Skip Navigation LinksHome > Pháp Bảo > Khai Thị Phật Học > Hat-Minh-Chau-Va-Cay-Tich-Truong-Bo-Tat-Dia-Tang-Cam-Co-Y-Nghia-Gi...?

Hạt Minh Châu Và Cây Tích Trượng Bồ Tát Địa Tạng Cầm Có Ý Nghĩa Gì...?
Thượng Tọa Thích Phước Thái

Hỏi: Kính thưa thầy, con thấy Bồ Tát Địa Tạng trong lòng bàn tay trái của Ngài có cầm hạt minh châu còn tay phải của Ngài thì cầm cây tích trượng, con không hiểu điều đó tượng trưng cho ý nghĩa gì? Kính mong thầy giải đáp cho.

Đáp: Đó là hình ảnh tượng trưng cho một ý nghĩa rất thâm sâu. Đức Bồ tát Địa Tạng mang hình ảnh của một vị xuất gia, Tỳ kheo. Trong khi đó các vị Bồ tát khác phần nhiều lại hiện thân cư sĩ. Như chúng ta đều biết, Bồ tát Địa Tạng có một thệ nguyện rất rộng lớn:

Địa ngục vị không
Thệ bất thành Phật
Chúng sanh độ tận
Phương chứng Bồ đề.


Nghĩa là:

Nếu còn một chúng sanh nào trong địa ngục, thì Ngài thệ nguyện là không thành Phật. Khi nào cứu độ hết chúng sanh, thì Ngài mới thành Phật, tức chứng quả Bồ đề. Nhưng biết bao giờ địa ngục mới trống không đây? Và làm sao có thể độ hết chúng sanh? Trong bốn loài chúng sanh (thai, noãn, thấp, hóa), chỉ riêng loài thai sanh như loài người của chúng ta thôi, thử hỏi biết bao giờ Ngài mới độ hết? Chính vì vậy mà ta thấy bản nguyện của Ngài thật là rộng lớn vô biên không thể nào suy lường được. Vì xứng theo bản nguyện độ sanh của Ngài nên hình ảnh của Ngài phải là con người giải thoát (xuất gia). Mình có giải thoát thì mới có thể độ chúng sanh được giải thoát như mình. Vì thế, nên người ta tạc tượng Ngài để tôn thờ qua hình ảnh của một con người siêu thoát. Với mục đích là để cho chúng sanh phát tâm hâm mộ để cầu Ngài độ thoát. Tuy nhiên, muốn cứu độ chúng sanh, tất nhiên phải cần đến những phương tiện. Tích trượng và minh châu là hai vật thể được tượng trưng nhằm cảnh tỉnh thức nhắc chúng sanh nên hồi quang phản chiếu lại tự tâm mình.

Tích trượng là một pháp khí thỉnh thoảng chúng ta hay thấy các nhà sư thường dùng. Đây là vật mà đức Phật và tăng đoàn thời xưa thường hay sử dụng. Xưa kia, đức Phật và các vị tăng đoàn khi đi khất thực, vai mang bình bát, tay cầm tích trượng. Tích trượng có hai công dụng:

- Một là, khi đến trước cửa nhà người, thì rung tích trượng reng reng để người trong nhà biết mà mang thức ăn ra cúng dường.

- Hai là, dùng nó trong lúc đi đường. Bởi Ấn Độ thời xưa rắn rết rất nhiều. Nhất là những con đường có cây cỏ bụi rậm um tùm nên cần phải dùng gậy xua đuổi chúng nó để khỏi bị họa hại.

Còn trên đầu tích trượng có mười hai khoen là tượng trưng cho mười hai nhân duyên. Mười hai nhân duyên gồm có: Vô minh, hành, thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ,  hữu, sanh, lão tử. Đó là một chuỗi xích mà chúng sanh luôn bị nó trói buộc phải chịu nhiều đau khổ. Chính đức Phật là người đã giác ngộ mười hai nhân duyên nầy mà Ngài thành Phật. Từ đó, Ngài cũng đem lý nhân duyên nầy để cảnh tỉnh hóa độ chúng sanh. Nếu ai muốn giải thoát thì trước tiên cũng phải ngộ lý mười hai nhân duyên. Bồ tát Địa Tạng sở dĩ tay mặt của Ngài cầm tích trượng có mười hai khoen là nhằm nói lên cái ý nghĩa biểu trưng rằng: Ngài luôn sử dụng pháp thập nhị nhân duyên để cảnh tỉnh chúng sanh. Nhờ sự cảnh tỉnh thức nhắc của Ngài mà chúng sanh nhận được chơn lý, thoát khỏi vòng sanh tử luân hồi đau khổ.

Tuy nhiên, muốn thấu rõ lý nhân duyên, cần phải có ánh sáng trí tuệ. Vô minh là đầu mối của mười hai nhân duyên và cũng là đầu mối làm cho chúng sanh phải đau khổ. Vì vô minh che đậy tánh sáng suốt nên chúng sanh mới gây tạo nhiều nghiệp ác. Bởi do thiếu ánh sáng trí tuệ, nên không thấu rõ được đầu mối của vô minh. Từ đó mới có ra chấp ngã, chấp pháp. Ánh sáng trí tuệ phát khởi thì bóng tối vô minh sẽ không còn. Biểu thị cho ánh sáng trí tuệ đó là viên minh châu trong lòng bàn tay trái của đức Địa Tạng. Viên minh châu có công năng soi sáng tất cả chốn ngục hình tối tăm để cho chúng sanh nương theo ánh sáng đó mà được thoát khỏi chốn tối tăm ngục hình. Vì vậy, hễ có một niệm vô minh dấy lên thì liền đó có ánh sáng trí tuệ chiếu đến. Khi đã có trí tuệ thì vô minh không còn. Mà gốc vô minh không còn, thì những thứ ngọn ngành theo đó cũng bị phá vỡ tiêu tan. Sư biểu trưng đó nói lên ý nghĩa tu hành rất cụ thể. Bởi người tu, bất cứ tu pháp môn nào cũng phải sử dụng trí tuệ đứng đầu. Nếu không có trí tuệ thì làm sao chiếu phá vô minh? Không chiếu phá vô minh phiền não thì làm sao được giải thoát? Do đó, bên cạnh vô minh là phải có trí tuệ. Đó là một ý nghĩa tiêu biểu rất thâm huyền và cũng rất thực tế trong việc tu hành giải thoát vậy. 

Trích từ: 100 Câu Hỏi Phật Pháp Tập 3
Báo Lỗi Đánh Dấu Đã Đọc

Thẻ

Kinh Sách Liên Quan

   
1 Những câu chuyện linh ứng về Ngài Địa Tạng Vương Bồ Tát Tập 3, Hòa Thượng Thích Như Điển Tải Về
2 Pháp Uyển Châu Lâm - Tập 3, Hội Văn Hóa Giáo Dục Linh Sơn Đài Bắc Xuất Bản Tải Về
3 A Di Đà Kinh Sớ Sao Diễn Nghĩa Quyển 3, Cư Sĩ Bửu Quang Tự đệ tử Như Hòa Tải Về
4 Kinh Đại Bát Nhã - Tập 03, Hòa Thượng Thích Trí Nghiêm Tải Về
5 Báo Ứng Hiện Đời Tập 1 - Tập 3, Ni Sư Thích Nữ Hạnh Đoan Tải Về
6 Đại Trí Độ Luận Tập 3, Hòa Thượng Thích Thiện Siêu Tải Về
7 Kinh Đại Bửu Tích Quyển 9, Đại Lão Hòa Thượng Thích Trí Tịnh Tải Về
8 Tiểu Sử Danh Tăng Tập 3, Hòa Thượng Thích Đồng Bổn Tải Về