lúc xuống thuyền, đứa bé ấy bổng thấy tất cả người trong thuyền đều bị trói cột tay chân. Nó hoảng sợ vội theo sau, nắm vạt áo Trương Tổ kéo lại và nói sự lạ lùng với nội của nó. Trương Tổ vừa nghe thì sợ hãi, dắt cháu lên bờ. Đến thuyền thứ hai, đứa bé ấy cũng nói nó thấy giống như trước. Trương Tổ lại dắt cháu lên bờ đi tìm chiếc thuyền thứ ba. Khi vừa xuống thuyền này, Ông hỏi cháu mình có thấy điều lạ không thì nó đáp: “Con chỉ thấy ở hai chiếc thuyền trước có sự lạ như vậy còn chiếc thuyền này và các chiếc khác đều không có.” Lúc ấy, trong ý của Trương Tổ chưa biết quyết định như thế nào thì bỗng phía trước có hai người kêu lớn rằng: “Ông đừng đi lên hai chiếc thuyền kia, nên lên thuyền này mà đi, thuyền này rất an ổn.” Tổ dụ dự còn chưa muốn bước lên thuyền thì trong giây lát cảm thấy dường như ở phía sau có người xô đẩy. Ông lập tức dắt cháu lên thuyền. Khi vừa ngồi tạm yên thì người kêu cũng như người xô đẩy Ông lúc nãy biến mất. Bấy giờ mặt trời sắp lặn, thì cũng vừa đến biển lớn, đột nhiên ba đào nổi dậy trắng xóa, lượn sóng nào cũng cao như núi. Hai chiếc thuyền trước đều bị chìm lật úp, tất cả mọi người trên thuyền không người sống sót. Riêng chiếc thuyền của hai ông cháu Trương Tổ đi thì vẫn an nhiên vô sự. Ba ngày sau đó, Quán huyện ở Nhơn Hào ra biển tuần hành kiểm soát thì phát hiện thấy ở xác của những tử thi nổi lên, phía sau lưng của mỗi người đều có cột hai cây côn và dao nhọn. Quan huyện nhìn thì biết đây là đồ dùng để giết người cướp của nên suy luận theo đó thì biết bọn người trên hai chiếc thuyền bị chìm này đều là bọn xiển đề vô lại, chuyên môn cướp của giết người, vì chủ thuyền không biết nên mới rước họ đi biển, nên bọn chúng đã bị trừng trị. (Trích Quái Viên Chí Diệc).
20. Triều nhà Minh, vào niên hiệu Sùng Trinh, có chàng thiếu niên họ Triệu, người huyện Xương Môn, tỉnh Giang Tô. Chàng ta là người giàu có nên tánh tình rất kiêu ngạo, và mắc phải chứng bệnh đắm say nữ sắc. Mỗi khi gặp một người phụ nữ nào thì đều lễ bái mong cầu cho được gần, thế rồi chàng ta tìm đủ phương tiện chặn đường đón ngõ để được gần gũi với người mình mong ước. Bấy giờ vào ngày 19 tháng 6 là ngày vía Quán Âm Đại Sĩ, chàng thiếu niên họ Triệu ấy nhàn du vào một ngôi chùa. Vừa lúc ấy thì gặp một người phụ nữ đang phủ phục trước Phật đài, hai dòng lệ tuôn rơi, tiếng khóc than xen lẩn tiếng nguyện cầu rất chí thành xin cho mẫu thân qua cơn trọng bệnh. Thiếu niên họ Triệu gặp gái trẻ đẹp thì động tà tâm, chàng ta giả vờ như người bị vẹo chân đi cà nhắc, rồi nhảy qua đầu thiếu nữ làm cho mái tóc mượt mà của cô bị rối. Mọi người không biết chàng trai này đang giả dối nên tha thứ bỏ qua, nhưng chàng thiếu niên họ Triệu ngay lúc ấy bỗng có cảm giác dịch hoàn xưng đau không tả xiết. Chỉ trong một tuần thì dịch hoàn xưng lên bằng cái đấu to nên hắn ta đi đứng vô cùng khó khăn, đi tập tểnh như con nít. Khi vào thành, mọi người đều bàn tán khinh chê, nên chàng ta cảm thấy vô cùng hổ thẹn. Từ đấy về sau, dịch hoàn càng ngày càng lở loét, trong thời gian vài năm thì qua đời. (Trích Tư Cầu Tập).
21. Triều nhà Minh, vào niên hiệu Vạn Lịch, có người tên là Tiêu Giáp làm thông mai ở huyện Tiêu Văn. Do có công soạn Bộ Sự Tích Hồ quảng mà được thăng làm Lương Sự. Tiêu Giáp lúc rảnh rổi thường du ngoạn chốn núi sông, thưởng ngoạn nơi biển cả. Một hôm, có một vị Hòa thượng ở Nam Hải từ đất Thục đến xin quá giang thuyền để về Phổ Đà, nhưng chủ thuyền không ưng thuận. Hòa thượng thấy Tiêu Giáp là hàng hoạn quan và là người tử tế nên đem sự tình thổ lộ với Giáp rằng: “Không dấu gì Ngài, Bần tăng từ lâu đi quyên góp được sáu trăm lạng vàng, định đem về Phổ đà kiến lập bảo điện thờ đức Quán Âm Bồ Tát. Mong Ngài thương lượng giúp với chủ thuyền cho Tôi được quá giang thì công đức ấy thật vô lượng vô biên, vì chắc Ngài cũng dư rõ, Bần tăng một mình mà lại nhiều tài bảo, ở lại đây chắc là bất tiện. Giáp ưng thuận thương lượng với chủ thuyền cho Hòa thượng cùng đi. Nhưng đi được vài ngày, trong lòng Giáp bỗng khởi ác niệm. Thừa lúc đêm tối, sóng to gió lớn, Tiêu Giáp liệng Hòa thượng xuống biển, đoạn đến giở tráp ra thì quả nhiên có số vàng mấy trăm lượng. Tiêu Giáp bèn lấy hết bỏ vào túi riêng. Khi trời vừa hừng sáng thì bỗng Giáp thấy Hòa thượng ấy từ dưới biển ngoi lên đứng trước mặt đòi mạng. Từ đấy, ngày đêm Hòa thượng luôn hiện hình khuấy rối, Tiêu Giáp suốt ngày đêm trong tâm lo sợ, không một phút tạm yên nên sanh trọng bệnh. Tiêu Giáp đi khắp nơi cầu đảo khấn vái nhưng vô hiệu quả vì hình bóng Hòa thượng không lúc nào xa rời. Bệnh gần một năm thì tài vật của Hòa thượng, cũng như tài vật của Giáp đều hết. Một ngày nọ, vị Hòa thượng quá cố nói trên bỗng nhiên xuất hiện. Ngài cầm chiếc gậy đến viếng thăm Giáp và bảo Giáp rằng: “Thưa Ngài, tôi đây chính là người thật, chẳng phải quỷ ma đâu! Năm vừa rồi, lúc tôi bị ném xuống biển, đang lênh đênh trên sóng gió thì trong tâm tự nghĩ thế nào cũng sẽ chết. Giờ phút ấy Tôi vẫn nhớ Phật, niệm Phật, nên cầu xin về Tây phương Cực lạc, bỗng nhiên đức Đại bi Quán Thế Âm từ trong không trung giáng hạ, tay cầm một ngọn đèn rồi đưa Tôi vào một bãi lau, sau đó thì gặp được một người chài lưới cứu thoát. Sáu trăm lạng vàng ấy dù bị Ngài cướp đoạt nhưng sau khi thoát nạn thì Tôi liền đi quyên góp lại và số ấy đến nay đã gần đủ. Hiện nay Tôi đang về Phổ Đà để thù đáp bổn nguyện năm xưa. Khi Tôi đi ngang qua xứ Giang Âm thì nghe dân chúng xôn xao truyền rằng Ngài mắc phải chứng bệnh lạ, nên đến đây thăm viếng, Tôi khuyên Ngài hãy bỏ hẳn cái sai lầm ấy đi. Hiện giờ bần tăng cũng có phần đói bụng nên xin Ngài cho một bữa cơm chay rồi sẽ từ biệt lên đường.” Sau khi Hòa thượng thọ trai xong thì từ giã Giáp, cất bước lên đường. Giáp trong ý vẫn còn ngờ vực nên cho người theo chân Hòa thượng dò xét, quả nhiên thấy Ngài cầm gậy, bước lên thuyền đang đậu sẳn nơi bờ biển. Từ ấy, hình bóng ma quỷ hoàn toàn không hiện nữa, nhưng bệnh trạng của Giáp vẫn không thuyên giảm chút nào. Trải qua vài tháng thì thần thức rời khỏi thân xác. Theo nghiệp vào chốn u minh để thọ cực hình thảm khốc do chính mình đã tạo. Giáp chỉ có một con trai, cũng là một người học vấn văn chương có tiếng. Nếu gặp vận tốt thì có lẽ đã làm đến đại quan hơn cha mình nhiều nhưng đến kỳ ứng thí, vì cha chết nên không thể bỏ đi. Không biết thiếu niên ấy vì buồn rầu hay vì nhìn thấy cha chết nằm đó chưa chôn mà thẩn thờ đi ra bờ sông rồi nhảy xuống sông trầm mình tự vẫn. Nói đến vị Hòa thượng, sau khi về đến Nam Hải, Ngài được tin cha con của Giáp đều từ trần một cách thảm thiết, với từ tâm của một người đã xuất gia, nghĩ đến ác nghiệp của chúng sanh, lòng Hòa thượng đau như cắt. Ngài quá thương tâm nên không thể ngăn được giọt lệ, từ ấy mỗi thời khóa tu niệm hàng ngày, lễ Sám, niệm Phật, Ngài đều nhất tâm cầu nguyện cho cha con họ Tiêu được mau thoái khỏi luân hồi mà vãng sanh Cực lạc quốc. (Trích Ứng Thiên Tăng chú).
22. Ngoài Nam Môn, huyện An Dương, tỉnh Nam Kinh, có đài lạc thạch. Đài ấy cao vút trời lại rất cheo leo, phía trước có một con suối rất sâu, trên đài có Thánh tượng Quán Âm đúc bằng đồng. Niên hiệu Nhiên Khải, năm Nhâm Thìn, có bọn cường đạo muốn cướp tượng đồng nên dùng dây làm thang để lên đài cướp đoạt. Khi lên được đài cao, chúng nhận thấy không thể khuâng Thánh tượng của Bồ tát đi nên dùng búa sắt đập phá tan nát, bức tượng của Ngài vì vậy chỉ còn chiếc đầu nên chúng đem giấu trong bụi rậm và tìm đường tẩu thoát. Ngay lúc ấy, Phật tử trong chùa được tin kim thân Bồ tát bị bọn cường đạo hủy phá nên đi khắp các nơi lùng bắt. Do chẳng biết lối đi nên chúng chui vào một đám ruộng ẩn núp, người đi đường thấy vậy sanh nghi gạn hỏi, bọn người vô lương tâm ấy ấp úng trả lời nên bị người dân giữ lại, vì thế mà khỏi cần nhọc công đi tìm kiếm chúng. Phật tử bèn tóm chúng và đưa đến quan huyện để xét xử trị tội. Quan huyện địa phương là một Phật tử thành kính Tam bảo, lại tinh thông giáo lý Phật đà nên vừa được tin kim thân Bồ tát bị nạn thì Ngài im lặng giây lâu vì quá đau đớn nên không nói nên lời. Sau đó Ngài nói với các Phật tử trong chùa: “Quí vị nên biết, tội ác của bọn cường đạo này dù có bị xử tử cũng chưa nói là đền bù được nhưng thể theo lòng từ bi của Bồ Tát Như Lai, tôi không giết chúng nó làm gì, nhưng tội ác tày trời cũng không thể dung tha nên Tôi báo cho quý vị biết sẽ giam chúng vào ngục, cấm cố chung thân để đền tội. Tôi cũng mong đức từ bi của Bồ tát gia hộ cho chúng nó hồi tâm hướng thiện để vơi bớt phần nào tội ác của chúng.” Nói xong, quan huyện tự tay thảo một lá đơn khuyên người đóng góp và ký tên vào, bảo các Phật tử về trao lại cho vị Tăng chủ trong chùa, khuyến khích đi các nơi quyên góp để đúc lại Thánh tượng mới. (Trích Giác Thế Kinh thuyết chứng).
23. Tại Lĩnh Nam, trầm hương rất rẻ nên tất cả dinh thự của vua quan đều được điêu khắc bằng gỗ trầm hương. Nhân dân nơi đô thị Lĩnh Nam trước đây đã dùng gỗ trầm hương và mướn thợ tinh xảo, điêu khắc một tượng Phật rất trang nghiêm. Bấy giờ có bọn yêu quái giả làm mấy mươi người Tăng nhân, mượn Phật pháp thực hành mưu gian kế quỷ của mình. Chúng mướn thợ tinh xảo điêu khắc tượng Quán Âm Bồ tát bằng trầm hương, bên ngoài sơn phết thành kim thân, bên trong thì trống rỗng để tiện đặt máy móc, chứa toàn những thứ hung đao, giáo mác. Chúng thường cung nghinh Thánh tượng Bồ tát đi các nơi để huyễn hoặc tất cả nam nữ có tín tâm với Phật pháp. Nhờ phương tiện này, chúng ra tay giết người cướp của không kiêng sợ phép nước. Lúc ấy, Quan Thái thú huyện Trấn Giang vừa mới đổi đến. Đêm ấy, Ngài nằm mộng thấy một người phụ nữ mặc bạch y đến tỏ bày tự sự: “Thưa Quan lớn, trong bụng của Tôi luôn đau nhức, xin Ngài có cách chi cứu giúp thì phước đức vô lượng.” Quan Thái Thú khi thức giấc, trong tâm thấy vô cùng lạ, lập tức đến Phủ đường hỏi tả hữu rằng: “Các ngươi có ai biết trong vùng này có một phụ nữ nào bị oan uổng hay không?” Khi ấy, Thú tuần binh đứng hầu bên cạnh, tiến ra thưa rằng: “Bẩm Quan lớn, ngày gần đây ở dưới sông này có một chiếc ghe lớn, trong ghe có một Thánh tượng Quán Âm Bồ tát bằng trầm hương, dân chúng đua nhau đến lễ bái cúng dường đông hơn hội chợ. Con nghĩ việc này chắc trong Phủ Quan đã nghe.” Thái Thú lập tức bảo người chuẩn bị xa giá ra khỏi thành, đi ngay đến chiếc ghe thì thấy có Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát. Lúc ấy trong lòng Ngài tự nghĩ: Quán Thế Âm Bồ Tát thường hiện thân phụ nữ, thế thì phu nhân hiện trong mộng chắc là Ngài, không còn nghi ngờ gì nữa. Thái thú bèn xin phép chư Tăng cho hạ tượng Quán Âm xuống để có việc cần khám xét. Sau khi xem xét kỹ, ông thấy pho Thánh tượng này được ráp từ từng mảnh, có thể mở ra xem rất dễ. Quả nhiên khi mở ra thì phía trong ấy toàn là hung khí, gươm đao, v.v… Quan Thái thú bèn truyền lệnh dùng xiềng xích trói bọn côn đồ giả dạng Tăng nhân lại, đưa hết chúng vào Phủ đường để tống giam vào ngục. Ba ngày sau toàn bộ bọn chúng đều bị giải đến pháp trường xử tử. Bấy giờ, dân chúng xứ Lĩnh Nam, vạn người như một đều tán thán sự linh dị của Quán Thế Âm Bồ Tát. Bọn hung đồ kia tạo nhân lãnh quả, chỉ trong đời hiện tại đã không thoát được lưới pháp luật. Những người thông đạt Phật pháp cho rằng: hiện báo mà chúng phải trả chỉ là hoa báo mà thôi, quả báo sẽ là việc thọ đại hình nơi Vô gián địa ngục. Sự việc trên là do vị Đốc phủ Trung quân thuật lại. (Trích Quái Viên Chí Dị).
24. Triều nhà Minh, niên hiệu Chánh Đức, có Quan tri huyện Giang Âm, họ Vương. Một ngày nọ, Ông bảo người đến gọi người giúp việc cho mình là vị Thông Lại đến phủ để dạy việc, nhưng vị Thông Lại vào ngày ấy lại lo bận việc cúng lễ vía đức Quán Âm, nên Ông nhờ người thưa lại sự việc với Quan huyện. Chùa Quán Âm ở vùng phụ cận có Thánh tượng Quán Âm bằng gỗ trầm hương, trước giờ rất linh hiển. Quan huyện được người về thưa lại việc Thông Lại vì lo chuyện nhà chùa mà trái lệnh của mình nên nổi trận lôi đình, lập tức truyền lệnh cho bốn người lính tại nha môn cùng đi đến chùa Quán Âm. Lúc ấy Phật tử đang hội họp cùng với chư Tăng trong chùa làm lễ, tri huyện dẫn 4 người lính xông ngay vào chánh điện. Vừa tới Phật đài, Ông ra lệnh cho quân lính triệt hạ Thánh tượng Quán Âm, đem ra phía ngoài chế dầu thiêu đốt. Trước hành động bạo ngược của vị Quan địa phương, muôn người như một, không ai chẳng tức giận, nhưng toàn thể Phật tử vẫn im lặng vì lẽ chốn Từ bi trang nghiêm thanh tịnh không thể gây ra sự đổ máu mà vị Quan huyện cũng là người đứng đầu trong huyện. Sau khi thiêu hủy Thánh tượng thì Quan huyện bỏ ra về. Vài ngày sau, Ông vào triều tiếp kiến Hoàng thượng, nhưng đi giữa đường thì tim Ông đau nhức như bị người cầm dao đâm. Tri huyện tự hối hận, lập tức quay về, nhờ người bái thỉnh chư Tăng đủ giới đức, rước về tư dinh, tụng kinh bái sám mong tiêu tội ác. Có ba vị Tăng sau khi đến tư dinh thì một vị đứng ra cảnh giới cho tri huyện: “Quan huyện nên biết, đức Quán Âm Bồ Tát là bậc đại từ đại bi thương xót chúng sanh như con, tùy duyên hiện thân trong mười phương để cứu khổ chúng sanh. Thế thì Ngài không nên vì một pho tượng bằng gỗ mà sanh lòng sân hận. Chúng tôi y cứ theo Phật lý mà xét thì đây là hiện báo của Ngài vì chư Hộ pháp, Thiện thần muốn chỉ rõ báo ứng hiện tiền để cảnh cáo Ngài mà cũng là để làm gương cho thế nhân. Quan huyện có tín tâm với Phật pháp, rước chúng tôi đến tụng Kinh bái Sám, việc ấy chúng tôi cũng sẳn sàng chí thành lễ bái cầu nguyện, nhưng ác nghiệp của Ngài quá sâu, hiện báo đã thuần thục, chúng tôi e rằng khó qua khỏi.” Quả nhiên như lời vị Cao Tăng nói, tri huyện nằm trên giường bệnh, lăn lộn, kêu la, chỉ trong thời gian ba ngày thì thần thức rời khỏi thân, theo ác nghiệp vào chốn Minh Ty chịu khổ cực hình. (Trích Âm Chất Văn khuyến giới Thiên).
25. Cuối triều nhà Minh, có người tên Trần Kinh Sơn, là một võ Quan của triều đình, tánh tình vô cùng bạo tàn, ngày đêm thường cờ bạc. Trong nhà y có thờ Thánh tượng Quán Âm, khi nào thắng bài thì về đến nhà, thắp hương cúng dường lễ bái trước Phật đài, khi bị thua chút ít thì về đến nhà, mắng chửi Bồ tát. Một ngày nọ bị thua sạch, vừa về đến nhà, hắn ta nổi giận, đem Thánh tượng Đại Sĩ vứt trong nhà xí, lại hằng ngày dùng nắp bô đổ phẩn tiểu để trên bài vị thờ thần. Niên hiệu Sùng Trinh nhà Minh năm thứ 17, vào nửa đêm ngày 27 tháng 4, nhà láng giềng bị hỏa hoạn lan đến nhà Kinh Sơn. Đang lúc ngon giấc, hắn giật mình thức dậy, cảm thấy hơi nóng nên chạy ra ngoài trốn lửa, nhưng không biết ai xui khiến, hắn lại chạy trở vào nhà để tránh lửa. Khi đi vào nhà xí, nơi đã vứt bỏ Thánh tượng Bồ Tát, hắn ngồi yên trong ngọn lửa, tự thiêu mình như con heo quay. (Trích Dẩu Am Tỏa Ngư).
26. Triều nhà Minh, Từ Tú Tài tự Thái Xanh là một người tài cao đức hạnh vẹn toàn, vì vậy mà từ thành thị đến thôn quê, ai cũng kính trọng Ông. Con lớn của Từ tiên sinh tên Khôn, đứa con nhỏ tên Phật Xá tự Thành Dân, tuổi vừa hai mươi mà đã là người xuất chúng, rất thông minh, lại trung trực chí hiếu. Tuy còn trẻ nhưng Thành Dân đã phát tâm thâm tín Phật pháp, trì trai niệm Phật tụng kinh, lòng từ bi có thể nói cảm đến muôn loài, cho đến đối với loài thảo mộc, côn trùng cũng không nhẫn tâm làm thương tổn. Vào đêm 12 tháng 6 năm Quý Dậu, Thành Dân được một vị Thiên Vương ở cung trời Đao Lợi mời đến. Khi Thành Dân vừa đến bảo điện Thiên vương thì Ngọc Hoàng tức khắc niềm nở nghinh tiếp. Sau khi an tọa, Thiên vương cho biết, vì công việc ở đệ ngũ điện trong Minh phủ quá nhiều, Trẩm xin cung thỉnh Ngài đến đó làm việc trong một trăm ngày. Từ ấy về sau, mỗi đêm, Thành Dân khi thì du hành các nơi dưới Minh phủ, khi thì làm việc tại bổn điện. Nhân vì mục kích những thảm cảnh trong chốn u minh mà nghĩ đến chúng sanh trong chốn dương gian đang tạo ác nghiệp, lòng Ngài càng đau đớn, muốn đem Phật lý khai hóa nhưng chẳng biết làm sao vì âm dương cách trở. Ngài nghĩ: bây giờ chỉ có cách là vận sức thần thông, hiện thân ở những nơi đó, tùy cơ thuyết pháp cho mọi người nghe để sanh tâm sợ hãi, bỏ dữ theo lành, quy hướng về Tam bảo. Thành Dân thực thi theo ý định nên mọi người đua nhau đến xem nghe, không chổ chen chân. Trong thời gian Thành Dân hiện thân thuyết pháp, Ngài diễn tả cảnh trong chốn Minh đồ vô cùng thê thảm, hình phạt của các tội nhân trong các địa ngục, nào là bị gông cùm xiềng xích, kéo lưỡi trâu cày, nấu tội nhân trong vạc dầu sôi, xay, giã, cưa xẻ, leo núi đao, rừng kiếm, ôm cột đồng sôi, nằm giường sắt nóng, v.v… ai nghe thấy cũng phải rùng mình, nhắm mắt, khi nghe tiếng gào thét của tội nhân thì phải bịt tay lại không dám nghe. Những cảnh tượng ấy, có người thì dùng miệng để kể lại, có người thì dùng bút ghi chép lại những gì Thành Dân thuật lại thành một pho sách mô tả địa ngục, được chia ra làm mười tám cảnh, hình phạt phân ra đến muôn ức thứ. Chư Bồ Tát, chư Phật không lúc nào không hiện thân vào địa ngục để cứu khổ cho chúng sanh. Tuy nhiên những tội nhân không có thiện căn từ đời trước thì dù chư Phật phóng quang minh cũng không cứu giúp họ được, dầu cho có đứng trước mặt thuyết pháp khai thị, các tội nhân đó vẫn hồn mê bất tỉnh, duy chỉ có ngày 15 tháng 7 là ngày chư Phật hoan hỉ khắp trong trời đất, nơi nào cũng có Lễ sám, lập chay đàn thí thực, nên trong ngày này đích thân Quán Thế Âm Bồ Tát thống lĩnh tất cả tội nhân đi đến đạo tràng để thọ tài thí. (Trích Ngoạt Diêm La Minh Phán Nhứt).
27. Triều nhà Minh có vị y tăng là Thích Pháp Trình tự Vô Uổng ở Ôn Châu. Ngài bị mù từ thuở bé, cha mẹ chạy chữa trăm phương ngàn kế đều không có kết quả. Thầy Pháp Trình tự biết nghiệp nặng, thuốc thế gian không mong kết quả, nên ngày đêm thành tâm xưng niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Thực hành như thế trải qua mười lăm năm, một hôm trong giấc mộng, Thầy nghe Bồ Tát gọi tên bảo đến trước nhưng dường như có vật gì trói chân mình, không thể cử động. Trong giấc mộng, Thầy nghe Đại Sĩ than rằng: “Sự việc này là do nghiệp nhân đời trước của Ông từng làm một vị Sư, lúc châm cứu làm tổn mắt ngườinên đời này phải chịu khổ báo ấy. Ta hết sức thương xót tâm chí thành của Ông nên sẽ làm cho đời sống của Ông mọi sự nhu dụng vô cùng phong phú.” Dứt lời, Ngài lấy từ trong áo ra một nắm bảo châu trao cho, thầy Pháp Trình kính cẩn tiếp lấy rồi thức giấc. Từ ấy, nghề thuốc của Thầy hết sức thịnh, khách đông không chổ chen chân. Quả nhiên đúng như lời Bồ tát dạy, sự thọ dụng của Thầy không thiếu món chi, thân thể khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, sống đến tuổi cao. Đến giờ phút cuối cùng, Thầy vui vẻ đoan tọa, chí thành xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm mà tạ thế. (Trích Đường Nghi Chi Y khuyên).
LỜI PHỤ: Cứ theo lời Bồ tát dạy thì thầy Pháp Trình do định nghiệp, đôi mắt vẫn mù nhưng y đạo được thịnh hành có lẽ nhờ do Thầy thuộc tất cả các phương thuốc, sau khi chẩn mạch rồi nhờ người viết toa.
28. Phật tử Trương Ngọc ở tỉnh Tây Sơn có đứa con gái nhỏ tên Phật Nhi. Bé gái này khác hẳn các trẻ khác là tuy sống trong gia đình cha mẹ không hề dạy bảo, mà lại thích tụng Kinh niệm Phật, đặc biệt nhất là với phẩm Phổ Môn. Bé gái này tụng Kinh không thiếu một ngày. Lúc gần tuổi cập kê thì bị bạo tử, trong nửa ngày thì sống lại rồi kể lại câu chuyện sau: Cô bị hai người bắt dẫn đến xứ Xoa Lãnh, trên đường đi Cô thấy những người đi với mình thì có hai người đi trước bị minh dịch (lính dưới âm phủ) dùng mền đen trùm toàn thân, tiếp theo đó thì họ dùng chiếc mền hoa trùm Phật Nhi lại. Vừa tới nhà họ Trần, minh dịch bảo rằng: “Tụi bây mắc nợ nhà này nên phải vào trong ấy đền trả, riêng Phật Nhi số nợ của ngươi lên đến một ngàn năm trăm quan.” Lúc ấy bỗng có một người mặc áo xanh đến trước mặt bảo họ rằng: “Hai ngươi không biết hay sao, con bé Phật Nhi này ăn chay niệm Phật mỗi ngày, chuyên tụng kinh niệm Phật, các ngươi nên mau phóng thích nó về nhà.” Hai người ấy vâng lời, dẫn Phật Nhi đi nhanh, thì bỗng nhiên Phật Nhi trợt chân té và sống lại. Phật Nhi đem việc ấy kể hết cho phụ thân. Đến sáng ngày sau, Phật tử Trương Ngọc đến Xoa Lãnh hỏi thăm thì quả nhiên có nhà họ Trần và trong đêm vừa rồi, con chó cái trong nhà sanh được ba con chó con, hai con màu đen, một con vá. Con chó vá thì đã chết nhưng chưa đem đi chôn. Trương Ngọc là Phật tử thông giáo lý, thâm tín nhân quả, khi vừa thấy chó vá thì biết đó chính là con mình, vội vã trở về nhà đem số tiền một ngàn năm trăm quan trả cho họ Trần, nhưng dù cho Trương Ngọc nói cách nào thì chủ nhà họ Trần cũng không chịu nhận. Phật tử Trương Ngọc thành kính tạ ơn, đem số tiền ấy về, thêm vào chút ít rồi mang đến chùa làm Phật sự, cầu nguyện cho con được tiêu túc nghiệp. (Trích Nam Hải Từ Thoàn).
29. Có một người sinh viên sống tại Cao Phồn ở Lâm Giang, tỉnh Giang Tây. Lúc mới lên sau, bảy tuổi đã nổi tiếng là thần đồng, vì thông minh không ai bì kịp, lại kiêm đủ đức hiếu hạnh. Năm mươi bốn tuổi, Cao Phồn vào trường quốc học, đến lúc trưởng thành thì đậu cao. Cha mẹ sau đó cưới vợ cho Cao Phồn. Người vợ là Phàn Thị, tự Châu Thành, cô gái này sắc đẹp không ai bì nhưng tánh tình lại hung dữ chẳng ai sánh kịp. Đôi vợ chồng trẻ gần nhau chưa bao lâu thì trở thành như bà chủ đối với đầy tớ, Phàn Thị lấn hiếp Cao Phồn đủ muôn ngàn cách. Cha mẹ chồng không thể cấm ngăn nên vạn bất đắc dĩ phải cho ra riêng. Cao Phồn không chịu nổi sự khổ nhọc hành hạcủa Phàn Thị, ngày càng gầy ốm, thân thể chẳng khác gì que cũi. Mẫu thân Cao Phồn thấy thế buồn đau, ngày đêm biếng ăn bỏ ngũ, vì Cao Phồn là con trai duy nhất, lại tài đức không ai sánh bằng. Một đêm nọ, bà mộng thấy một ông già đến bảo rằng: “Con dâu của nhà ngươi là nghiệp chướng từ đời trước, Phàn Thị ngày trước là con chuột trường sanh của Hòa Thượng Tịnh nghiệp, còn con của ngươi đời trước là một sĩ tử đại tài. Một hôm nọ, người ấy tình cờ đến chùa và giết chết chuột trường sanh nên đời này ác báo ấy phải tự thọ, không thể dùng nhân lực chuyển hóa được. Chỉ có cách sớm chiều phải chí thành trì tụng Thánh hiệu Quán Âm cùng trì tụng Kinh Phổ Môn cùng Chú Bạch Y 108 biến thì chắc chắn sẽ có hiệu quả.” Khi vừa thức dậy, bà đem việc ấy thuật lại với phụ thân Cao Phồn, hai ông bà vâng theo lời dạy của ông già trong mộng, trì tụng kinh hơn hai tháng nhưng tánh tàn bạo của Phàn Thị vẫn như xưa, lại còn thêm lăng loàn hơn trước. Một ngày nọ, có một vị Hòa thượng đến địa phương của gia đình họ Cao để tuyên dương Phật pháp, mọi người đua nhau đi nghe, số đến cả ngàn người, Phàn Thị lúc ấy cũng đến nghe. Sau khi Hòa thượng giảng thuyết Phật lý xong, Ngài bước xuống Pháp tòa, bảo người mang cho Ngài một chén tịnh thủy. Sau đó, Ngài bưng đến trước mặt Phàn Thị, trịnh trọng nói rằng: “Con không nên sân hận mãi vì đời trước cũng chẳng phải hư giả, đời này cũng chẳng phải chân thật. Chao ôi! Chuột hãy chạy cho mau, đừng để mèo nó tìm được thì khốn.” Dứt lời, Ngài liên tiếp hớp nước phun vào mặt Phàn Thị khiến mặt mày và y phục của Phàn Thị đều ướt đẫm. Hàng thính chúng thấy thế đều kinh ngạc vì họ nghĩ thế nào Hòa thượng cũng bị Phàn Thị chửi mắng một trận, nhưng trái lại, cô ta lau mặt, rồi kính cẩn cúi đầu chào rồi đi về nhà. Vị hòa thượng này sau khi phun nước rồi cũng bỏ đi. Phàn Thị từ đó về sau, bổng ăn năn lổi lầm ngày trước, lại phát tâm tin Phật pháp, trì trai niệm Phật, tụng Kinh, bái Sám, v.v… và sau đó trở thành một người phụ nữ khác, xứng đáng là bậc vợ hiền dâu thảo. (Trích Liêu Trai Chí Dị).
30. Triều Nhà Thanh, Huỳnh Bá Lân ở Nguy Khương, rời gia đình đến ở Dương Châu đã nhiều năm. Bá Lân là một Phật tử kính tín Tam bảo. Trong nhà, Ông thờ Quán Âm Bồ Tát rất thành kính.Hàng ngày Ông đều xưng tụng lễ bái cúng dường và trì tụng Kinh chú. Mùa Hạ năm Ất Dậu, trong xứ nổi loạn, binh sĩ kéo đến thành Dương Châu đánh phá dữ dội. Dân chúng sợ hãi, chạy trốn khắp nơi. Bá Lân lo sợ, đến trước Thánh tượng Đại Sĩ lễ bái cầu đảo, mong Ngài cứu hộ. Đêm ấy, Ông nằm mộng thấy Đại Sĩ bảo rằng: “Nhà của ngươi tất cả mười bảy người, mười sáu người kia đều có thể khỏi nạn, chỉ một mình ngươi, vì định nghiệp không thể trốn tránh.” Bá Lân giật mình tỉnh giấc, trong tâm rất lo sợ, lại đến trước Phật đài lễ bái cầu đảo. Sau đó Ông trở về phòng, vừa nhắm mắt thì lại thấy Bồ tát đến bảo rằng: “Đời trước, ngươi chém Vương Ma Tử hai mươi sáu nhát dao nên đời này phải đền trả. Ngươi nên bảo tất cả gia đình và gia nhân chạy ra phía Đông mà lánh nạn, chỉ mình ngươi nên ở giữa nhà mà chờ đợi, đừng để liên lụy đến người nhà.” Phật tử Bá Lân thâm tín vâng lời Bồ tát dạy. Quả thật năm ngày sau thì binh sĩ kéo đến nhà, Bá Lân vui vẻ nghinh tiếp và hỏi rằng: “Trong số các vị ở đây thì vị nào là Vương Ma Tử xin cho Tôi biết, vì Tôi thiếu nợ Vương Ma Tử hai mươi sáu nhát dao, giờ đây Tôi xin sẳn sàng trả nợ, xin cứ giết Tôi.” Trong số binh sĩ đến, quả thật có người tên Vương Ma Tử, người ấy lấy làm kinh sợ hỏi rằng: “Vì sao Ông biết tên họ tôi?” Bá Lân bèn đem việc trong mộng thuật lại, Vương Ma Tử nghe xong than rằng: “Đời trước, Ông chém tôi hai mươi sáu nhát dao nên đời này tôi tìm Ông để trả thù. Nhưng đời này nếu tôi giết Ông thì cũng không tránh khỏi đời sau Ông sẽ tìm tôi để trả thù lại. Thế là trả vay, vay trả biết khi nào mới dứt nợ.” Dứt lời, Vương Ma Tử dùng sống dao chém nhẹ trên thân Phật tử Bá Lân hai mươi sáu nhát, đoạn nói rằng: “Thế là chúng ta không còn oán thù gì nữa, vì người mắc nợ và người trả nợ đã thanh toán xong.”
Phật tử Đường Nghi Chi bình luận: “Khi tôi chép truyện ngắn trên, tự thấy có ba thâm ý – thứ nhất là đức đại từ đại bi của Quán Âm Bồ Tát có năng lực hồi chuyển định nghiệp của chúng sanh – thứ hai là nghiệp nhân đã gieo từ đời trước thì đến đời này thuần thục, khó mong mà thoát khỏi – thứ ba là những quả báo đã lãnh thọ trong đời hiện tại này đều do nghiệp nhân của kiếp trước nên phải vui vẻ sẳn sàng mà lãnh thọ, không nên oán trời trách người, cũng không cần trốn tránh chi cho cực khổ. (Trích Đường Nghi Chi Kỷ Cầu Thơ).
31. Triều nhà Thanh, đứa con gái của Phật tử Lâm Tựu Khiết ở Hàng Châu, một hôm bổng mắc chứng bệnh rất lạ kỳ, miệng cứ lẩm bẩm. Khiết gạn hỏi thì đứa con gái đáp: “Ta họ Nghê, tên Thoại Lâm, người ở Dương Châu, có 50 mẫu đất bị mày chiếm đoạt. Đời trước, đứa con gái này là con người họ Lưu, làm sao thẩm sát có nhận của ta một số bạc lớn để xử vụ kiện ấy, nhưng đã không xử, lại còn giết ta chết trong ngục. Từ ấy đã sáu mươi năm ta bị hàm oan nên tìm cách đòi mạng, nhưng vì không có dịp nên đến hôm nay, ta đến đây đòi mạng vậy thôi.” Thế rồi trong miệng cô gái đó cứ lâm râm chuyện mình đến địa phủ và thuật lại những việc ở chốn Minh ty. Tựu Khiết thấy vậy, hết sức buồn rầu nhưng không biết làm sao giải quyết. Sau đó, Ông bảo con gái mình đến trước Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát lễ bái cầu đảo và phát nguyện mỗi ngày sẽ niệm thánh hiệu của Ngài ba ngàn biến để nhờ Bồ Tát giải trừ oan nghiệp. Cô gái ấy một hôm nằm mộng thấy minh dịch (lính dưới âm phủ) cho biết rõ thời gian xử án. Quả nhiên, đến thời hạn thì bị đưa đến Minh phủ. Cô gái ấy nghe thấy người tố cáo mình ăn hối lộ và giết hại mạng của ông ta nên Cô cật lực cải chính rằng người họ Nghi chết không phải do mình giết. Phán Quan bảo rằng: “Tội giết sanh mạng thì không thật nhưng tội thọ lãnh tiền tài thì thật có, vì thế ngươi cần phải đền tội. Tuy nhiên việc ấy phải đợi Diêm Vương đệ tam điện phán xử.” Trải qua ba ngày, cô gái ấy lại bị bắt đến đệ tam điện để thẩm vấn, đối diện trước Diêm vương, Cô vô cùng sợ hãi khóc lóc cầu xin tha tội. Diêm Vương phán: “Tội của ngươi tạo thì phải lãnh thọ, không thể dung tha. Nhưng Ta niệm tình ngươi có tâm sám hối và trì niệm Thánh hiệu Đại Sĩ, vậy Ta tha cho ngươi, khi trở về dương thế thì phải gắng làm lành, lánh dữ, giữ tâm thâm tín Tam bảo đừng xao lãng, phải niệm Phật, lễ sám tụng kinh tinh tấn hơn trước thì sẽ hưởng thọ cao niên.” Dứt lời, Diêm vương truyền lệnh hai quỷ đưa cô gái ấy hồi dương.
Phật tử Lục Kỳ bình luận: Xét kỹ thì thấy cô gái họ Lăng bị bệnh từ năm Quý Tỵ, nếu so với thời điểm của câu chuyện xảy ra thì đúng là sau mươi năm. Khi vị Quan huyện cho người đi kiểm tra thì đúng là có người tên Ưng Lăng, người ở Triều Dương, huyện Bảo Khánh tỉnh Hồ Quảng. Vào niên hiệu Vạn Lịch nhà Thanh, năm thứ 8 vào năm Canh Thìn, thi đậu Tiến sĩ. Sau khi thi đậu thì nhậm chức tri huyện ở Côn Sơn. Qua năm Bính Tuất, Ông đi thẩm tra ở tỉnh Tứ Xuyên. Đến năm Mậu Tý thì làm Quan Tuần Diên coi các sở muối ở xứ Tường Lô. Đến năm Kỷ Sửu, Ông làm Quan Tuần án ở Hoài Dương. Thế là trước kia trong niên hiệu Vạn Lịch, nhà Thanh năm Kỷ Sửu, Ưng Lăng đã làm Quan Tuần án, cho đến bây giờ là năm Quý Tỵ thì đầu thai làm thân nữ. Khi bị quỷ bắt đến Minh ty thì tổng cộng thời gian từ đó đến nay là sáu mươi lăm năm, đến năm Ất Mùi là sáu mươi bảy năm, mọi sự chuyển biến như vậy thật đáng ghê sợ. Tôi mong tất cả mọi người nói chung, và trong hàng Phật tử nói riêng, khi xem tích này nên sanh tâm chán ngán kiếp luân hồi của chúng sanh trong lục thú, mau tìm đường giải thoát. Nhưng muốn giải thoát thì không phải là chuyện nhỏ, cốt yếu nên vâng lời Phật dạy, nhất tâm niệm Phật, cầu về Tây phương Cực lạc thế giới, ấy là thượng sách, không có phương cách gì tốt hơn. (Trích Minh Báo Lục).
32. Chùa Linh Chi, xứ Tây Hồ là thắng cảnh duy nhất ở Ngô Việt, vì thế khách thập phương đi hành hương cũng như ngoạn cảnh, đông đúc tấp nập vô cùng. Nơi ấy, có thờ một Thánh tượng Quán Âm bằng gỗ cao bảy mét, tướng hảo đoan nghiêm, từ xưa đến nay rất là linh ứng. Tương truyền, pho Thánh tượng ấy là do một vị Tăng đi hành khất, quyên góp mà tạc thành. Sau khi Thánh tượng tạc xong thì Thầy đi nơi khác. Trải qua nhiều đời, ngôi bảo điện thờ Bồ tát theo thời gian cũng bị sụp đổ. Sau đó nền của điện lại bị một người là Tiêu Tú tài ở Hàn Châu đến chiếm cứ, vị Tú tài này là người không tin Phật pháp nên chiếm nền điện xây cất thư xá. Đã hơn mười năm mà Thầy trụ trì trong chùa không đủ năng lực để kiến tạo ngôi bảo điện trở lại nên tạm đem Thánh tượng Bồ tát đặt dưới chân pho tượng Tam Thánh trong Chánh điện. Một Phật tử từng kể lại: “Tôi trước kia có đến ở chùa này một thời gian, mỗi khi vào Chánh điện thi lễ, nhìn thấy Thánh tượng Quán Âm không nơi thờ cúng, lòng hết sức bùi ngùi, nên bàn thảo với thầy trụ trì tìm phương cách để kiến tạo lại bảo điện. Thầy vui vẻ đồng ý nên Tôi liền tự tay viết lá đơn, nói rõ nguyên do xin quyên góp để kiến tạo ngôi bảo điện. Viết đơn xong thì trước khi thầy trụ trì đi quyên góp, phải đem đến cho vị Tú tài ấy xem để thực chứng vì Tiêu Tú Tài là người quyền thế trong địa phương nhưng họ Tiêu từ chối vì lý do ứng thí khoa cử nhân chưa ổn định, vậy là sự kiến tạo bảo điện Bồ tát bất thành. Vài ngày sau trên bảng nêu tên các thí sinh trúng tuyển không thấy có tên vị Tú Tài đó mà còn mắc phải chứng bệnh lạc huyết rất nặng. Một hôm, Quảng Công Tử Khả Thành từ Hội Khê đến thăm, Tôi mời ở lại dùng cơm tối và nghỉ ngơi thì Công tử kể lại một giấc mộng rằng: năm xưa, người ấy từng nghỉ trọ tại thư xá của họ Tiêu, đêm nằm mộng thấy một thần nhân từ không trung giáng hạ bảo phải đi ngay tức khắc, nếu không sáng ngày hôm sau sẽ có đại họa. Khi thức giấc, ông cảm thấy rất bàng hoàng về giấc mộng nên quyết định ra đi. Sau khi người ấy rời khỏi thư xá, thì có một người từ phong trần đến nghỉ trọ, nửa đêm không bệnh mà bị bạo tử. Thế là đại họa ấy họ Tiêu phải mang. (Trích Quái Viên Chí Dị).
33. Cử nhân Đái Tinh Quy ở Tô Châu, là người có tánh tính lăng loàn, tạo nhiều tội ác nên tất cả dân ở xứ Ngô Việt thường gọi hắn là Đái Si. Vì có nhiều người bị hại, nên họ báo quan. Họ Đái bị Quan bắt trói, tống vào ngục, sau một thời gian ngắn thì chết. Một hôm, có một người sống tại thành Tô Châu bị bạo tử, ngày sau sống lại thì thuật lại rằng khi vừa chết thì thấy mình đến một nơi có cung điện nguy nga, giữa điện có Diêm vương an tọa, tả hữu có Phán Quan, lại có quỷ đầu trâu mặt ngựa, cầm chỉa ba bằng thép, chùy đồng đứng xếp hàng nghiêm chỉnh. Diêm Vương truyền lệnh bảo người đem họ Đái bỏ vào vạc dầu sôi. Dứt lời thì nơi bình địa bổng hiện chảo dầu đang sôi sùng sục, ngục tốt xúm lại, cầm chỉa ba đâm họ Đái để bỏ vào chảo dầu. Đái quá kinh sợ nên lớn tiếng niệm Nam mô hắc ra đát na đa ra dạ da, tức thì chảo dầu sôi bổng hóa thành những đóa hoa sen. Diêm Vương nghe vậy liền phán: “Nó có thể trì tụng chú Phật thì không thể hành hình được. Cần phải tra xét trên dương thế xem nó làm tội ác ở nhà nào thì cho lên đầu thai ở nhà ấy mà trả quả.” Vị Phán Quan ở bên tả tâu rằng: “Hạ thần biết ở tại Gia Hưng có một đồ tể làm ác đã ba đời, người này không con, vừa rồi có mời các đạo sĩ lập đàn cúng tế cầu nguyện.” Diêm Vương lập tức truyền lệnh cho Đái đầu thai trong nhà ấy. Người bạo tử kia có nhớ rõ ngày tháng nên đến gần ngày sinh thì đến Gia Hưng để hỏi thăm, quả nhiên sự việc ấy không sai một mảy may. (Trích Hiện Quả Tùy Lục).
34. Chùa Phổ Môn ở tại Linh Sơn có một vị Cao tăng, giới luật tinh nghiêm, tu hành dõng mãnh, đồ chúng của Ngài rất đông, trong đó có tám vị Tăng. Các thầy thường đến nhà của quý Phật tử gần chùa, lập đạo tràng phổ độ vong nhơn. Mỗi khi làm lễ cầu siêu, các Thầy ấy tự tiện đem ba mươi quyển Bát nhã Tâm kinh thiêu hóa thành tro, tàn tro theo gió bay tản mác tứ phương. Trong tám vị Tăng nói trên, có một vị Tiểu đầu đà, tự biết việc làm ấy không đúng nhưng chẳng dám nói ra. Một đêm nọ, Tiểu Đầu đà mộng thấy mình bị bắt đến Diêm phủ. Khi vừa đến, chú nhìn thấy một vị vương gia, ngự tên tòa cao trong ngôi bảo điện. Bảy vị Tăng trong chùa đều hiện diện và quỳ phía trước. Diêm vương hỏi: “Tại sao mấy thầy dám cả gan đem Bát Nhã Tâm Kinh ra thiêu đốt trong lễ cầu siêu? Hiện tại, các chữ kinh còn rõ ràng bị vứt bỏ trên các nẻo đường, người đi dậm đạp, làm nhơ Thánh kinh, không tội nào lớn hơn tội này.” Bảy vị Tăng ấy đều nhận tội. Diêm Vương lại hỏi Tiểu Đầu Đà rằng: “Tại sao Thầy thấy mà không chịu cản ngăn?” Thầy thưa: “Tôi mới vào chùa, không dám trái ý sư phụ, sư huynh.” Diêm Vương nói: “Trẫm tha thứ cho Thầy nhưng khi về dương thế phải bạch với Trưởng lão từ nay về sau, phải triệt để ngăn cản đồ chúng, đối với kinh điển phải hết lòng kính trọng, không nên khinh thường.” Diêm Vương lại phán: “Việc đốt Kinh Bát nhã trong các lễ cầu siêu chỉ có các vị Thánh Tăng, giới hạnh cao thì mới làm được do vì tro đó sẽ bay lên thượng giới; trái lại các phàm Tăng, giới hạnh không toàn, khi thiêu hóa một tờ kinh, giấy tro rơi xuống đất, chẳng những hoàn toàn không có công đức, lại tự mình tạo tội ác muôn ngàn. Thôi Thầy mau trở lại dương thế đi, đem lời Trẫm nói để phổ biến trong hàng Tăng tục ở mười phương, tụng Bát nhã tâm Kinh in trong các Kinh thì được, còn việc thiêu hóa để cầu siêu thì không nên làm.” Tiểu Đầu Đà khi thức dậy thì đem việc này bạch với Trưởng lão. Không bao lâu thì có bốn vị Tăng bị tử nạn, do bức tường đè chết, hai vị Tăng khác thì bị chết đuối dưới sông, vị Tăng còn lại chết vì bị Quỉ mị đè. Tiểu Đầu Đà thấy mọi sự ứng hiện như lời Diêm vương nói, từ đấy quyết tu hành tinh tấn hơn xưa, về sau chứng ngộ đạo quả. (Trích Tích Tự Toàn Biên).
35. Triều nhà Thanh, phụ thân của sinh viên Du Nguyên ở Triều Châu, tỉnh Giang Tây, bị bệnh phổi đã nhiều năm. Riêng Du Nguyên bị chứng động phong từ lúc nhỏ, đôi mắt bị tổn thương, tất cả lương y đều bó tay không có cách nào chữa trị. Nguyên cưới vợ là Hồ Thị đã ba mươi năm nhưng không có con. Hồ Thị nhìn thấy toàn gia bên chồng bị tai ách nên buồn rầu khó ăn, mất ngủ. Niên hiệu Càn Long nhà Thanh, mùa Xuân năm Kỷ Hợi, Hồ Thị họp cả gia đình lớn nhỏ, đoạn quì dưới gối cha mẹ chồng thưa rằng: “Thưa cha mẹ, từ lâu con rất buồn khổ, vì trông thấy gia đình mình, từ cha mẹ cho đến chồng của con, và anh chị em trong nhà đều bị bệnh khổ triền miên. Con tự nghĩ đây chắc là do nghiệp nhân không tốt nên chiêu cảm quả báo như thế. Vậy con mong cha mẹ cũng như anh chị em trong nhà, đồng một chí nguyện hướng về Tam bảo, ăn chay niệm Phật tụng kinh, và giữ lòng cho thanh tịnh. Ngoài việc niệm Phật tụng Kinh, tất cả nên chí thành xưng niệm danh hiệu Quán Âm Bồ Tát để sám hối túc nghiệp thì con chắc chắn, nhờ từ lực của Tam bảo minh gia sẽ chuyển khổ thành vui, chuyển nguy thành an ổn.” Cha mẹ chồng thuận theo lời khuyên của Hồ Thị mà thực hành, quả nhiên không cần thuốc thang, cả nhà bệnh hoạn đều khỏi hẳn. Du Nguyên chồng của Hồ Thị, bệnh mắt cũng được lành. Hồ thị cũng sanh một đứa con trai và mẹ chồng hưởng thọ đến tám mươi tuổi. Lúc còn sống, mẹ chồng của Hồ Thị bị bệnh lạc huyết rất nguy kịch, Hồ Thị đã đến trước Thánh tượng Quán Âm Bồ Tát, huyết lệ tuyên rơi, nhất tâm cầu đảo Bồ Tát xin cho bệnh của mẹ chồng mau khỏi. Mẹ chồng của Hồ Thị trong lúc hôn mê bất tỉnh, phảng phất thấy một bà già đứng trước giường bệnh và nói: “Không hề gì đâu. Ta bảo đảm bệnh ngươi sẽ khỏi.” Quả nhiên, trong vòng vài ngày, mẹ chồng Hồ Thị khỏi hẳn chứng bệnh ấy. Từ đó về sau, gia đình họ Du tụng Kinh niệm Phật rất chuyên cần, và mỗi năm cho người ấn tống kinh Phổ môn và phát cho người trì tụng. (Trích Nam Hải Từ Thoàn).
36. Triều nhà Thanh, có người sinh viên tên Kim Hoàng, ở huyện tỉnh Triết Giang, tánh tình hiền hậu và chí hiếu. Vào niên hiệu Khang Hy, năm thứ 6, ngày 21 tháng 7, Hoàng nằm mộng thấy Tường Y Tiên nhân đến bảo rằng: “Ngươi có túc nghiệp nên ngày này năm sau sẽ bị Thiên lôi đánh.” Hoàng giật mình thức dậy, nhớ lại lời của Tiên Ông dạy, vô cùng lo sợ. Nhưng do Hoàng là đứa con sống trong gia đình Phật tử, kính tín ngôi Tam bảo, hiểu rõ lý nhân quả, nên hàng ngày đến trước Phật đài, cầu xin sám hối tội lổi, tiêu trừ nghiệp chướng. Ngoài giờ lễ sám tụng Kinh, thì cầu Bồ Tát gia hộ. Năm sau, vào ngày nói trên đúng lúc bầu trời quang đãng, Hoàng bỗng thấy không trung mây đen bủa khắp tối tăm, tự biết không thể nào tránh khỏi túc nghiệp như lời Tiên Ông đã nói. Việc trả quả, Hoàng vui lòng nhưng điều Hoàng hết sức lo buồn là còn mẹ già ở lại, không người phụng dưỡng, dù anh chị em có đông nhưng những người ấy không lo được cho mẹ. Hoàng vội đến dưới ngôi phù đồ ở núi Vân Bút, quỳ trước bảo tháp, chắp tay thành kính xưng niệm Thánh hiệu Quán Âm. bỗng một trận cuồng phong bão nổi dậy, sấm sét đùng đùng vang trời, lúc ấy tất cả gia nhân đều hốt hoảng khóc than, vì họ tin rằng thế nào Hoàng cũng sẽ chết dưới lưỡi tầm sát của Thiên lôi, nhưng trận mưa dông vừa chấm dứt thì cảnh trời trở lại quang đãng. Mọi người kéo nhau đến ngôi phù đồ thì thấy Kim Hoàng vẫn chấp tay ngồi thẳng như nhập thiền định, mọi người mừng rỡ muôn phần, đỡ Hoàng đứng dậy, đưa về nhà. Hoàng lúc ấy kể lại: “Lúc tôi đến quì trước bảo tháp thì chuyên niệm Thánh hiệu Quán Âm, Tôi cảm thấy an ổn như ngủ và thấy Quán Âm Đại Sĩ tay cầm nhành liễu tưới nước cam lồ trên thân. Ngài lại cầm chiếc gương báu chiếu vào thân tôi rồi bỏ đi. Khi ấy tôi như người trong giấc mộng thức dậy.” Từ đấy, thân mẫu Kim Hoàng cùng tất cả gia nhân, tín tâm với Phật pháp càng mãnh liệt, nhất là với Đại bi Quán Thế Âm Bồ Tát, lòng tin càng triệt để. Mỗi ngày hai thời, việc tụng niệm không biếng trễ và chuyên lễ bái cúng dường Đại sĩ để ghi nhớ thâm ân hồi sanh cứu tử cho Kim Hoàng. (Trích Hồ Duy Tập ký).
37. Triều nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy, vào năm thứ 5, có một nhóm người ở Tây Dương đến Phổ Đà Sơn tạm trú khoảng nửa tháng, thì thừa dịp này, lén vơ vét hết bảo vật trong chùa như các bức tượng đồng thếp vàng và tràng phan bảo cái, v.v… Sau đó, họ mang sang Nhật bản bán, lấy được số tiền trên hai trăm lạng vàng. Nhóm người ấy khi chuẩn bị về bổn quốc, thuyền vừa ra biển thì phát hỏa. Tất cả đều bị chôn thân trong biển lửa. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).
38. Triều nhà Thanh, niên hiệu Khang Hy, vào năm thứ 11, đầu năm Nhâm Tý, có một toán binh sĩ đông đến cả ngàn người, đi trên các chiến thuyền, đến đậu tại Lạc Gia (tức Phổ Đà). Họ ghé vào bảo điện thờ Quán Âm Đại sĩ, dù nơi đây là chốn thanh tịnh trang nghiêm nhưng các binh sĩ đó không một chút kiêng dè, mang cả giày dép đi vào trong bảo điện như đang đi ngoài đường, lại còn nói cười, ca hát tự do như ở chốn đồng hoang. Lúc họ vào thì bình yên vô sự, nhưng khi trở ra thì bỗng có độc xà gần mười thước xuất hiện ngay cửa, hả miệng hà hơi độc, và bắn những chiếc lông nhọn trên mình vào đám lính ấy. Cả bọn hãi hùng, kêu la tìm đường chạy trốn nhưng lúc ấy, tình thế lại càng nguy hiểm hơn vì có một đàn chó khổng lồ từ đâu không biết nhảy ra bao vây đám binh sĩ. Đám binh sĩ lúc này không có phương nào chạy trốn, bị bầy chó dữ lao đến, cắn xé như chó săn gặp thú rừng. Bọn chúng lớp chết, lớp bị thương rất nhiều. Dân chúng đương thời cho rằng đó là do Hộ pháp cảnh cáo bọn quân nhân vô đạo. (Trích Phổ Đà Sơn Chí).
39. Tại Thạch Bồ Trầm ở Giang Tô, tỉnh Côn Sơn, có một điện đường thờ Quán Âm Đại Sĩ, nơi đây phong cảnh rất tịch mịch và thanh lương. Vào niên hiệu Khang Hy, năm đầu nhà Thanh, có vài người trong làng mang thỏ vào điện đường làm thịt để nhậu. Sau khi giết thỏ, chuẩn bị đem chiên xào thì không có dầu. Lúc ấy, một người chỉ lên chiếc đèn lưu ly dầu phọng đang thắp trên bàn thờ Phật rồi tự tiện lên lấy đổ dầu vào chảo để xào thịt thỏ. Sau khi ăn nhậu xong, thì đôi mắt bọn chúng bỗng nhiên bị mù, muốn đi vài bước cũng không được. Những người quen biết liền đến nhà báo tin cho gia đình biết, vợ con đến dẫn về thì chỉ trong vài ngày sau thì chết. (Trích Âm Chất Văn Giảng nghĩa).
40. Nhược Am Lục Sư ở chùa Bạch Tước, xứ Triều châu. Hòa thượng phát nguyện kiến tạo lại ngôi bảo điện để thờ Quán Âm Bồ tát nhưng lúc chưa hoàn thành ngôi bảo điện thì tài chánh đã hết nên không thể xây thêm bốn bên hành lang. Lúc bấy giờ, có người Phật tử họ Phan nghe tin, vội mang đến hai mươi lượng vàng cúng dường để hoàn thành công việc này, nhưng lúc ấy, do Tăng chúng trong chùa rất đông, không có chổ để ăn uống, nên Hòa thượng bèn đem số vàng ấy cất một dãy nhà vệ sinh. Về sau, Phật tử họ Phan đến hỏi thì Ngài đáp: “Tôi đã đem số vàng ấy làm việc công đức khác cần thiết hơn, nên việc xây thềm tam cấp xung quanh bảo điện chưa làm được. Tôi định sẽ tìm số tiền khác để hoàn thành bổn nguyện của thí chủ.” Phật tử họ Phan vừa nghe xong thì trong lòng không được vui, Ông không nói một lời, lặng lẽ bỏ đi. Không bao lâu thì Hòa thượng lâm bệnh qua đời nên việc hoàn thành bảo điện bị bỏ dở. Sau một thời gian, tự dưng chú Sa di trong chùa bỗng mắc bệnh điên, hung hăng đập phá trong chùa, nên người Trụ trì buộc phải trói chú trong một biệt thất, vài giờ sau đã thấy Sa di đi ra. Thấy vậy các Thầy hỏi: “Ai mở trói cho Ông?” Chú liền đáp: “Nhược Am Hòa thượng mở trói cho tôi chứ ai!” Mọi người đều nói rằng Chú nói láo thì ngay lúc ấy thì vị Lục Sư quá cố liền nhập vào thân Sa di nói rằng: “Mấy ông đừng nói Tiểu Sa Di nói láo, sự thật chính tôi đã mở dây cho nó. Nhân tiện đây, Tôi cũng xin thú nhận đã dùng tiền của một thí chủ cúng dường xây thềm đá ở đại điện Quán Âm để xây nhà vệ sinh, nên từ ngày Tôi xả báo thân, chẳng những không được siêu sanh Phật quốc mà còn bị đọa xuống Minh phủ, bị Diêm Vương cật lực quở trách, lại phán quỉ tốt ngày ngày lấy đá đè lên thân, sự đau khổ ấy Tôi không thể dùng lời tả xiết. Vậy Tôi mong tất cả đồ chúng nghĩ tình Sư đệ, mau mau quyên góp tiền, mua đá rửa thật sạch, mướn người xây tam cấp để công việc bảo điện được hoàn thành. Hàng ngày, xin huynh đệ vân tập lên Chánh điện, chí thành trì tụng Phạm Võng Bồ Tát Giới Kinh thì chắc Tôi sẽ được thoát khổ.” Trong chúng có một vị cao tuổi đứng ra hỏi: “Kính bạch Tôn Sư, vì sao Tôn sư lại dựa vào chú Sa di này?” Cố Hòa thượng đáp: “May mắn cho Tôi vì trên đỉnh đầu của Sa di này không có quang minh, nên Tôi mới mượn được thể xác của nó để truyền tin.” Dứt lời thì cố Hòa thượng trong xác Sa di buồn khóc nghẹn ngào, đoạn nói tiếp: “Các vị có biết không, nếu Tôi không mượn xác của Sa di nhỏ này thì chắc thọ khổ không biết lúc nào mới ra khỏi.“ Đồ chúng biết Thầy mình bị đọa nên nhiều vị thương cảm, ngã xuống đất khóc mà nói không ra lời. Sau đó, tất cả cùng nhau lo xây tam cấp để ngôi bảo điện được hoàn thành. Trải qua hơn một tháng thì Nhược Am Lục sư xuất hồn mà đi, bấy giờ Tiểu Sa Di trở lại tình trạng thanh tịnh như trước. (Trích Hệ Quả Tùy lục).
41. Triều nhà Thanh có người tên Khưu Lổ, huyện Lâm Xuyên, tỉnh Giang Tây, đã ngoài bốn mươi tuổi mà vẫn chưa có con. Vào niên hiệu Uông Chánh, năm Ất Mẹo, vào một hôm nọ, Khưu Lổ may mắn gặp được Kinh Phổ Môn nên vui mừng phát tâm trì tụng để cầu con. Quả nhiên, hai năm liên tiếp sanh được hai đứa con trai, nhưng sau khi có con thì tín tâm Ông lại thối lùi, tự cho rằng có con là lẽ tự nhiên, không phải do thần lực Bồ tát gia hộ. Đến năm Đinh Tỵ và Mậu Ngọ, hai trẻ ấy liên tiếp bị yểu số. Khưu Lổ giật mình tỉnh ngộ, biết ác nghiệp nghi ngờ trước đây là điều đại tội nên Ông đến trước Thánh tượng Đại Sĩ, chí thành lễ bái sám hối và cầu Ngài từ bi chứng giám, rồi phát nguyện ấn tống Kinh Phổ Môn, sau khi phát nguyện thì theo bổn nguyện mà thực hành. Đến năm Canh Thân, vợ Ông là Nhan Thị mộng thấy Đại Sĩ nhan diện hoan hỉ, Ngài mĩm cười bồng theo đứa trẻ rồi để nơi giường và bỏ đi. Quả nhiên sau đó Nhan Thị sanh được một nam tử. Một năm sau đó, Nhan Thị cũng mộng như trước và lại sanh tiếp một nam tử nữa. Từ đó, vợ chồng Khưu Lỗ hết lòng thâm tín Đại sĩ, hàng ngày mai chiều lễ niệm, và trì tụng kinh Phổ Môn không ngày nào thiếu sót. (Trích Nam Hải Từ Thoàn).
42. Triều nhà Thanh, Ca Bang Việt là người ở tỉnh An Huy, đã đến tuổi tứ tuần nhưng không có con. Cháu của Ông là Ca Khởi Nguyên khuyên Ông rằng: “Tụng Kinh Phổ Môn, cầu con rất linh nghiệm. Chú đã lớn tuổi, chưa có con kế tự, sao không đọc tụng kinh này.” Bang Việt nghe xong thì liền nói: “Chú cũng tin như thế nhưng hiện tại không có Kinh ấy.” Khởi Nguyên thưa: “Cháu xin đi thỉnh cho Chú một quyển, nhưng Cháu xin thưa trước, việc tụng kinh phải chí thành mới có kết quả. Lại nên phải nguyện trì tụng ít nhất một tạng và ấn tống kinh ấy, rồi phát cho mọi người đọc tụng, như thế mới mong thêm tiêu trừ nghiệp chướng, tăng thêm phước báu.” Vào niên hiệu Khang Hy, năm Tân Dậu, vợ chồng Bang Việt đồng phát nguyện hàng ngày trì tụng, nên liên tiếp sanh hai đứa con trai, nhưng chỉ vài năm sau thì hai đứa trẻ ấy bị yểu số. Vợ chồng tự hối trách về lổi xao lãng, vì họ chưa ấn tống Kinh Phổ Môn cho người trì tụng, năng lực công đức kém ít, nên mới xảy ra việc như thế này. Ngày Nguyên Đán năm Ất Sửu, hai ông bà liền đến trước Phật đài, chí thành lễ bái cầu đảo, nguyện Phật chứng minh gia hộ, nếu sanh được đứa con trai khác thì nguyện sẽ ấn tống ba ngàn quyển Phổ Môn. Quả nhiên đến tháng 11 năm ấy, họ sanh được một đứa con trai, đặt tên là Phật Tứ. Bấy giờ, hai ông bà không dám khinh suất như ngày trước, họ vội xuất tiền, in Kinh ấn tống thực hiện bổn nguyện. Đứa bé ấy lớn lên rất dễ nuôi, khôn ngoan và chí hiếu. Từ ấy, hai ông bà tu hành rất tinh tấn. (Trích Nam Hải Từ Thoàn).
43. Phật tử Trí Ông là một người cự phú ở Tô châu, tuy sống trong cảnh giàu sang sung sướng nhưng với tiền bạc, ông lại xem thường như đất đá. Ông chỉ ưa thích việc làm trọng đạo nghĩa, nhất là hạnh bố thí. Trên bốn mươi tuổi, Ông mới sanh được một đứa con trai, đặt tên trẻ ấy là Hoàng. Một hôm, ông mang ba trăm lượng vàng đến chùa Hoa Nghiêm, xứ Hổ Khâu, để trùng tu đại điện thờ Quán Âm Bồ tát. Khi vừa đến chùa, Trí Ông bỗng nghe tiếng khóc than bên hồ Kiến Trì, ông vội chạy đến xem thì thấy không ai xa lạ, chính là người họ Quế, bạn đồng học của Ông lúc nhỏ. Trí Ông gạn hỏi lý do và biết được người ấy vì mắc nợ quá nhiều, bị chủ nợ bức bách nên định đến hồ này kết liễu cuộc đời. Trí Ông vào chùa, mở lấy ba trăm lạng vàng trao cho họ Quế. Họ Quế cúi đầu cảm động, bèn đến trước tượng Đại Sĩ phát thệ rằng: “Cầu xin Bồ tát chứng minh gia hộ cho con, mang thâm ân của Trí Quân, cứu tử hồi sanh, nêu đời này không thể đền đáp, nguyện sanh làm chó ngựa, trở lại trả nợ cho Ngài.” Trí Ông an ủi: “Anh cứ yên tâm, đem số tiền này về lập nghiệp sinh sống, chúng ta là bạn từ thuở bé nên việc trả lại khi nào cũng được, xin Anh đừng bận lòng.” Trí Ông sau đó trở về nhà, mang đến đủ số vàng như trước trở lại chùa, cầu xin Trụ trì trong chùa lo việc trùng tu bảo điện Quán Âm cho mãn nguyện. Trí Ông lại đem khu vườn trồng táo độ hai, ba mẫu biếu cho họ Quế để lập gia nghiệp. Năm đó, nhà họ Quế sanh một con gái nên ước hẹn sẽ kết thông gia. Không bao lâu, trong lúc dọn vườn ở gốc cây táo, họ Quế đào được lu vàng trên ngàn lượng do phụ thân của Trí Ông đã chôn. Nhờ duyên may này mà họ Quế dần trở thành triệu phú, xây cất nhà ngang dãy dọc, tậu ruộng vườn rất nhiều. Trái lại, gia đình Trí Ông ngày càng sa sút, hai ông bà lại lần lượt tạ thế nên bấy giờ, đứa con trai tên Hoàng trở thành trẻ mồ côi không nơi nương tựa. Họ Quế nghe vợ là Tôn Thị thuật rõ tình cảnh hiện tại của Hoàng nên Ông ta sợ đến đòi món nợ ngày trước, bèn toan tính việc phản bội lời đính ước với Trí Ông trước đây. Ông ta dời cả gia đình đến Hội Kê lập gia nghiệp khác, ngôi nhà đồ sộ đang ở thì sang lại cho người khác. Hoàng nghe nói họ Quế dọn đến Hội Kê nên nghĩ thế nào họ cũng nghĩ lại nghĩa xưa với cha mình nên đến Hội Kê tìm nhà họ Quế. Bất hạnh cho đứa trẻ ngây thơ, khi vừa đến nhà gặp họ Quế thì Quế giả như người tai điếc, mắt ngơ không biết đến tên. Hoàng quá ngây thơ không biết được lòng người điên đảo nên đem sự thật hoàn cảnh của mình tỏ bày với Quế. Quế vẫn lắc đầu làm ngơ đáp: “Tôi không biết sự việc này.” Hoàng nhắc lại việc mượn ba trăm lạng vàng của cha mình, bấy giờ Quế lại dở trò tàn nhẫn bảo: “Ngươi mau ra khỏi nhà này, đừng nhiều lời lôi thôi, nếu không Ta sẽ gọi nhà hữu trách đến trừng trị”. Vì món nợ ấy không có một tờ giấy làm chứng nên Hoàng vừa nghe những lời bạc ân của họ Quế thì cúi đầu nuốt lệ, ngậm hờn mà ra đi. Qua năm sau, họ Quế lại vào Kinh đô toan tính chuyện làm ăn lớn, hợp tác với người nhưng người gian ác tất gặp kẻ ác gian. Quế mua phố lầu làm ăn được thời gian ngắn thì bị người lừa gạt, tài sản hao hơn phân nửa, sau đó lại bị chiếm đoạt luôn nhà phố. Bấy giờ Quế ở kinh đô như lữ khách không nơi nương tựa. Một đêm nọ, trong lúc nghĩ trọ ở nhà người, suốt đêm trằn trọc không ngủ được, khi vừa thiu thiu ngủ thì thấy mình đi đến một ngôi nhà đồ sộ, cửa nẻo đóng kín chỉ có một lổ trống bên cạnh. Quế dùng hai tay chống xuống đất chui vào thì thấy ở nhà trên, đèn lớn sáng trưng, có một lão Ông ngự nơi bàn án. Quế nhìn kỹ thì chính là Trí Ông. Quế vô cùng hổ thẹn, muốn đưa tay lên vái chào nhưng hai tay bị dính chặt dưới đất không thể giơ lên, Quế bò ra vườn sau thì thấy vợ mình và hai con đều hiện diện ở đó. Nhìn kỹ thì tất cả đều là hình dáng chó chứ không phải là người, ngó lại bóng mình cũng đã hóa thành chó. Quế quá kinh hãi nên hỏi nguyên do. Ôn Thị nói: “Ông không còn nhớ lời thề ở trước Quán Âm Đại Sĩ hay sao? Bấy giờ còn hỏi lại làm chi?” Quế giật mình thức dậy thì biết đó là giấc mộng bèn vội vã sắp xếp hành trang trở về Hội Kê. Vừa về đến nhà thì nhìn thấy trong nhà có hai chiếc quách, trên bàn có bài vị của hai đứa con mình, Quế hãi hùng bước vào trong thì thấy Vợ cũng đang bị bệnh nguy ngập sắp tắt hơi. Quế đứng bên cạnh gọi lớn thì vợ ông bỗng mở mắt, nhưng lạ lùng là người vợ của Quế cất giọng hỏi Ông bằng giọng của đứa con trai lớn: “Tại sao hôm nay Cha mới về, quá chậm trễ như vậy? Gia đình Ta phụ ơn bội nghĩa nhà họ Trí, nên Minh vương căn cứ vào lời thề của Cha ngày trước phạt ba người là Mẹ và anh em chúng con đến sáng ngày mai sẽ đến nhà họ Trí đầu thai làm chó. Trong ba con chó đó có hai con đực chính là anh em chúng con, con chó cái trên lưng có bướu chính là Mẫu thân. Riêng phần Cha, đến tháng 8 mùa Thu năm nay, cũng sẽ làm chó nhà họ Trí để trả lại lời thề trước. Chỉ có em gái của con thì được khỏi nạn ấy mà thôi vì trên thiên đình cũng như Âm phủ đều đã định nó cùng với đứa con trai nhà họ Trí làm vợ chồng.” Đứa con trai nói mấy lời ấy xong thì thần thức rời khỏi thân xác. Quế nghe những lời nói vừa rồi thì hoàn toàn ứng hợp với giấc mộng, nhưng cố gắng không nghĩ đến để lo việc tẩn liệm thi hài của vợ và chôn cất hai con. Họa vô đơn chí, nhà Quế lúc ấy đột nhiên bị hỏa hoạn nên tử thi của vợ và hai con đều cháy rụi. Bấy giờ họ Quế cùng với đứa con gái ngây thơ không một nơi nương tựa, dắt nhau đến Tô châu, hỏi thăm tin tức con trai họ Trí, thì được biết Hoàng đã thi đổ cao và được Triều đình tuyển dụng làm Thượng Thư Bộ Lễ. Chàng cũng đã cưới con gái của Quan Bố Chánh làm vợ. Cha con của Quế vừa tới trước tư dinh của Thượng Thư thì người gác cửa không cho vào, Ông ta thẹn thùng ân hận muôn phần. Hai ba phen khẩn thiết xin vào yết kiến Quan Thượng thư nên người gác cửa bèn vào bẩm lại. Thượng Thư họ Trí liền cho mời vào ngay tức khắc. Khi cha con Ông vừa vào thì ba con chó đột nhiên cũng từ lổ vách chạy ra, Quánh quẩn bên chân cha con họ Quế và kêu la rất buồn thảm. Họ Quế nhìn kỹ trên lưng con chó cái thì quả nhiên có cái bướu. Lòng Ông đau như cắt, đứng trước Quan Thượng thư, tuôn trào nước mắt, lễ bái và thuật lại hết nguyên do. Cuối cùng Ông nói: “Hiện giờ gia sản tan tành, cha con tôi không nơi nương tựa, vạn bất đắc dĩ phải đến đây, xin Quan lớn nhận đứa con gái này làm tỳ nữ cho phu nhân. Tôi cũng xin được vào hàng nô bộc của Quan lớn, nguyện trọn đời đem sức lực của mình hầu hạ cho Ngài, chỉ ước mong sao cho khỏi báo thân làm chó là mãn nguyện rồi.” Thượng Thư họ Trí nghe qua thì vô cùng xúc động, mắt ngấn lệ, rồi an ủi cha con họ Quế rằng: “Bác và Tiểu thư cứ an tâm ở nơi đây, Tôi sẽ cung phụng đầy đủ.” Đêm ấy, họ Quế nằm mộng thấy vợ con mình đến cung kính tạ ơn nói rằng: “May mắn là lang quân đã biết ăn năn tội lổi nên song thân của Quan Thượng thư họ Trí đã vì lang quân mà xin cho chàng khỏi thọ thân làm chó, mà Mẹ con tôi cũng được thoát thân súc sanh đê tiện này rồi.” Quả nhiên đến sáng, Ông nghe tin ba con chó đêm vừa rồi đều chết. Cha con họ Quế ở lại tư dinh của Quan Thượng Thư, trải qua hơn một năm thì Quế không hề bệnh hoạn chi và thoát khỏi hẳn quả báo súc sanh. (Trích Tự Cầu Tập).
44. Vương Kiến ở Ngô Môn là người tánh tính hiền hậu lại chí hiếu, đặc biệt có tánh cẩn thận. Một hôm nọ, không bệnh hoạn gì nhưng vào lúc ban ngày bổng ngã ra chết. Thần thức Ông theo một vì thông lại mặc áo xanh đến Minh phủ. Đến nơi, Ông nhìn thấy một cung điện nguy nga, ở giữa có Diêm Vương ngồi thẩm vấn các tội nhân. Khi hỏi đến Vương Kiến thì mới biết là quỷ sứ đã bắt lầm, vì người phải bắt cũng là Vương Kiến nhưng ở Sơn Đông, chứ không phải Vương Kiến ở Ngô Môn. Diêm Vương quở trách vị thông lại rồi bảo người dẫn Vương Kiến hồi dương. Kiến vừa ra khỏi điện thì thấy địa ngục lửa cháy rần rần, khói đen mịt trời, tiếng la hét kêu gào của tội nhân như sấm vang. Lại trông thấy có ba vị Lão tăng ngồi kiết già trên cành đại thọ, mỗi khi tiếng khóc la của tội nhân ngục tù vang dội thì ba Ngài dùng tịnh thủy rưới, âm thanh ấy tức thì tạm dừng. Kiến đến gần hỏi thăm thì Phán Quan cho biết: “Ông không nên cho rằng ba Ngài là lão Tăng tầm thường, đây chính là ba vị Đại sĩ Quán Âm, Phổ Hiền và Địa Tạng.” Ông nhìn quanh thì thấy có một ngườiHòa thượng quen với mình ngày trước. Ngài ở dưới Minh Phủ, mặc áo cà sa, cầm tích trượng như lúc sanh tiền từng dự vào việc cứu khổ tội nhân đọa địa ngục. Sau khi Vương Kiến hồi dương liền viết lại một chương Hồi ký, mướn thợ khắc bản in ấn, phổ biến khắp nơi, mong mọi người hồi đầu bỏ dữ theo lành, hướng về Tam bảo, ăn chay niệm Phật để thoát khỏi hậu báo ở Diêm đình. (Trích Hệ quả tùy lục).
45. Triều nhà Thanh, vào niên hiệu Khang Hy, năm thứ 33, lúc tháng Giêng, có một người họ Lý ở xã An Đông, huyện An Tước, bổng nhiên mắc bệnh điên, luôn nói mê sảng. Tất cả việc mình làm lúc bình sanh đều nói ra, có khi tự mình nói, có khi thần nhân nói. Trên giữa không trung người ta nghe có tiếng nói rất rõ, mọi người hỏi thì Lý đáp: “Đó là người xem sổ bộ án.” Trong sổ bộ ấy thuật lại một việc là con gái họ Vươngđược gả cho một người nhưng vì thấy hai vợ chồng bất hòa nên họ Lý xúi giục ly dị để giới thiệu gả cho người ở Tây Hoa. Người con gái họ Vương nghe tin ấy liền bỏ nhà trốn đi, nhưng sợ người hàng xóm biết nên cô cải trang xen lẫn trong nam tử, đi lang thang không nơi nương tựa, phần thì buồn rầu lo sợ không yên nên sanh bệnh, trải qua chín ngày thì lìa đời. Đọc sổ bộ án xong thì nghe có tiếng người hỏi: “Họ Lý có việc lành gì đáng ghi không?” Tiếng ở không trung đáp lại: “Ngày ấy, tháng ấy, năm ấy nó có tu bổ điện thờ đức Quán Âm.”Lại nghe tiếng Minh Quan nói: “Tội nhân này đáng lẽ bị trời tru lục, nhưng do chút phước lành ấy nên cho nó hồi dương và bảo phải đem việc Minh phủ tuyên truyền cho người thế gian biết.” Sau khi họ Lý tỉnh lại, thì đi khắp mọi nơi kể lại rằng: “Dưới Minh phủ không giống dương gian, mọi việc có không được thẩm xét rõ ràng không sai một mảy may, nên người đã tạo tội không cách gì lẩn trốn.” rồi cật lực tuyên truyền khắp trong thế nhân, khuyên người cố gắng bỏ dữ làm lành, dù chỉ là một ác niệm cũng không nên móng khởi vì chư Thần mỗi mỗi đều thấy rõ và ghi chép lại. Từ đây, họ Lý hoàn toàn tỉnh ngộ, hồi đầu, phát tâm tín kính Tam bảo, ăn chay lễ sám, tụng Kinh, niệm Phật cho đến lúc già vẫn khỏe mạnh. Đến ngày cuối cùng, không bệnh khổ, an nhiên niệm Phật mà tạ thế. (Trích Âm Chất Văn Tân Biên).