Như quý Phật tử đã biết, khi nói đến niệm Phật tức là tâm chúng ta nhớ nghĩ đến Phật chớ không phải chỉ có niệm Phật nơi miệng, vì vậy phương pháp niệm Phật bao gồm ba cách. Đó là trì danh niệm Phật, thật tưởng niệm Phật và quán tưởng niệm Phật. Trong phạm vi cuốn sách này chúng tôi chỉ bàn đến trì danh niệm Phật. Đây là phương pháp chuyên trì niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà.
Phương pháp trì danh niệm Phật rất dễ hành trì, bất luận là Thượng, Trung hay Hạ trí đều thực hành được cả. Khi phát tâm chuyên niệm danh hiệu Phật, công phu lâu ngày thuần thục, cho đến khi đạt đến nhất tâm bất loạn thì chứng được Niệm Phật Tam Muội. Hiện nay, phương pháp trì danh niệm Phật được phổ biến khắp nơi trên thế giới, hàng Phật tử không ai là không biết niệm sáu tiếng “Nam mô A Di Đà Phật”. Phương pháp niệm Phật hễ có tu thì có thành, rất thích hợp với mọi căn cơ. Nếu so tính thì số người được lợi ích nhờ phương pháp trì danh niệm Phật chiếm trên 80% so với người tu Thiền hay tu Mật. Theo kinh điển, thì đạo lý của pháp trì danh niệm Phật hàm chứa tinh ba của hết thảy các pháp môn khác, nếu bàn đến hiệu quả thì không một tông phái nào có thể sánh kịp.
Trì danh hay niệm Phật tức là tâm niệm, miệng đọc sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật”, hoặc có nơi chỉ đọc bốn chữ “A Di Đà Phật”. Về nghĩa lý của sáu chữ “Nam mô A Di Đà Phật”, quý Phật tử chắc đã nắm rõ, nên chúng tôi không bàn ở đây nữa. Người tu pháp môn trì danh niệm Phật thường căn cứ vào 48 đại nguyện của đức Phật A Di Đà và nhất là các điều nguyện thứ 18, 19, 20 mà xưng niệm danh hiệu ngài, vì trong mỗi lời nguyện này, đức Phật A Di Đà từng phát nguyện, hễ ai niệm danh hiệu ngài, lúc lâm chung sẽ được ngài tiếp dẫn về nước Cực Lạc. Do vì để thích hợp với mọi hồn cảnh, mọi căn cơ, mọi tâm niệm, nên cùng một việc niệm Phật, nhưng được chia ra nhiều phương pháp khác nhau. Mỗi phương pháp niệm Phật có tác dụng đặc biệt riêng của nó, người học Phật nên chọn cho mình một cách niệm Phật thích hợp với căn cơ, hồn cảnh của bản thân để hành trì.
Vì đây là chương nói về phương pháp trì danh niệm Phật tương đối đặc biệt. Do vậy trước khi bàn đến nội dung Chân thật niệm Phật Cực lạc hiện tiền, chúng tôi xin nêu ra một vài phương pháp niệm Phật thông dụng để quý Phật tử tham khảo và thực hành. Xin nói thêm, nếu quý vị muốn tìm hiểu kỹ hơn về các phương pháp trì danh niệm Phật, thì có thể tìm đọc cuốn Nhất tâm niệm Phật – Quyết định vãng sanh, chúng tôi đã biên soạn rất kỹ nội dung này.
1. Lễ bái niệm Phật: Nghĩa là đồng thời trong khi miệng niệm Phật thì thân lạy Phật, hoặc niệm xong một câu thì lạy một lạy, hoặc bất kể miệng niệm nhiều hay ít, hễ cứ miệng niệm Phật thì thân lạy Phật, thân lạy Phật thì miệng niệm Phật.
Có niệm có lạy liên tục nên khiến cho thân khẩu hợp nhất, đồng thời trong lúc ấy, ý chỉ nghĩ đến Phật nên cả tam nghiệp thân – khẩu ý cùng tập trung, sáu căn đều thâu nhiếp. Như vậy, tồn bộ thân tâm cùng hết thảy các giác quan đều quy về một mối, không còn có chỗ hở nào cho trần sự chen vào, cũng không có một tâm niệm nào khác làm chao động tâm niệm tưởng Phật, nhớ Phật.
Muốn áp dụng phương pháp này, phải đặc biệt tinh tấn. Hiệu lực của nó cũng đặc biệt lớn lao. Duy chỉ có điều, nếu lễ bái quá nhiều thì sinh nhọc sức, phí hơi thở, người yếu không làm nổi. Vậy chỉ nên kiêm dụng với các phương pháp khác, chứ không nên chuyên trì duy một phương pháp này, sợ e mất sức và sanh bệnh.
2. Niệm từng loạt mười niệm (sổ thập): Khi niệm dùng chuỗi hạt để ghi số loạt, cứ mỗi loạt mười câu. Sự ghi số có nhiều cách: Hoặc mỗi lần niệm được mười câu thì lần một hạt, hoặc niệm ba câu một hơi, làm như vậy ba lần, đến câu tiếp thì lần một hạt chấm câu, hoặc ba câu một hơi, rồi hai câu một hơi nữa, như vậy hai lần rồi lần một hạt. Như vậy, là cứ mỗi khi lần một hạt chuỗi tức là đã niệm xong mười niệm. Phương pháp này bắt buộc tâm hành giả vừa niệm Phật, lại vừa phải nhớ số câu niệm, cho nên dù tâm không chuyên, buộc cũng phải chuyên. Nhờ có sự cưỡng bức ấy mà đối trị được các tạp niệm lăng xăng, tâm trở nên chuyên nhất. Thật là một phương pháp hay và rất thích nghi với những người nào mà tâm niệm quá chao động.
3. Niệm đếm theo hơi thở (sổ tức): Niệm mà không kể số danh hiệu Phật niệm được nhiều hay ít, chỉ dùng hơi thở làm chừng. Bắt đầu thở ra thì niệm cho đến khi hết hơi thở, nghỉ niệm mà hít hơi vào. Khi thở ra lại, tiếp tục niệm như trước. Cứ mười lần như vậy, thì gọi là mười hơi niệm.
Phương pháp này sở dĩ thiết lập ra đặc biệt dành riêng cho những người quá bận rộn, tiện cho sự thực hành hằng ngày. Chẳng hạn như, mỗi ngày sáng sớm ngủ dậy, sau khi rửa mặt súc miệng xong, day mặt về hướng Tây hoặc hướng trước Phật đài, bỏ ra năm phút là niệm xong mười hơi. Công việc không khó, như người tập thể thao làm những cử động hô hấp. Nếu ngày nào cũng chuyên cần như vậy, thì cũng nhất định được vãng sanh.
Đây là căn cứ theo đại nguyện thứ 18 của đức Phật A Di Đà (xem trước) mà thiết lập phương pháp này. Các vị cổ đức nghiên cứu và tu tập phương pháp thập niệm, chính là phương pháp niệm theo mười hơi thở này.
4. Niệm theo thời khóa nhất định: Điều tối kỵ nhất trong pháp niệm Phật là lúc bắt đầu thì hăng hái còn về sau lại dải đãi. Sở dĩ có sự trước siêng sau nhác như vậy là vì không có tâm hằng thường. Cho nên, để giữ cho được thỉ chung như nhất, ngay từ khi sơ phát tâm niệm Phật, hành giả cần phải tự vạch cho mình một thời khóa biểu nhất định. Một khi thời khóa biểu đã vạch sẵn ra rồi thì ngày ngày cứ y theo đó mà thực hành, tự gây cho mình một thói quen và có như thế mới giữ được đạo tâm bất thối. Trong buổi đầu, niệm nhiều hay ít chưa phải là điều quan trọng vì nhiều hay ít còn tùy thuộc năng lực và hồn cảnh riêng biệt từng cá nhân, quan trọng là tại chỗ thường thời thực hành, đều đều và chuyên nhất.
Người xưa, có vị mỗi ngày niệm đến mười vạn hiệu. Vị nào ít lắm cũng năm vạn. Công hạnh tu hành của họ thật là tinh tấn dõng mãnh. Ngày nay, hồn cảnh thay đổi khác xưa rất xa mà lực lượng của tự thân ta cũng không bằng, vậy ta nên châm chước hoặc định một công khóa thật sát với hồn cảnh và vừa sức của ta, để thực hành cho đúng mức. Sau khi đã hoạch định rồi thì dù gặp phải công việc bận rộn đến đâu, cũng phải cố gắng hồn thành công khóa. Vạn nhất, vì một lẽ nào đó mà ngày ấy không hồn tất được thì qua hôm sau phải bổ khuyết kịp thời, chớ nên khất mai hẹn mốt, tạo cho ta thành một thói xấu có hại về sau.
Trong khi vạch khóa trình, nên tránh hai cực đoan. Cực đoan thứ nhất là vì sự hăng hái trong buổi đầu, tự định cho mình một khóa trình quá nhiều, về sau đuối sức theo không kịp, rồi vì vậy bỏ luôn. Cực đoan thứ hai là vì sự e ngại về sau theo không kịp, nên dè dặt tự định cho mình một khóa trình quá ít, không thấm vào đâu, rồi cũng dễ sinh ra dải đãi. Cả hai cực đoan đều đưa đến kết quả như nhau. Cho nên trong khi quyết định khóa trình, cần phải tế nhị châm chước dung hòa giữa hồn cảnh và năng lực sao cho thích hợp mới được lâu dài và hữu hiệu.
5. Niệm bất cứ lúc nào: Với những hành giả đã huân tập được tịnh chủng khá thuần thục thì tự nhiên phát ra những tiếng niệm Phật bất cứ lúc nào, cơ hồ như có một sức lực dõng mãnh nào bên trong thúc đẩy, khiến cho hành giả hằng tiến không lùi. Vì vậy, dù là công khóa đã hồn tất, các vị này vẫn chưa cho là đủ, nên trừ ngồi giấc ngủ, bất luận ngày đêm, trong bốn oai nghi là đi, đứng, nằm, ngồi không lúc nào, không chốn nào, là không niệm Phật. Như vậy, câu “Nam mô A Di Đà Phật” không lúc nào rời khỏi miệng, lâu ngày thành tập quán.
Truyện vãng sanh của người xưa còn ghi chép lại rất nhiều trường hợp vãng sanh do pháp môn niệm Phật này đem lại. Như có ông thợ rèn, tay đập búa miệng niệm Phật, bà làm nghề đậu hũ, tay xay đậu miệng niệm Phật, về sau, khi vừa dứt tiếng niệm Phật, cả hai đều được đức Phật phóng quang tiếp dẫn và đều được tọa hóa vãng sanh Cực Lạc. Chúng ta nên lấy đó làm gương, nếu niệm được đến trình độ ấy thì dù có định khóa trình, hay không có định khóa trình, không còn là vấn đề nữa.
Đối với người học Phật thì vọng tưởng chính là căn bệnh lớn nhất, niệm Phật là phương pháp hữu hiệu để loại trừ căn bệnh này. Điều quan trọng là chúng ta sử dụng phương thuốc đó ra sao. Ngồi năm phương pháp niệm Phật thông dụng mà chúng tôi đã nêu, nhân đây cũng xin nói thêm phương pháp niệm Phật để đối trị với căn bệnh vọng tưởng . Trong Phật học, bệnh vọng tưởng còn gọi là trạo cử, tức là tâm không an định, tâm bị nhiều vọng động chi phối. Bình thường chúng ta không thấy vọng niệm, nhưng khi ngồi yên thì vọng niệm nổi lên rất nhiều, về điều này có người cho là do niệm Phật, nhưng thật sự thì không phải vậy, vì trên thực tế, bình thường chúng ta đã có rất nhiều vọng niệm, tuy nhiên chỉ đến khi ngồi yên xuống niệm Phật, tập trung nhiếp tâm, thì khi đó chúng ta thấy vọng niệm khởi lên rõ ràng hơn. Về phương pháp đối trị vọng tưởng, nếu tâm chúng ta quá vọng động, thì ta nên dùng phương pháp chỉ tịnh, nghĩa là trụ tâm vào một chỗ, trụ vào danh hiệu Phật, hoặc dùng cách niệm Phật quán theo hơi thở, hoặc dùng cách niệm Phật sổ thập như đã nêu ở trên. Với căn bệnh này, chúng ta phải thật sự lắng lòng dụng tâm chuyên nhất thì vọng niệm tự nhiên tan biến.
Điều cần lưu ý là chúng ta không nên tạo tác thêm vọng niệm, nghĩa là đừng nên có những ý nghĩ miễn cưỡng lại nó, hoặc khởi ý dẹp tắt vọng tưởng, vì như vậy vọng tưởng sẽ chồng lên vọng tưởng. Biết được điều này chúng ta có mặc kệ vọng tưởng bao nhiêu cũng được, đừng thèm để ý đến nó làm gì mà hãy dồn hết tinh thần ý chí tập trung vào danh hiệu Phật. Chung quy lại, để đối trị vọng tưởng chúng ta chỉ cần tập trung vào danh hiệu Phật thì mới có thể tiêu trừ được vọng tưởng. Tất cả phương pháp tu tập dụng công trong Phật pháp cũng không ngồi mục đích tiêu trừ vọng tưởng tạp niệm để hồi phục lại bản tánh sáng suốt giác ngộ của chúng ta. Về phương pháp niệm Phật đối trị với hôn trầm thì chúng ta nên áp dụng phương pháp lễ bái niệm Phật điều này chúng tôi đã có trình bày sơ qua trong chương Tai hại của ngũ dục, nếu quý Phật tử lưu tâm đến chương này sẽ thấy rõ.
Đọc qua giáo lý chúng ta thường nghe nói đến những bậc tu hành chứng quả A La Hán, đó là những bậc Thánh đã đạt đến chánh định, thân tâm an ổn không còn thối chuyển. Do công phu thiền định mà tâm của họ không còn bị ô nhiễm vui buồn sướng khổ ở thế gian. Vì họ đã chứng nhập cảnh giới Tam Ma Địa, tức cảnh giới không còn sanh diệt nữa. Hàng phàm phu chúng ta nếu còn một phần vô minh chưa đoạn dứt thì khó có thể dự vào hàng Thánh, khó có thể đạt đến cảnh giới Tam Ma Địa. Tuy nhiên nếu chúng ta nương dựa vào pháp môn niệm Phật, chỉ cần chúng ta trì danh chuyên nhất đến nhất tâm bất loạn, khi vãng sanh về thế giới Cực Lạc, chúng ta cũng sẽ chứng được cảnh giới Tam Ma Địa, tức cảnh giới bất sanh bất diệt.
Như chúng ta đã biết, sự chứng đắc này không phải hồn tồn do công phu của chúng ta mà do một phần tha lực cực kỳ quan trọng của đức Phật A Di Đà hỗ trợ. Chính vì vậy mà pháp môn trì danh niệm Phật còn được gọi là pháp môn nhị lực. Nói rõ hơn, trong pháp môn trì danh niệm Phật gồm có hai phần lực, tự lực là năng lực của người niệm Phật, khi người niệm Phật y theo lời Phật dạy, tha thiết niệm Phật, lâu ngày hàng phục được tập khí vọng tưởng niệm Phật thuần thục thành khối, khi đạt đến nhất tâm bất loạn thì khi đó nhờ vào tha lực, tức là sức gia trì của đức Phật A Di Đà, chúng ta mới có thể vãng sanh về Cực Lạc. Pháp môn nhị lực này là pháp môn duy nhất được chư Phật đề cập đến trong Tịnh Độ, mà cụ thể hơn là trong các điều nguyện thứ 18, 19, 20 ở trong 48 đại nguyện của đức Phật A Di Đà.
Trên đây chúng tôi đã nói về phương pháp trì danh niệm Phật, quý Phật tử tùy thuận chọn ra một pháp phù hợp để hành trì. Trong quá trình tu học, quý Phật tử nên lưu ý hai điều rất quan trọng. Đáng lý vấn đề này chúng tôi phải nêu ra trong chương Chánh Kiến Tịnh Độ, nhưng xét thấy ghi chép vào chương này thì quý Phật tử sẽ tiện theo dõi hơn.
Hai điểm đặc biệt quan trọng cần lưu ý đó là:
1. Trong khi niệm Phật, chúng ta không nên khởi tâm dẹp bỏ vọng tưởng tạp niệm, mà hãy chuyên chú tập trung tinh thần ý chí vào danh hiệu Phật, vì đương khi niệm Phật mà khởi ý dẹp vọng tức là vọng chồng thêm vọng.
2. Trong khi niệm Phật, chúng ta không nên sinh tâm khởi ý vọng cầu vãng sanh Cực Lạc, mà chỉ tập trung chuyên nhất vào danh hiệu Phật, bởi vì đây là pháp môn nhị lực, tự lực là phần Tin sâu – Nguyện thiết – Hạnh chuyên, nếu chúng ta đã phát nguyện vãng sanh, hồi hướng tất cả công đức để cầu sanh Tịnh Độ, thì việc duy nhất là nỗ lực, tinh tấn nhất tâm niệm Phật, chúng ta thực hành tốt điều này tức là chúng ta đã hồn thành xong nhiệm vụ của mình. Việc vãng sanh của chúng ta thuộc về trách nhiệm của đức Phật A Di Đà. Vì trong các điều nguyện thứ 18, 19, 20, đức Phật A Di Đà đã tuyên thệ điều này trước mười phương chư Phật, là hễ có chúng sanh nào niệm danh hiệu Ngài mười niệm, khi lâm chung, ngài đều tiếp dẫn về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Nói tóm lại, nhất tâm niệm Phật là việc của chúng ta, còn việc vãng sanh là việc của đức Phật, chúng ta không nên vọng khởi cầu vãng sanh khi đương dụng công trì danh niệm Phật, vì vọng tâm khởi lên sẽ chướng ngại cho sự nhất tâm của chúng ta, công phu do đó khó đạt đến nhất tâm bất loạn. Chư cổ đức thường dạy, pháp môn niệm Phật chính là diệu pháp bậc nhất để lìa bỏ trần lao quay về tánh giác, phản bổn quy nguyên. Đối với người tại gia, pháp niệm Phật lại càng thân thiết. Vì người tại gia, thân trong lưới trần, công việc đa đoan, đối với những việc như nhiếp tâm tham thiền, tụng kinh, trì chú... do hồn cảnh sẽ chẳng làm được nổi hoặc chẳng đủ sức để làm. Chỉ có mỗi pháp môn niệm Phật là thuận lợi, thiết thực nhất.
Nói đến trì danh niệm Phật có lẽ quý Phật tử đều đã biết, đều đã từng trì niệm danh hiệu Phật A Di Đà, thế nhưng chư cổ đức lại thường nhấn mạnh đến chỗ chân thật và chỗ chưa chân thật trong quá trình trì danh niệm Phật. Chúng tôi cho rằng, đây chính là mấu chốt của vấn đề tu hành, là chiếc chìa khóa để hành giả niệm Phật đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn, để mai hậu vãng sanh Cực Lạc. Trong tác phẩm “48 pháp niệm Phật” của cư sĩ Giang Đô – Trịnh Văn Am (Hòa thượng Thích Tịnh Lạc dịch) ghi rất tỷ mỹ: “Thực tế hiện đời có rất nhiều người không biết niệm Phật. Có người cho niệm Phật là mê tín dị đoan nên không chịu niệm. Người xuất gia thì cho rằng niệm Phật tất nhiên là việc mình phải lo, thế nhưng đã chân thật niệm Phật hay chưa thì chúng ta không lấy gì làm chắc chắn! Còn kẻ cuồng huệ biết có Phật, nhưng lại không tín niệm. Kẻ ngu si không biết Phật nên không niệm. Hoặc có người nghe nói đạo lý nhân quả nên đã phát tâm niệm Phật, nhưng lại mong cầu được phước báu đời sau. Do vậy đa phần vẫn không thốt khỏi luân hồi sanh tử. Thật ra trong thời mạt pháp tìm ra được người chân thật niệm Phật vì thốt ly sanh tử mà niệm Phật, thì trong trăm ngàn người, họa chăng chỉ được một hai người! Nên biết rằng, người đã niệm Phật tức xứng hợp với lòng đại từ đại bi của chư Phật, phát thệ nguyện rộng lớn tế độ chúng sanh tất cả tội cấu oan khiên thảy đều sám hối. Tất cả công đức dù nhỏ dù lớn cũng đều đem hồi hướng về thế giới Tây Phương Cực Lạc, hành được như thế mới có thể gọi là chánh nhân chân thật niệm Phật”. Trên đây là nói về thực trạng của người thế gian và cả người đang tu học Phật pháp đối với pháp môn niệm Phật thời xưa lẫn hiện nay. Đặc biệt nhấn mạnh đến việc người niệm Phật chưa đạt đến chỗ chân thật trong công phu trì niệm, thời xưa mà còn đã vậy, e rằng thời nay chỗ chân thật niệm Phật hãy còn xa lắm, mà đã vậy thì khó có thể đạt đến nhất tâm. Niệm Phật mà không chân thật, e rằng đến cuối đời cũng không dễ gì vãng sanh Cực Lạc.
Chúng tôi xin trích đăng một số pháp ngữ của Đại Sư Ấn Quang, Tổ Sư thứ 13 Tịnh Độ Tông, ngài đã khai thị pháp môn trì danh niệm Phật như sau: “Niệm Phật muốn được nhất tâm thì trước hết phải phát tâm chân thật, thực sự vì liễu sanh thốt tử, chẳng phải vì mong người đời gọi mình là người tu hành chân thật, lúc niệm từng câu từng chữ phải từ tâm phát khởi, từ miệng thốt ra, lọt vào tai. Mỗi câu đều như thế, trăm ngàn vạn câu cũng đều như thế. Làm được như thế thì vọng niệm không do dâu khởi được, tâm và Phật tự có thể khế hợp nhau”. Trong Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, ngài dạy: “Khởi tâm niệm Phật cực kỳ quan trọng ở chỗ phải tha thiết mong cầu liễu sinh thốt tử, vãng sanh Cực Lạc. Đã tha thiết giải quyết sinh tử thì đối với sự khổ sanh tử tự sanh tâm nhàm chán, đối với sự vui ở Cực Lạc tự sanh tâm ưa thích. Như thế thì trong hai điều Tín và Nguyện ngay nơi một niệm đầy đủ; lại thêm chí thành khẩn thiết như con nhớ mẹ mà chuyên cần niệm Phật, thì sức Phật, sức Pháp, sức công đức Tín Nguyện, ba pháp đều đầy đủ rõ ràng, giống như mặt trời giữa hư không, dù có tuyết sương từng lớp dày đặc chẳng bao lâu cũng tự tan rã... Niệm Phật điều cần yếu là phải thường xuyên đặt mình vào trường hợp sắp chết, sắp đọa địa ngục thời không khẩn thiết cũng tự khẩn thiết. Dùng tâm sợ khổ để niệm Phật, ấy là “Xuất khổ diệu pháp đệ nhất” cũng là “Tùy duyên tiêu nghiệp diệu pháp đệ nhất”. Tâm niệm Phật chẳng quy nhất là do lỗi của tâm chúng ta đối với sự sanh tử chẳng tha thiết”.
Đọc qua những dòng pháp ngữ đầy bi tâm của Đại Sư Ấn Quang, chắc có lẽ trong số chúng ta cũng đã có không ít người nhận ra cái chỗ chưa chân thật trong công phu niệm Phật của mình, nếu đã nhận ra điều này thì đây cũng là cơ sở để chúng ta suy ngẫm, đặt lại nền móng tu tập cũng như căn bản đời sống của chúng ta, để nó trở nên chân thật, gắn liền với đạo giải thốt hơn. Như chúng ta thấy, muôn ngàn bài văn cảnh sách khuyến tu, pháp ngữ khai thị, dù là của bất kỳ pháp môn nào trong Phật pháp, Giáo hay Luật, Thiền hay Mật, Tịnh, thì cũng đều nêu ra vấn đề cấp bách là “Việc lớn sanh tử”. Giải quyết khổ đau luân hồi sanh tử là việc hàng đầu đối với người tu học theo Phật pháp. Nếu chúng ta không có tâm mong cầu giải thốt luân hồi sanh tử, vãng sanh Cực Lạc, thì chúng ta sẽ không thể nào gieo được chánh nhân trên bước đường tu học, dù tu học theo bất cứ pháp môn nào đi nữa. Ngài Ấn Quang dạy: “Hãy đem một chữ “Tử” dán lên trán. Hễ những cảnh chẳng nên tham luyến hiện ra liền biết đấy chính là vạc sôi, lò than của chính mình, quyết sẽ chẳng đến nỗi như con thiêu thân đâm đầu vào lửa, cam chịu đốt mình. Với những sự (niệm Phật) mình phải nên làm sẽ biết đấy là thuyền từ để thốt khổ, quyết sẽ chẳng đến nỗi gặp việc cực may, cực thiện bèn thối thác! Như thế trần cảnh sẽ là duyên để nhập đạo, há cần phải dứt sạch trần duyên mới kham tu đạo chăng? Bởi đã làm chủ được tâm, chẳng bị cảnh chuyển thì trần lao chính là giải thốt”.
Đối với người tu Tịnh Độ, thì việc giải quyết sinh tử đã được đức Phật A Di Đà trợ duyên rất đắc lực, rất hữu hiệu, ngài riêng dành cho người niệm Phật đầy đủ Tín Nguyện Hạnh một đặc ân rất quan trọng và vô cùng quý giá, đó là đới nghiệp vãng sanh vẫn có thể thốt ly luân hồi sanh tử, có nghĩa là người niệm Phật được nhất tâm bất loạn, lâm chung được vãng sanh, dù vẫn còn nghiệp quả, nhưng khi đã vãng sanh rồi thì vẫn có thể thốt ly luân hồi sanh tử.
Chư vị tôn túc giảng dạy về Tịnh Độ đều rất chú trọng đến hai chữ sanh tử, nhằm nhắc nhở người tu học nên ghi tâm khắc cốt vấn đề trọng đại này để hạ thủ công phu, như ngài Ấn Quang dạy: “Nếu thường nghĩ mình sắp bị nước cuốn trôi, lửa thiêu cháy khó có thể cứu vớt và tưởng sắp chết, sắp đọa địa ngục, thời tâm tự quyết liệt, tâm tự quy nhất, ngồi pháp “trì danh niệm Phật” ắt sẽ không cần đến diệu pháp nào nữa cả. Thế nên trong kinh thường nói “nhớ khổ địa ngục, phát bồ đề tâm”. Đây là lời khai thị tối thiết yếu của Đại Giác Thế Tôn. Tiếc vì người đời không chịu suy nghĩ điều này. Xét kỹ sự khổ ở địa ngục khổ hơn vô lượng vô biên lần so với sự khổ nước trôi lửa cháy ở thế gian. Trong khi nghĩ đến sự khổ nước trôi lửa cháy ở thế gian thì sanh tâm vô cùng sợ hãi. Thế nhưng khi nghĩ đến nỗi khổ cùng cực ở địa ngục thì lại lơ là cho rằng không thiết thực. Ấy là suy nghĩ cạn cợt của hầu hết chúng sanh thời mạt pháp”.
Thiết nghĩ, chính vì vậy mà đa phần người học Phật thời nay không gieo được chánh nhân liễu sanh thốt tử trong sự nghiệp tu hành của mình. Qua lời dạy của Đại Sư Ấn Quang “Niệm Phật muốn được nhất tâm thì trước hết phải phát tâm chân thật, thực sự vì liễu sanh thốt tử” và “Nếu thường nghĩ mình sắp bị nước cuốn trôi, lửa thiêu cháy, sắp đọa địa ngục, thời tâm tự quyết liệt, tâm tự quy nhất”. Ở đây, Tổ Sư chỉ cho chúng ta thấy, trong sự khổ đau cùng cực thì sự thành tâm và khẩn thiết nơi tâm chúng ta mới trỗi dậy, tu theo Phật pháp là phải nhận ra sự cấp bách của việc tự mình phải cứu lấy mình, trong lúc bình thường phải luôn đặt mình vào hồn cảnh nguy cấp khốn cùng. Bởi chính ở trong trạng thái khẩn cấp như thế, chúng ta mới có thể buông xả vạn duyên, mới khẩn trương niệm Phật, điều này cũng giống như khi mình gặp điều gì đó không may xảy đến bất ngờ, thì mình hoảng hốt luôn miệng xưng “Nam mô Phật! Nam mô Phật!”, cũng như trong giấc ngủ, có người nằm mơ thấy mình bị hổ dữ vồ tới, liền hốt hoảng niệm “Nam mô cứu khổ cứu nạn Quan Thế Âm Bồ Tát” liền đó giật mình tỉnh dậy thì thấy mình nằm trên giường, dù là mơ nhưng gương mặt vẫn còn lộ vẻ hoảng sợ, nhịp tim vẫn còn đập mạnh, mồ hôi đẫm ướt, nhưng khi tỉnh dậy rồi thì người ta không còn niệm Phật, niệm Bồ Tát cứu khổ nữa. Một đặc điểm chung của con người là khi gặp khổ nạn nguy cấp hầu hết đều khẩn thiết kêu cầu cứu, lúc thốt nạn xong là quên ngay những biến cố cuộc đời, rất thanh thản bằng lòng trôi theo dòng sanh tử. Chính vì vậy mà chư vị Tổ Sư, chư vị tôn túc đã khuyên người học Phật hãy dán hai chữ “sanh tử” lên trên trán, không rời nó một phút một giây thì mới có thể gieo được cái chánh nhân tu tập giải thốt.
Thật ra, nói đến việc gieo chánh nhân giải thốt đối với người tu theo pháp môn niệm Phật, trước đây trong cuốn Nhất tâm niệm Phật – Quyết định vãng sanh, chúng tôi đã nêu bật vấn đề này trong các chương Sanh tử là việc lớn của đời người, Ngày giờ qua mau, mạng sống giảm dần, Cảnh tĩnh vô thường, Lập chí tu hành. Trong cuốn Chân thật niệm Phật – Cực lạc hiện tiền này, chúng tôi cũng đã nêu vấn đề này trong các chương đầu sách (Thân người khó được, Phật pháp khó gặp). Tất cả đều là để nhắc nhở người sơ cơ học Phật luôn cảnh tĩnh được đời sống vô thường, nhận thức sâu sắc về kiếp người ngắn ngủi, mạng sống mong manh mà phát tâm chân thật vì liễu sinh thốt tử để vĩnh viễn từ đây không còn luân hồi trong lục đạo tứ sanh. Bởi chúng tôi nghĩ rằng, nếu người học Phật mà không ý thức được việc lớn của đời người là sinh tử thì sẽ không bao giờ gieo được chánh nhân trên bước đường học Phật.
Chúng ta nói đến chân thật niệm Phật tức là nói đến cái tâm tha thiết với việc giải quyết sinh tử, từ đó phát tâm niệm Phật cầu vãng sanh Cực Lạc, chứ không phải cái tâm cầu phước báo nhơn thiên mà niệm Phật, càng không phải cái tâm nhất thời niệm Phật vì hoạn nạn trong đời sống. Do vậy chúng tôi tha thiết mong mỏi quý Phật tử hãy y cứ vào lời dạy của chư Phật chư Tổ mà phát tâm chân thật niệm Phật vì liễu sanh thốt tử.
Chúng tôi thiết nghĩ, có phát tâm chân thật thì việc niệm Phật mới chân thật. Chân thật thành khẩn niệm Phật thì sự niệm Phật mới tập trung, lý niệm Phật mới rốt ráo, do đó mới có thể dễ dàng đạt đến nhất tâm bất loạn. Chúng ta nên luôn khắc ghi trong lòng đời sống vô thường, mạng sống con người quá ngắn ngủi, chỉ được vài chục năm thống chốc đã trôi qua, như ông bà ta thường ví von đời người như bóng câu qua song cửa, mới đó mà nay đã gần hết một kiếp làm người, trong khi đó, mạng sống của chúng ta chỉ trong chừng hơi thở, sanh tử tử sanh xảy ra liên tục trong từng niệm, chứ không phải khi lâm chung hấp hối mới gọi là sanh tử, cho nên khi chúng ta phát tâm tu hành thì phải phát tâm chân thật ngay trong từng niệm, ngay trong từng hơi thở ra vào.
Phát tâm chân thật, niệm niệm trì danh chân thật, thì chúng ta mới có thể tích cóp đầy đủ tư lương cho giây phút lâm chung hấp hối, được như vậy khi đó chúng ta mới có đủ định lực để tiếp tục vượt qua khúc ngặt nghèo nhất của một đời người để tiến lên cảnh giới cao hơn, an lạc thù thắng tươi đẹp hơn, đó là cảnh giới Tây Phương Cực Lạc.
Bình thường chúng ta không phát tâm chân thật, thì lúc lâm chung sẽ rơi vào tình trạng hỗn mang vô phương hướng, niệm Phật trong trạng thái hoảng loạn mơ hồ, không có một chút định lực thì làm sao có thể nhất tâm để về Phật Quốc. Giải quyết sanh tử là vấn đề hệ trọng bậc nhất của một đời người, là vấn đề cấp bách mà chúng ta cần phải giải quyết ngay trong đời sống ngắn ngủi này, không thể chần chờ hay hứa hẹn, cũng không nên phát tâm hời hợt qua loa đại khái, vì như vậy thì làm sao đạt đến chỗ chân thật niệm Phật được.
Trong phần đầu cuốn sách này, trong các chương Thân người khó được, Phật pháp khó gặp, chúng tôi trình bày nội dung tương đối dài dòng, nhiều chỗ lặp đi lặp lại, cũng không ngồi chủ ý là mong muốn quý Phật tử, gieo được chánh nhân giải thốt khổ đau luân hồi sanh tử. Khi nói đến chân thật niệm Phật, có lẽ nhiều người cho rằng, niệm Phật là niệm Phật, có ai giả dối khi niệm Phật đâu, thì đặt vấn đề chân thật niệm Phật để làm gì? Chúng tôi mong rằng, quý Phật tử nên hiểu vấn đề này trên tinh thần sách tấn khuyến tu trên con đường Phật pháp thì sẽ không cảm thấy bị tổn thương hay tự ái, vì chư vị Tổ Sư, chư tôn đức luôn mong muốn chúng ta phát tâm tu hành vì liễu sanh thốt tử mà niệm Phật chớ không vì một mục đích nào khác. Khi nói đến hai chữ chân thật là muốn nói đến cái nền tảng để chúng ta hạ thủ công phu, vì sự nghiệp giải thốt là động cơ để chúng ta phát tâm tu hành chân chính trên đền bốn ơn nặng, dưới cứu khổ ba đường. Chư vị Tổ Sư nói đến chân thật niệm Phật, đó là vì xót thương hàng sơ cơ niệm Phật chúng ta, muốn uốn nắn cái nhân học Phật của chúng ta ngay từ lúc ban đầu, nếu chúng ta có rơi vào trường hợp lệch lạc trong việc gieo nhân học Phật thì điều chỉnh cho phù hợp với đạo giải thốt. Phần của chúng ta là nên tự xem xét lại mình, bấy lâu nay chúng ta niệm Phật là vì điều gì? Chúng ta đã từng giây từng phút đặt hai chữ sanh tử lên trán mà khẩn thiết niệm Phật để giải thốt sanh tử hay chưa? Nếu tâm của chúng ta tu niệm chưa tương ứng với những gì mà chư Phật, chư Tổ đã dạy thì chúng ta cần phải kịp thời chỉnh sửa uốn nắn. Nếu chúng ta đã thật sự vì việc lớn sanh tử mà tha thiết niệm Phật, thì chúng ta hãy nỗ lực, tinh tấn tiến tu nhiều hơn nữa, vì quỹ thời gian của mỗi chúng ta càng ngày càng rút ngắn lại, con đường phía trước hiện vẫn còn lắm gian nan, vậy chúng ta hãy cùng nhau phát tâm dõng mãnh chân thật tu hành vì liễu sanh thốt tử để công phu của chúng ta chắc thật đạt đến chỗ nhất tâm bất loạn, đạt đến cảnh giới Cực Lạc hiện tiền.
Khi chúng ta đã chọn pháp môn niệm Phật để hành trì, thì tất cả chúng ta đều niệm Phật, dù tất cả chúng ta cùng niệm danh hiệu đức Phật A Di Đà, thế nhưng do vì sự phát tâm sai khác nên dẫn đến kết quả cũng sai khác. Chính vì vậy mà cõi Tịnh Độ ngày càng trở nên xa xôi đối với những người chưa gieo chánh nhân giải thốt, ngược lại đối với người chân thật phát tâm tu hành vì liễu sanh thốt tử thì cảnh giới Cực Lạc luôn hiển hiện một cách an lạc, thanh tịnh, tinh khiết trong tâm hồn chứ không ở đâu xa. Để giúp người sơ cơ niệm Phật có được niềm tin vững chắc trên bước đường tu tập, chúng tôi đã nhiều lần nêu lên tầm quan trọng của việc phát tâm chân thật vì giải thốt luân hồi sinh tử, bởi đó là chánh nhân của một người học Phật chân chính.
Trong chương Chân thật niệm Phật – Cực lạc hiện tiền này, chúng tôi xin nêu lên hai ý chính để trợ duyên cho công phu niệm Phật của quý Phật tử, để quý Phật tử dễ dàng đạt đến chỗ chân thật niệm Phật. Hai ý chính đó là buông xả vạn duyên và thành kính niệm Phật.
Như chúng ta đã biết, yếu chỉ của pháp môn niệm Phật là “Phóng hạ vạn duyên Nhất tâm niệm Phật”, nghĩa là buông bỏ vạn duyên, một lòng niệm Phật. Ở phần trên, chúng ta đã đọc qua nhiều pháp ngữ của Tổ Sư, chư vị tôn túc thảy đều nhắc nhở chúng ta phát tâm chân thật vì liễu sanh thốt tử. Các ngài luôn nhắc nhở chúng ta sanh tử là việc lớn là nhằm khuyên chúng ta hãy một phen buông xả tất cả, trần lao phiền não, thất tình lục dục, vọng tưởng tạp duyên nhất thời đều phải buông xuống để hạ thủ công phu.
Nếu chúng ta chưa thể đặt mình vào những trạng thái bức ngặt hiểm nghèo, thì cách tốt nhất là chúng ta nên buông xả, bởi vì chỉ có buông xả, chúng ta mới có cơ hội đến gần chỗ chân thật của người tu đạo lý giải thốt. Pháp Sư Tịnh Không dạy rằng: “Một số người công phu không được đắc lực vì không buông xả được vạn duyên, tự tạo cho mình một chướng ngại trầm trọng. Chướng ngại này, người khác không thể nào giúp, chư Phật, Bồ Tát cũng không thể giúp. Nhất quyết phải do tự bản thân mình buông xả, bất luận điều gì cũng không nên chấp giữ trong lòng. Chỉ giữ một câu A Di Đà Phật trong tâm, nương theo Phật lực mà niệm Phật, hiện tiền, tương lai, chắc chắn thấy Phật”. Trong đời sống tu học, nếu chúng ta quyết tâm buông xả thì tính chân thật của việc tu hành lần lần hiển hiện ra. Buông xả chính là thể hiện sự nhận thức sâu xa về đời sống vô thường, là thể hiện ý thức trách nhiệm giải quyết nỗi khổ đau luân hồi sinh tử của chính mình.
Thế nhưng người học Phật chúng ta làm sao có thể buông xả tập khí, vọng tưởng sâu dày nhiều đời nhiều kiếp, Hòa thượng Tịnh Không dạy: “Đây là việc mà người sơ cơ học Phật rất khó làm. Vì sao chúng ta không thể phóng hạ và buông xả được phiền não? Đó là vì không có nhận thức chính xác, không hiểu rõ về chân tướng vũ trụ nhân sinh. Nếu chúng ta liễu giải triệt để được thì tự nhiên chúng ta sẽ phóng hạ và buông xả được. Điều quan trọng mà đức Phật dạy chúng ta là ba tâm không thể nắm giữ được. Tâm quá khứ không thể nắm giữ được, tâm hiện tại và vị lai cũng không thể nắm giữ được. Cái tâm hằng ngày mà chúng ta nghĩ là có thể nắm giữ được thì đó chỉ là vọng tâm, không có thật. Những gì chúng ta nắm giữ hằng ngày, không kể là vật chất hay tinh thần, Phật dạy đó chỉ là do nhân duyên biến hiện, là duyên sinh. Bất kể vật gì cũng đều do nhiều yếu tố hợp lại mà thành, nó không có tự thể. Vì thế mới nói bản thể vốn không nên không thể nắm giữ”.
Như lời Pháp Sư Tịnh Không, do vô minh phân biệt, chấp trước quá sâu nặng nên chúng ta cứ mãi loay hoay chạy theo huyễn cảnh, lấy giả làm thật, nhận huyễn làm chơn, chấp giữ ôm ghì lấy, đến khi lâm chung hấp hối thì hóa ra mình một đời hồ đồ lầm lẫn, lúc đó hồn tồn không mang theo được gì cả, lúc này vội vàng buông bỏ cũng không cách nào buông bỏ nổi. Vì sao? Vì lúc đó tâm trí rối loạn, cái tâm tham sống sợ chết nổi lên quá mạnh, chỉ một lòng cầu thốt nạn, song một khi mạng căn đã hết, nghiệp báo hiện đến thì chúng ta gần như không còn đường nào né tránh. Chúng ta cần nhận thức rằng, khổ nạn nơi chúng ta là do chúng ta không chịu buông bỏ, chúng ta thử nghĩ xem, hạt sương ban mai đọng trên đầu ngọn cỏ, dưới ánh nắng mặt trời nó có thể tồn tại được bao lâu? Mạng sống của chúng ta cũng như hạt sương mai, cũng như ánh nắng chiều vậy, rất ngắn ngủi, rất mong manh, chúng ta là hàng phàm phu nên cái nhìn cạn cợt, thấy biết kém cỏi, không thể thấu rõ tường tận cái họa vô thường sanh diệt, nhưng đức Phật là bậc Đại Giác, đầy đủ trí tuệ, ngài nhận thấy được điều này một cách rõ ràng nên ngài buông xả một cách rốt ráo trọn vẹn trên suốt quãng đời tu học, xuất gia tầm đạo cho đến khi chứng quả. Chúng ta cần phải nhận thức một cách chánh kiến thì trong cuộc sống chúng ta mới có thể buông xả trọn vẹn được.
Chúng ta cũng cần ý thức rằng, buông xả ở đây không có nghĩa là né tránh, chạy trốn, hay dẹp bỏ, mà là nhận chân sự việc một cách chánh kiến, có nhận ra chân tướng sự việc thì chúng ta mới có thể an ổn sống, làm việc, tu tập. Nếu chúng ta né tránh, chạy trốn hay dẹp bỏ, thì chúng ta dễ dàng bị phiền não trói buộc, còn khi chúng ta tùy duyên thì sẽ được thong dong tự tại, sẽ không bị phiền não trói buộc nữa, đạo tâm mỗi ngày sẽ sáng lên, công phu mỗi ngày một tăng tiến, hiệu quả.
Tóm lại, chúng ta cần nhận thức sâu sắc về chân tướng của vạn vật chỉ là do nhân duyên mà thành, rồi cũng do nhân duyên mà tan, tất cả đều không thật có, để chúng ta buông xả phiền não, vọng tâm, chấp trước, rồi tùy duyên thong dong tự tại tu hành, có như thế thì cuộc sống của chúng ta mới hanh thông, mới đạt đến điều mà mình đã Tín Nguyện.
Chúng ta biết cách buông xả và buông xả được tất cả phiền não, vọng tâm, chấp trước, tức là chúng ta đã tự tạo cho mình sự hanh thông trên bước đường về quê nhà Cực Lạc. Trong kinh đức Phật dạy, chúng sanh khổ đau và phiền não là đều do từ mê muội mà tự chiêu cảm lấy. Nguyên nhân của sự mê lầm này như chúng tôi đã trình bày, đó là do chúng ta không hiểu rõ ràng về chân tướng của vạn vật. Nên chi, ngày ngày chúng ta chỉ có vọng tưởng, chỉ sống trong vọng tưởng, đã vậy chúng ta còn phát triển vọng tưởng lên cao độ bởi những suy nghĩ, xem nghe, thấy biết của chúng ta, do vậy dẫn đến kết quả là một tổng thể sai lầm. Nếu chúng ta không chịu buông xả thì từ mê muội trước dẫn đến mê muội sau, từ sai lầm nhỏ sinh ra sai lầm lớn. Chúng ta cần lưu ý, tư tưởng và suy nghĩ của chúng ta, nó luôn chỉ đạo cho mọi hành vi của con người. Tư tưởng sai lầm nhất định dẫn đến hành động sai lầm, hành động sai lầm đương nhiên là dẫn đến kết quả khổ đau. Đức Phật đã dạy, muốn giải quyết khổ đau cho chúng sanh, điều đầu tiên phải giúp cho họ giác ngộ, mà muốn giác ngộ thì điều kiện đầu tiên là giúp họ nhận ra chân tướng của nhân sinh vũ trụ, thấy được sự giả huyễn của cuộc đời họ mới buông xả, rồi sau đó mới có thể tinh tấn tiến tu trên con đường chánh pháp.
Trong kinh Kim Cang có câu: “Phàm sở hữu tướng giai thị hư vọng”, nghĩa là những gì có hình tướng đều là hư vọng cả; nhìn vào cuộc sống chúng ta thấy rằng, muôn người muôn vật đều chỉ tồn tại trong một khoảng thời gian nhất định nào đó, nó như mây như khói, bay qua rồi tan mất, thì có gì đâu mà phóng tâm theo đuổi nó để tự đánh mất chân tâm thanh tịnh của mình. Nếu chúng ta thực hành hạnh buông xả chúng ta sẽ thấy sự lợi ích thật sự cho bản thân và cái hay cái cao quý sâu xa của hạnh buông xả. Hòa thượng Tuyên Hóa dạy một câu rất chí lý: “Phật và Ma chỉ khác nhau ở một tâm niệm. Phật thì có tâm từ bi, còn Ma thì có tâm hơn thua”. Qua đó chúng ta thấy rằng, người thât sự biết cách tu hành thì nhất cử nhất động đều là tu cả, chúng ta buông xả được tâm tranh đấu hơn thua, tâm tham dục, nói chung là phiền não, phân biệt, chấp trước... thì chúng ta có thể tự hào là người biết cách tu tập và cũng có thể tự tin vào kết quả tu tập của mình.
Hòa thượng Tịnh Không trong suốt quá trình hoằng dương pháp môn niệm Phật, đã tổng lược sự tu hành của một đời người, tóm gọn trong hai mươi chữ: “Chân thành Thanh tịnh Bình đẳng – Chánh giác Từ bi Khán phá Phóng hạ Tự tại Tùy duyên Niệm Phật”. Trong chương này chúng ta đang nói đến Khán phá và Phóng hạ (Buông xả). Khán phá có nghĩa là nhận ra chân tướng của vũ trụ nhân sinh. Buông xả là sau khi thấy rõ được lẽ thật cuộc đời, hiểu thấu kiếp nhân sinh, chúng ta liền quyết tâm buông xả tất cả, không luyến tiếc, không dính mắc. Nhờ buông xả mà tâm chúng ta nhẹ nhàng, thanh tịnh, an ổn; nhờ nhẹ nhàng thanh tịnh an ổn mà chúng ta càng nhận ra đời sống vô thường một cách tường tận hơn, sâu xa hơn, khiến cho tâm chúng ta buông xả một cách tự nhiên, không vướng mắc điều gì. Tâm càng an tịnh thì sự buông xả càng trở nên dễ dàng hơn. Buông xả là khâu quan trọng để người học Phật chúng ta tùy duyên tự tại trong đời sống, nhờ đó mà sự nỗ lực công phu tu tập của chúng ta đạt hiệu quả cao hơn.
Đối với người chân thật niệm Phật, ngồi việc buông xả thì còn phải luôn thấy nhược điểm của bản thân mình và luôn biết tàm quý thì con đường tu tập mới trở nên thuận lợi. Thật ra, đã là người thì không ai mà không có nhược điểm, nếu không có nhược điểm thì chúng ta đã là Thánh hết cả rồi. Đối với người tu theo pháp môn niệm Phật, tức là luôn niệm giác, luôn gần Phật, thì việc luôn nhìn thấy nhược điểm của bản thân là một điều hết sức cần thiết, bởi vì khi nhìn thấy nhược điểm của bản thân thì chúng ta mới có thể tìm cách khắc phục nó. Muốn được như vậy đòi hỏi chúng ta phải luôn sống trong tỉnh thức, luôn tự biết mình, nhờ vậy sẽ không rơi vào bệnh tự cao tự mãn, nhờ vậy mà lời nói sẽ luôn đi đôi với việc làm. Nhược điểm của con người thì hằng hà sa số, không thể nào nói cho hết, nhưng với người tu theo Phật pháp, thì một nhược điểm lớn gây cản trở không ít trên con đường tu học, đó chính là cái tâm tham dục. Trong Phật pháp thì tự tri là nền tảng bước đầu để người học Phật chúng ta tự giác, vì không tự biết mình thì không thể nào giác ngộ được, là một người tu học chân chính, một khi nhận thấy nhược điểm của bản thân, thì chúng ta mới tìm mọi cách khắc phục sai trái lỗi lầm. Có thể nói rằng, khả năng tự tri lớn chừng nào thì sự tiến bộ trên bước đường tu học của chúng ta sẽ khởi sắc hanh thông chừng nấy. Tự biết lỗi mình để sửa sai, thường thấy lỗi mình để khắc phục, đó là một phẩm hạnh cao quý chỉ có ở người học Phật chân chính.
Đồng thời với việc luôn thấy nhược điểm của bản thân thì người tu học phải biết Tàm quý trước những điều không đúng của mình. Đây là điều đòi hỏi tinh thần tự giác rất cao, cũng là sức mạnh để người tu theo hạnh Phật tự nâng bước chân của mình đến ngôi nhà giải thốt giác ngộ nhanh hơn, vững vàng hơn. Đại Sư Ấn Quang dạy rằng: “Muốn học theo Phật, Tổ liễu sinh tử thì phải bắt đầu từ việc hổ thẹn, sám hối, dứt ác, tu thiện, ăn chay, tự răn nhắc, ý thật chân thành, thiết tha. Phải thật sự tu tập, tận lực thực hành. Nếu không chỉ trở thành vọng ngữ trong các thứ hư dối. Biết chẳng khó, làm được mới khó. Mấy kẻ thông minh trong thế gian đều chỉ nói được, nhưng không làm được. Trọn một đời này, uổng công vào núi báu, trở về tay không. Đáng xót, đáng tiếc thay.
Phàm phu còn mê, tín tâm bất định, vì thế, có tật lắm phen tin rồi lại ngờ, lắm phen đã tu rồi lại tạo nghiệp, cũng là do người dạy ban đầu không hiểu đạo đến nơi đến chốn. Nếu lúc ban đầu chỉ từ nhân quả thiển cận mà khởi sự sẽ chẳng đến nỗi bị điên đảo, mê hoặc như thế. Đối với những tội cũ, dù rất sâu nặng, hãy nên chí tâm sám hối, sửa đổi thói xưa, tu tập từ nay, dùng chánh tri kiến tu tập Tịnh nghiệp, dốc chí tự lợi, lợi tha thì tội chướng như sương tiêu tan, bầu trời chân tánh sáng rạng. Vì thế, kinh nói: “Thế gian có hai hạng người mạnh mẽ. Một là người chẳng tạo tội. Hai là đã tạo tội rồi lại có thể sám hối”.
Một chữ “Hối” phải từ tâm khởi. Tâm chẳng thật sám hối, có nói gì cũng vô ích. Ví như chỉ đọc toa thuốc chứ chẳng uống thuốc, nhất định chẳng hy vọng gì lành bệnh được. Còn nếu theo toa uống thuốc sẽ tự lành bệnh, thân an. Điều đáng ngại là lập chí chẳng vững, một nóng mười lạnh thì chỉ uổng mang hư danh, không mảy may lợi ích thật sự.
Người niệm Phật đối với sự sự phải trung thứ, tâm tâm luôn đề phòng tội khiên. Biết lỗi liền sửa, thấy điêu nghĩa mạnh mẽ làm ngay thì mới hợp với Phật. Người như thế quyết định vãng sanh. Nếu chẳng như thế là trái nghịch với Phật, quyết khó cảm thông”.
Người tu pháp môn niệm Phật cần phải thực hành hai điều căn bản là buông xả và chí thành cung kính niệm Phật. Nói về buông xả thì chúng tôi đã trình bày, chắc quý Phật tử cũng đã thông suốt. Thế còn việc chí thành cung kính niệm Phật đó sự thể ra sao? Có khác gì với việc niệm Phật bình thường? Chúng tôi nghĩ rằng, đây là điều cực kỳ quan trọng, rất mong quý Phật tử lưu tâm để ý đến. Đại Sư Ấn Quang dạy rằng: “Niệm Phật thành khẩn cung kính” lời này thế gian ai cũng biết, nhưng lý này thế gian không ai rõ. Tôi vì muốn tiêu nghiệp chướng, muốn báo ân Phật, nên thường “Chí Thành Cung Kính Niệm Phật”.
Như đã nói ở phần cuối chương trước, trong chương này chúng tôi sẽ nêu ra một bí quyết của Tổ Sư Tịnh Độ để trợ duyên quý Phật tử công phu niệm Phật dễ dàng đạt đến nhất tâm.
Bí quyết này đã được chư vị Tổ sư, chư tôn đức khai thị rất nhiều trong các thời pháp thoại, chúng tôi trong quá trình tu học cảm thấy vô cùng lợi ích nên chắt lọc vài dòng nhằm chia sẻ cùng quý Phật tử những điều bổ ích lợi lạc. Sau khi suy ngẫm và trải nghiệm qua phương cách cung kính chí thành niệm Phật, chúng tôi nhận ra đây quả là một bí quyết niệm Phật rất dễ dàng đạt đến chỗ nhất tâm. Nếu quý Phật tử ứng dụng thực hành thì sẽ thấy ngay kết quả. Chẳng hạn khi quý Phật tử thắp một nén nhang lên bàn thờ Phật với tâm trạng thành kính trang nghiêm, chắc hẳn sẽ khác với khi thắp một nén nhang với tâm trạng bình thường, càng khác với những khi tâm trạng quý Phật tử lăng xăng nghĩ ngợi đủ điều.
Niệm Phật cũng vậy, khi chúng ta niệm lên danh hiệu Phật bằng một cái tâm thành kính tột cùng, giống như là đang được quỳ dưới chân đức Phật thì sự chú tâm khẩn thiết của chúng ta cũng sẽ tăng lên gấp vạn ngàn lần so với lúc chúng ta niệm Phật một cách bình thường. Mỗi một câu Phật hiệu được chúng ta niệm lên bằng cái tâm cung kính chí thành, điều này cũng giống như chúng ta đang được giao cảm với đức Phật A Di Đà, thì tự nhiên tâm chúng ta trở nên thanh tịnh chuyên nhất. Chúng ta hãy thường xuyên niệm Phật bằng cái tâm cung kính chí thành như chư vị Tổ Sư đã dạy thì sự tu hành của chúng ta sẽ tiến triển rất nhanh. Ngài Ấn Quang vốn là một Tổ Sư Tông Tịnh Độ, đã dạy kỹ điều này, thì đây quả là một kinh nghiệm vô cùng quý báu cho tất cả người học Phật chúng ta, như Ngài đã nói: “Đây là bí quyết nhiệm mầu để siêu phàm nhập Thánh, liễu sanh thốt tử, nên đối với người có duyên tôi thường hay khuyên nhắc như vậy”.
Cùng với việc gieo chánh nhân giải thốt, phát tâm vì liễu sanh thốt tử mà nỗ lực công phu trì danh niệm Phật, chúng ta cần thực hành Buông xả và thực hiện phương pháp Cung Kính Chí Thành Niệm Phật, thì trong tương lai không xa chúng ta sẽ được vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc, chắc chắn chúng ta sẽ vĩnh viễn thốt khỏi khổ đau luân hồi sanh tử. Để hỗ trợ cho quý Phật tử thuận duyên trong quá trình tu theo pháp môn trì danh niệm Phật, chúng tôi xin trích đăng lời khai thị của ngài Ấn Quang, Tổ Sư thứ 13 Tịnh Độ Tông, vì nhận thấy rằng, những dòng pháp ngữ này chính là kim chỉ nam vô cùng quý giá cho người sơ cơ học Phật thời nay:
“Bất luận là người tu tại gia hay xuất gia, cần phải trên kính dưới hòa, nhẫn nhục điều người khác khó nhẫn được, làm những việc mà người khác khó làm được; thay người làm những việc cực nhọc, thành tồn việc tốt đẹp cho người.Khi tĩnh tọa thường nghĩ đến điều lỗi của mình. Lúc nhàn đàm đừng bàn đến điều sai trái của người. Lúc đi đứng, nằm ngồi, ăn mặc từ sáng đến tối, từ tối đến sáng, chỉ niệm Phật không để gián đoạn; hoặc niệm Phật nho nhỏ, hoặc niệm thầm. Ngồi việc niệm Phật, đừng dấy khởi một niệm nào khác. Nếu khởi vọng niệm, phải tức thời bỏ ngay.
Thường có lòng hổ thẹn và tâm sám hối. Nếu đã tu trì, phải tự hiểu là công phu của ta hãy còn nông cạn, chẳng nên tự kiêu căng, khoa trương, chỉ nên chăm sóc việc nhà mình mà đừng nên dính vào việc nhà người. Chỉ nên nhìn đến những hình dạng tốt đẹp mà đừng để mắt tới hình dạng xấu xa bại hoại. Hãy coi mọi người đều là Bồ Tát, mà ta chỉ là kẻ phàm phu. Nếu quả có thể tu hành được như những điều kể trên, thì nhất định được sinh về thế giới Tây Phương Cực Lạc”.
Trên đây chúng tôi đã trình bày nội dung chân thật niệm Phật, còn như thế nào gọi là Cực Lạc hiện tiền? Thật ra nếu quý Phật tử đã đạt đến chỗ chân thật niệm Phật, nghĩa là quý Phật tử thực hành hạnh buông xả và chí thành cung kính niệm Phật thì ngay đó là Cực Lạc rồi, chứ không đợi phải vãng sanh mới được cực lạc. Thế giới Tây Phương Cực Lạc mà chúng ta đã từng nghe, từng biết, sẽ là kết quả chắc chắn của mỗi chúng ta, nếu như chúng ta chân thật niệm Phật, nếu như chúng ta đạt đến nhất tâm bất loạn. Khi đó chúng ta không chỉ nghe, chỉ biết, mà còn tận mắt chứng kiến, tâm tâm giao cảm. Bởi điều này đức Phật A Di Đà đã hứa khả và ngài luôn thủ tín với chúng ta.
Các bậc Tổ Sư thường dạy: “Quá khứ là việc đã qua, đừng luyến tiếc; tương lai là việc chưa đến, đừng cầu mong; hiện tại hãy an trí trong chánh niệm”. Chúng tôi nghĩ rằng đây là điều rất quan trọng đối với hành giả Tịnh Độ. Trong suốt quá trình niệm Phật, chúng ta không cầu mong về tương lai là để chúng ta không khởi vọng tâm hướng ngoại tìm cầu, chúng ta không vọng khởi về bất cứ điều gì là để tâm của chúng ta an trú trong chánh niệm. Có như vậy thì chúng ta mới loại trừ được tạp niệm, vọng tưởng; mới không sanh nhị tâm, mới có cơ may đạt đến nhất tâm bất loạn. Cho nên chúng ta chỉ cần buông xả và cung kính chí thành niệm Phật thì hiện tại là chánh niệm. Hiện tại tinh chuyên vào danh hiệu Phật thì đây tức là Cực Lạc hiện tiền.
Quý Phật tử sau khi đọc qua chương Chân thật niệm Phật – Cực lạc hiện tiền này, chắc có lẽ quý Phật tử cũng đã có thêm hiểu biết về pháp môn niệm Phật, nếu quý Phật tử chuyên chú thực hiện rốt ráo, thì tất cả chúng ta đều có khả năng xây dựng một cõi Cực Lạc ngay tự tâm mình. Chính điều này là cơ sở để chúng ta xây dựng thế giới Ta Bà khổ đau phiền trược này trở thành một thế giới hòa bình – hạnh phúc an lạc. Chúng tôi tin chắc rằng Chân Thật Niệm Phật thì Cực Lạc Hiện Tiền.