Người niệm Phật khi dụng công tu hành nên nhớ là làm cho vọng tưởng giảm dần chứ không phải dùng vọng tưởng để quán chiếu, hoặc ngồi tưởng tượng ra các cảnh giới. Người học Phật nên dùng trí tuệ để quán chiếu, công phu như thế lâu dần sức quán chiếu mạnh lên thì những phiền não vọng tưởng dần giảm đi, trí huệ dần dần tăng trưởng, tu như vậy thì từng bước thể nhập vào đường đạo. Nếu như quán chiếu nhưng vọng tưởng phiền não chưa dứt trừ thì biết sức quán chiếu của mình còn yếu. Như vậy, thật khó khăn trên con đường tu học. Phương pháp tu Tịnh độ chính là đem tâm cột vào một câu Phật hiệu, công đức câu Phật hiệu là không thể nghĩ bàn. Cái nhiệm mầu của câu Phật hiệu là gom tất cả vọng niệm thành một niệm, thì những vọng niệm từ từ giảm đi, tâm thanh tịnh dần dần hiển lộ. Cái siêu việt của Pháp môn niệm Phật là ở chỗ này. Tất cả Pháp môn khác không có, vì vậy mới nói đây là Pháp môn thù thắng nhất.
Nếu một đời này chẳng sinh về thế giới Tây phương Cực Lạc mà muốn ở thế giới Ta bà này hoặc nguyện sinh vào cõi chư Phật trong mười phương, hoặc cõi khác để tu hành đều phải trải qua ba A tăng kỳ kiếp mới thành tựu quả vị giác ngộ.
Căn bản của Phật giáo Đại Thừa ở chỗ phát Bồ Đề tâm, Bồ Đề tâm là gì? Là độ tất cả chúng sanh, nói một cách rõ hơn là dùng hết tâm lực để giúp cho tất cả chúng sanh phá mê khai ngộ, tâm này chính là tâm Bồ Đề.
Phương pháp nào để chúng ta làm được việc này?. Chính là áp dụng Lục độ vạn hạnh và mười nguyện của Phổ Hiền Bồ tát để làm lợi ích chúng sanh. Điều quan trọng là biết vận dụng thực tế Lục độ vạn hạnh và mười nguyện Phổ Hiền Bồ tát vào trong đời sống sinh hoạt của chúng ta, đây chính là hành Bồ tát đạo. Trong “Kinh Vô Lượng Thọ” hành hạnh Phổ Hiền chính là tu mười đại nguyện vương.
“Bố thí” nói theo danh từ thời bây giờ chính là sự hy sinh bản thân cống hiến cho xã hội. Hy sinh bản thân để cống hiến cho mọi người mục đích chính là trợ giúp cho họ phá bỏ mê lầm đi đến giác ngộ. Đây là sự cống hiến cao thượng nhất.
“Trì giới” chính là tôn trọng phép tắc, giữ gìn quy cũ.
“Nhẫn nhục” chính là tâm kiên nhẫn. Tâm kiên nhẫn, nhẫn nại trong mọi công việc, đặc biệt là những việc ở cõi đời này, vì tất cả chúng sanh từ vô lượng kiếp đến nay tích chứa phiền não, ân oán, bất bình, hằng ngày chúng ta hay gặp những sự việc không như ý thì càng nên nhẫn, bất cứ hoàn cảnh nào cũng nên nhẫn.
“Tinh tấn” là cầu sự thăng tiến, cầu sự đi lên, cho dù hoàn cảnh nào cũng quyết lòng không thay đổi, phải giữ quy cũ vững lập trường, đó là điều rất tốt. Có nhiều chư Tăng đại đức tu trì rất tốt, nhưng chẳng thể hoằng pháp lợi sinh, tại sao như vậy? Vì họ quá giữ chặt quy cũ nên chẳng thích nghi với thời đại, nhất là sinh hoạt của chúng sanh vào thời này. Cuộc sống muôn hình vạn trạng, nhưng bất cứ thời đại nào chúng ta phải biết vận dụng phương tiện khéo léo để hoằng pháp lợi sanh thích hợp với thời đại đó, phương tiện vận dụng không ngoài Lục độ vạn hạnh và mười nguyện của Phổ Hiền, làm được thì lợi lạc vô cùng. Nếu chúng ta giữ chặt quy cũ mà không uyển chuyển thì không hoằng pháp được. Phật giáo từ Ấn Độ truyền sang Trung Quốc cũng như các nước khác, đã có sự biến đổi rất lớn trên hình thức sinh hoạt.
Thời Phật còn tại thế chư Tăng ôm bát đi khất thực, ăn ngày một bữa, tối ngủ dưới gốc cây, sau khi du nhập vào các quốc gia như Trung Quốc, Việt Nam, … thì tất cả các sinh hoạt đã thay đổi hoàn toàn, để cho phù hợp với thời đại văn hoá phong tục tập quán mỗi nơi, đây mới đúng thật với nghĩa tinh tấn. Cho dù bất cứ hình thức sinh hoạt như thế nào, nhưng đến với đạo Phật là cầu sự giác ngộ, tức là khai mở trí huệ, chuyển hoá vô minh phiền não, tu Lục độ vạn hạnh cùng mười nguyện của Bồ tát Phổ Hiền. Quý vị nên nghiên cứu thêm tinh thần này trong Kinh Hoa Nghiêm thì sẽ thấu rõ đạo lý này.
“Thiền định” tức là chính mình làm chủ, có sự thấy biết như thật nơi tự tâm, chẳng bị ngoại cảnh làm động tâm.
“Bát nhã” tức là người nhận rõ sự việc sự vật và những hư ngụy, tà chánh, thị phi thiện ác một cách rõ ràng, không mê hoặc điên đảo, đó chính là trí huệ Bát nhã.
Bạn áp dụng Lục độ vạn hạnh và mười nguyện Phổ Hiền Bồ tát vào trong đời sống sinh hoạt của chính mình thì bạn sẽ an lạc hạnh phúc. Dù bạn làm việc gì cũng đều là tu hạnh Bồ tát, hành đạo Bồ tát. Một người thực hành đạo Bồ tát chính là làm cho pháp hỷ sung mãn, tức làm tâm hoan hỷ thì ngay đó phiền não chuyển thành Bồ đề, ngu si mê muội chuyển thành giác ngộ.
Người thế gian phần nhiều do công việc trói buộc phải nghĩ suy tính toán, nhiều khi phải chịu những chuyện khen chê xung quanh làm cho bức bách đau khổ, đó là pháp thế gian, là cảnh giới phàm phu, làm cho họ lẩn quẩn trong sáu đường lục đạo luân hồi. Bồ tát trong Phật giáo Đại Thừa rất vĩ đại sáng suốt, chỉ cần khởi một niệm sai quấy thì ngay đó họ tỉnh giác và chuyển niệm đó ngay, đây chính là Bồ tát. Họ thường kết duyên lành với chúng sanh, thực hành hạnh bố thí Ba la mật làm niềm vui giải thoát. Họ cũng từ tâm phàm phu tu tập thực hành chuyển đổi thành tâm Bồ tát nên họ được niềm hạnh phúc an lạc, lìa khổ được vui ngay trong hiện tại.
Người dụng công tu tập, nên nhìn cuộc đời của Lục Tổ Huệ Năng. Ngài chỉ ở dưới nhà bếp bửa củi, giã gạo, làm những công việc khổ nhọc, Ngài tu hành được khai ngộ trong lúc làm việc nấu cơm, bửa củi, hành pháp lục độ và mười nguyện Phổ Hiền Bồ tát. Có người không biết dụng công tu hành, ngày nào cũng lên thiền đường ngồi tham thiền mà chẳng thể khai ngộ, tập khí phiền não ngày càng nhiều. Chúng ta muốn dụng công tu tập phải phát tâm làm công quả bằng sự thành tâm thành ý như rửa bát, lau bàn,… theo Lục độ vạn hạnh và mười nguyện của Phổ Hiền Bồ tát đến khi nhân duyên đầy đủ thì sẽ có thành tựu. Người chẳng biết tu hành khi có cơ hội làm công quả để tạo phước thì than khổ hoặc kể lể công lao,… cho nên khi nói tu tập chính là chuyển những tâm niệm phiền não thành tâm an vui hỷ xả. Muốn chuyển tập khí phiền não phải có sự tư duy đúng đắn, cái khác biệt của người biết tu hay người không biết tu là ở chỗ này.
Pháp sư Đàm Hư kể rằng: Tại chùa Hám Sơn ở huyện Thanh Đảo hằng ngày có pháp hội niệm Phật. Trong pháp hội đó có một bà cụ tên là Trương Thị trên bảy mươi tuổi ngày ngày đến chùa xuống bếp rửa chén, lau chùi quét dọn phục vụ công việc ở dưới bếp, đó là bà tu Lục độ vạn hạnh và mười nguyện Phổ Hiền Bồ tát. Một hôm bà báo cho đạo tràng biết ngày giờ bà vãng sanh, đúng ngày giờ bà ngồi như vậy mà tự tại văng sanh. Mọi người trong pháp hội ai cũng biết bà là người không biết chữ, đọc sách không được, học kinh chẳng nhớ, chỉ cùng mọi người làm công quả ở dưới bếp trong chùa. Điều này, xưa nay chúng ta nghe nói người tu hành chân thật là nghe Kinh, tham thiền mới thành tựu, nhưng tại sao bà thành tựu như thế? Cái vi diệu của Phật pháp là không nghĩ bàn. Có người nghe Kinh, tham thiền nhưng lại không thành tựu như bà. Điều này, người chân chính tu hành cần phải tư duy, áp dụng công phu tu tập của mình vào trong đời sống sinh hoạt thì sẽ có được lợi lạc trong hiện tại và tương lai.
Theo đường hướng tu tập của Phật giáo Đại Thừa, muốn liễu thoát sanh tử ngay trong đời này, chúng ta cần nắm chắc một điều là niệm Phật cầu vãng sanh Tịnh độ. Muốn làm điều này một cách chân thành thì phải theo lời dạy của Bồ tát Phổ Hiền là: “Hiểu về con đường Bồ tát đạo, tu và thực hành Bồ tát hạnh”. Trong Kinh Hoa Nghiêm chúng ta thấy Thiện Tài đồng tử phải tham vấn qua năm mươi ba vị thiện tri thức, mỗi lần Thiện Tài gặp một vị thiện tri thức đều thỉnh giáo học hỏi. Vì vậy, khi nói đến Bồ tát đạo chính là ngay trong tâm này phải có “tâm, nguyện, giải, hành” đồng với Phật. Tâm và Nguyện chính là Bồ tát đạo, Giải và Hành chính là Bồ tát hạnh.
Học Phật chính là học theo công hạnh mẫu mực của đức Phật, nếu chẳng học theo như Phật, cho dù hiện tại chẳng giống như Phật nhưng phải có tâm hướng thượng để tỉnh thức tu sửa những khiếm khuyết, rèn luyện trở thành con người có đầy đủ tư cách mô phạm cho thế gian. Có những người đề cao việc Phật học mà không chú trọng chỗ học Phật. Thế nào là Phật học? Chính là chỉ chú trọng về kiến thức mà không thực hành, xem Phật pháp như môn triết lý, nghiên cứu như môn học thế gian nên không thực hành tu tập để chuyển phiền não tham sân si nơi bản thân để có được hạnh phúc chân thật nơi nội tâm. họ học mà không chuyển hóa tập khí, càng học lại càng cống cao ngã mạn. Người chân chính học Phật pháp là để áp dụng thực hành chuyển hóa tập khí ngay nơi bản thân họ, đây mới chính là người học Phật. Cho nên học Phật mới giúp cho chúng sinh thoát khỏi những phiền não đau khổ, thoát khỏi sanh tử luân hồi, còn Phật học chỉ thoả trên vấn đề kiến thức mà chẳng giúp chúng sanh có được sự lợi ích lớn này. Điều này chúng ta cần phải hiểu một cách rõ ràng.
Sáu căn khi tiếp xúc với sáu trần mà không khởi tâm phân biệt vọng tưởng chấp trước, mà hằng thanh tịnh sáng suốt, đây gọi là “quán chiếu”.
Hiểu chính xác về hai chữ “quán chiếu” chính là từ nơi tự tánh thanh tịnh lưu xuất ra. Khi đó mắt thấy tai nghe và sự nhận biết là từ nơi tự tánh thanh tịnh. Phàm phu mê muội quên mất tự tánh, dùng vọng thức để ứng xử với nhau, vọng thức chính là tám thức tâm vương, năm mươi mốt tâm sở, còn gọi là “vọng kiến”, cũng gọi là “Đới trước cảm tình”. Thế nào gọi là cảm tình? Chính là tâm phân biệt, vọng tưởng chấp trước. Thế nào là đới trước? Chính là những cái thấy, nghe hiểu biết theo kiến giải của phàm phu bị dính mắc nơi âm thanh sắc tướng, ngũ dục lục trần. Do vậy, chúng ta biết lìa tất cả phân biệt chấp trước, vọng tưởng chính là kiến giải của Phật và Bồ tát, kiến giải của Phật và Bồ tát còn gọi là quán chiếu hoặc là chiếu kiến. Khi dùng kiến giải của phàm phu mà tu hành thì nhất định không thể vượt thoát ra khỏi sáu nẻo luân hồi.
Phàm phu rất khó đoạn lìa tình kiến, nếu dùng tình kiến để tu học cho dù bạn tu học bất cứ pháp môn nào cũng chẳng thành tựu. Người tu Tịnh độ hạ thủ công phu niệm Phật hàng phục được tình kiến thì mới dược vãng sanh, còn bị tình kiến chi phối rất khó vãng sanh. Cần nói rõ thêm rằng, khi công phu niệm Phật mà phiền não chưa đoạn hết đến phút lâm chung khởi tâm niệm Phật được vãng sanh thì đó là sự thành tựu rất lớn. Còn nếu như khi đó, phiền não sinh khởi lên thì chẳng vãng sanh được.
Nhiệm vụ chính yếu của mỗi chúng ta trong việc tu hành là tu tập cho chính mình để làm lợi lạc cho chúng sanh. Muốn được điều này, đầu tiên tâm phải chân thành tha thiết, khi mình có tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bình đẳng, tâm cung kính, tâm từ bi thì nhất định sẽ thành tựu.
Khi tu hành, cần phải nắm chắc cương lĩnh trong việc hành trì tu tập, đó là giữ vững nguyên tắc, tôn trọng quy cũ thì nhất định sẽ dễ thành tựu. Cương lĩnh nguyên tắc chính là “Phát Bồ đề tâm, nhất hướng chuyên niệm” đạo lý ở hai câu nói này, chúng ta phải hiểu ý nghĩa cũng như lý giải một cách thấu triệt. Tịnh Tông thường hành theo quy cũ đó là “Tịnh Tông đồng học, tu hành thủ tắc”, mục đích là giúp cho mọi người thực hành tam phước, lục hòa, tam học, Lục độ vạn hạnh, thập nguyện Phổ Hiền. Điều thiết yếu là áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt, đây chính là tự mình thực hành và giáo hòa chúng sanh.
Trong Phật giáo Đại thừa tu hành đến chỗ rốt ráo viên mãn chính là y theo ”Hạnh Phổ Hiền Bồ tát”. Hạnh Phổ Hiền Bồ tát là “kính lễ chư Phật, xưng tán Như Lai, cúng dường rộng khắp, sám hối nghiệp chướng, tùy hỷ công đức, thỉnh chuyển pháp luân, thỉnh Phật trụ thế, thường tùy Phật học, hằng thuận chúng sanh, phổ giai hồi hướng”. Những điều này chúng ta cần phải áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt của chúng ta. Lễ kính là tâm chân thành cung kính, xưng tán là ca ngợi pháp hỷ sung mãn, rộng tu cúng dường chính là phục vụ cho tất cả chúng sanh. Qua đây chúng ta biết hạnh Phổ Hiền Bồ tát ý nghĩa rất rộng lớn và thâm sâu vô cùng.
Nói về chỗ “hành môn” tóm lại một câu chính là pháp sám hối, đó cũng là một trong mười nguyện của Bồ t át Phổ Hiền l à sám hối nghiệp chướng. Điều quan trọng khi sám hối là sửa đổi tâm, sửa đổi hành vi, không nên chỉ sám hối trên hình thức mà phải chân thành sám hối. Nếu làm trên hình thức, dựa vào văn tự chữ nghĩa mà tâm không sửa đổi, vậy chẳng phải là chân thành sám hối nên không có tác dụng gì cả.
Người tu hành có ba giai đoạn, giai đoạn thứ nhất là học thuộc lòng kinh điển, sau đó đem ra đọc tụng đến nhuần nhuyễn và ghi nhớ những lời dạy trong kinh. Giai đoạn thứ hai là hiểu ý nghĩa trong kinh tức là những lời Phật dạy trong kinh phải hiểu rõ ràng, lý sự viên dung, mỗi câu mỗi chữ áp dụng vào trong đời sống sinh hoạt hằng ngày, như vậy mới làm cho kinh điển sống động, mới có thể khai mở trí huệ. Giai đoạn thứ ba là thực hành, tức là dựa vào lời Phật dạy và những phương pháp tu hành, tu chính sửa đổi những tư tưởng, kiến giải hành vi sai lầm, đó gọi là chân chánh tu hành, được như thế mới có thể vãng sanh về Cực Lạc. Chứ không phải mỗi ngày chỉ tụng kinh niệm Phật đến trăm ngàn vạn biến mới gọi là tu hành. Chúng ta biết Phật pháp chân chánh rất chú trọng việc thực hành, đây là điểm mà chúng ta cần phải đặc biệt chú ý.
Người làm công việc nấu ăn ở bếp từ việc rửa chén, lau bàn, thường người thế gian không hiểu cho đây là khổ nhưng người giác ngộ biết đây là việc đem lại niềm an lạc, vì sao vậy? Vì họ áp dụng Lục độ vạn hạnh ngay vào trong công việc, chính là thành tựu giới định và tuệ, công việc từ nhỏ cho đến lớn tất cả đều tương ứng nhau, đó đều xuất phát từ nơi tâm biết quán chiếu và cải đổi, được thế chính là đời sống của Bồ tát. “Kinh Hoa Nghiêm” dạy chúng ta những điều này, dạy chúng ta khi làm bất cứ việc gì mà đem lại an vui cho mình và mọi người đó mới thật là chân hạnh phúc. Đây mới sự thật đúng nghĩa tu hành của Đại thừa Bồ tát hạnh, đạt được Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác chính là tu ở chỗ này. Người chẳng hiểu ra chỗ này cho rằng mỗi ngày cứ ở dưới bếp rồi làm hết chuyện này đến chuyện khác thật là khổ, trong gia đình những người phụ nữ thấy như vậy là muốn tránh né rồi. Đây chính là mê, mê nên bị khổ, khi ngộ rồi thì an vui, người giác ngộ thì biết ngay những công việc mình làm đó là thực hành hạnh bố thí, tu hạnh ca ngợi xưng tán, tu hạnh cúng dường, hạnh nhẫn nhục, hạnh thiền định, hạnh trí huệ, cho nên người mê và người giác ngộ hoàn toàn chẳng giống nhau.
Phật dạy chúng sanh phước huệ song tu, phước huệ viên mãn rồi thì gọi “lưỡng túc tôn” cho nên tu phước, tu huệ là điều vô cùng trọng yếu.
Tu phước là tu như thế nào? Tức là suy nghĩ thay cho chúng sanh, làm tất cả mọi việc vì tất cả chúng sanh, quên mình để phục vụ, như thế mới gọi là tu phước đây còn gọi đại phước báo. Thế nào là làm ác? Mỗi niệm mỗi niệm chỉ nghĩ đến cho riêng mình, làm bất cứ việc gì cũng nghĩ cho riêng mình, đây là ác và cũng từ đây mà sinh ra những việc đại ác.
Buông xả tài vật là Phước, nhưng cần phải không dính mắc ở hình tướng, tu phước mà còn dính mắc nơi hình tướng thì chính là phước báo nhân thiên, lìa tướng làm phước thì minh tâm kiến tánh, mới vãng sanh bất thối thành Phật.
Không những buông xả tài sản bên ngoài mà còn phải buông xả tài sản bên trong. Sao gọi là tài sản bên trong? Đó là chỉ cho phần tinh thần của chúng ta, chúng ta đem hết khả năng sức lực của chúng ta để phục vụ chúng sanh vô điều kiện, đó gọi là tài sản bên trong, cũng gọi là nội tài. Chẳng cầu báo đáp, chỉ hết lòng phục vụ cho xã hội, cho mọi người, đây chính là bố thí.
Mục đích đặt ra công phu sáng tối là giúp cho chúng ta tu tập gạn lọc tập khí, nếu như chúng ta tu mà không gạn lọc sửa đổi tập khí thì công phu sáng tối cũng uổng công vô ích.
Thời khóa công phu buổi sáng tụng phẩm thứ sáu trong Kinh “Vô Lượng Thọ”, mục đích là làm cho tâm phát khởi bốn mươi tám lời nguyện của Phật A Di Đà nơi mỗi người, đây chính là niệm Phật, nhớ Phật ngay tâm này là Phật, ngay tâm này là A Di Đà Phật. Bốn mươi tám lời nguyện của Phật A Di Đà bao hàm y báo trang nghiêm cõi Tây phương Cực Lạc. Công phu buổi chiều chính là mỗi niệm chẳng quên lời dạy của Phật A Di Đà, chúng ta cứ y theo đó mà phụng hành, như pháp mà tu trì, đây chính là chân chánh niệm Phật, chẳng phải ở nơi đầu môi chót lưỡi.
Trong “Kinh Vô Lượng Thọ” từ phẩm ba mươi hai đến phẩm ba mươi bảy là lời dạy của Phật A Di Đà, ý nghĩa chính là năm giới và mười thiện, đây cũng là nền tảng căn bản tu tập cả Đại thừa và Tiểu thừa. Chúng ta nên nhận biết rõ ràng và dựa vào đây tu học thì công phu niệm Phật mới được thành tựu.
Xã hội giảng về học làm người chính là học luân lý và đạo đức. Nếu như học thập thiện, tứ vô lượng tâm ( từ, bi, hỷ, xả ), đây chính là học làm thiên nhân ở cõi Dục giới này, thế là họ hơn chúng ta một cấp rồi, còn học tứ thiền bát định là làm hạng nhân thiên ở cõi trời Sắc giới, cảnh giới này là cao hơn. Học bốn mươi tám lời nguyện của Phật A Di Đà, học Lục độ vạn hạnh, mười đại nguyện Phổ Hiền, đó chính là học làm nhân thiên ở thế giới Tây phương Cực Lạc, đây mới thật là việc học chân chánh đối với chsung ta.
“Học” không những hiểu mà phải thông suốt đó mới đúng là học. Ý thâm sâu của chữ “học” là “bắt chước, làm theo”. Học tập là động từ, không phải là danh từ, chính là chúng ta phải chân thành làm và đạt đến kết quả. Chúng ta tu hành mà thiện tâm chẳng thể hiển lộ ra được, nội tâm thì không được an lạc, thanh tịnh mà lăng xăng đầy vọng tưởng, nguyên nhân là vì chúng ta không nhận biết rõ ràng chân tướng sự thật của việc học.
Học là bắt đầu học từ chỗ nào? Bắt đầu đọc tụng thuộc lòng kinh điển. Trong kinh dạy điều gì, làm như thế nào thì chúng ta dựa vào kinh điển để phản tỉnh soi sáng lại chính mình. Mỗi ngày nhận ra tâm mình bị bệnh gì thì đó là giác ngộ, mỗi ngày chữa lành một bệnh thì đó mới đúng thật là chân tu. Lão Cư sĩ Hạ Liên Cư nói trong quyển “Tịnh ngữ” rằng, chúng ta có lỗi lầm nên chân thành sửa lỗi. Chân thành tu hành, chân thành làm việc, chỉ trong vòng ba năm từ địa vị phàm phu sẽ bước vào ḍng Thánh, chẳng muốn thoát khỏi phàm phu thì chẳng chịu học, chẳng chịu làm thì không còn gì phải nói cả.
Tụng Kinh cần phải có tâm chân thành, thanh tịnh, tâm cung kính để trì tụng, khi đủ duyên sẽ ngộ được ý nghĩa thâm sâu trong Kinh. Có người đọc tụng Kinh mà thấy khổ, bởi vì khi đọc tụng tâm họ bị các vọng tưởng, phiền não phân biệt chấp trước, những lời dạy và thâm ý trong kinh hoàn toàn không thể hội được, cho nên càng đọc càng khổ, càng tu càng phiền não. Chỉ có dùng tâm chân thành, thanh tịnh để đọc tụng, khi đó mới tương ưng với tâm Phật, mới sáng tỏ được diệu lý trong Kinh. Cho nên chân thành, thanh tịnh, cung kính thì không có chướng ngại, khi đó ý nghĩa trong Kinh sẽ sáng tỏ vô cùng vô tận.
Trong “Kinh Hoa Nghiêm Phẩm biệt hạnh” giảng đến chỗ cúng dường rộng khắp, cúng dường tài vật chẳng bằng cúng dường Pháp. “Kinh Duy Ma Cật” khai thị rằng “bố thí pháp là dùng thân để làm Phật sự, như pháp tu hành, làm mô phạm cho tất cả chúng sanh. Đây mới đúng là bố thí pháp chân chánh”.
Chúng ta thành tâm tu hành thực hành việc bố thí gồm tài thí, pháp thí và vô úy thí, gieo trồng ba nhân này, tương lai sẽ được ba kết quả là tài vật sung mãn, thông minh trí huệ, thân tâm an lạc sức khỏe sống lâu. Bạn phải thực hành để chúng sanh cảm nhận được, để họ thấy kết quả từ nơi bạn mà đến thỉnh giáo, lúc đó bạn mới dạy bảo họ tu tập gieo trồng ba nhân đó, cho nên điều cần yếu là mình làm để người khác học theo. Việc trì giới, mình phải hiểu tác dụng của giới luật là dứt trừ các điều ác, giúp cho tâm mình đạt đến chỗ thanh tịnh an vui. Nếu như bạn không làm được điều này mà đi giảng cho người khác nghe, khuyên người khác làm, việc làm này là không phù hợp, mọi người sẽ không tin bạn.
Trong Kinh Phật dạy “Bồ tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”. Chúng sanh cứ bị vọng nghiệp lôi kéo không sợ nhân quả nên tạo đủ thứ nghiệp xấu ác, đến khi quả báo tới rồi họ mới thức tỉnh, mới lo sợ. Chính điều này chúng ta cần phải suy nghĩ rõ ràng trước khi làm việc gì, đem những điều này giảng dạy cho mọi người thông hiểu, để tự họ quán sát, phản tỉnh, sau đó phát tâm học tập, đây mới đúng thật là bố thí pháp thù thắng nhất.
Chúng ta học “Kinh Kim Cang” mục đích chính là khuyên bảo dạy dỗ mọi người hiểu rõ thấu suốt bản chất chân tướng của vạn sự vạn vật, buông xả tất cả, chân thành niệm Phật cầu sanh Tịnh độ. Ngoài ra, đức Phật thuyết “Kinh Bát Nhã” hai mươi hai năm mục đích là dạy chúng ta ”Nhìn thấu, Buông xuống”. Tại sao hai mươi hai năm giảng kinh Bát Nhã, cuối cùng chung quy lại bốn chữ “Nhìn thấu, Buông xuống”? Quý vị suy nghĩ, sau khi nghe xong rồi, học xong rồi, chúng ta có thể nhìn thấu chưa? Có thể buông xuống chưa? Nghe là nghe như vậy, nhưng tập khí cũ vẫn còn y vậy, nghe hiểu nhưng chẳng thông suốt, buông nhưng không xả, từ sáng đến tối tâm đầy những suy nghĩ loạn tưởng điên đảo, rồi phát ra lời nói hành vi phê bình chỉ trích người khác, chẳng có quán chiếu soi xét kiểm điểm lại bản thân mình. Đây chính là hiểu mà không thông, buông xả mà không xả là vậy.
Con đường tu học của Phật pháp tóm lại không rời “Giới, Định, Huệ”. “Giới” chính là nắm giữ Phật pháp, quy cũ mà đức Thế Tôn đã dạy trong tất cả kinh điển, chúng ta y theo đó mà làm. Điểm then chốt vô cùng quan trọng của việc tu hành chính là “Định”, “Định” chính là tâm thanh tịnh. Khi tâm thanh tịnh thì đối với nghịch cảnh hay thuận cảnh cũng đều tu tập được cả, chẳng bị người khác hay hoàn cảnh quấy nhiễu, hoặc làm ô nhiễm, thế là đạo nghiệp của bạn tự nhiên thành tựu. Khi có định thì phát sinh trí huệ, huệ chính là nhận định rõ việc thiện ác, đúng sai, đây là trí huệ chân thật, tuyệt đối không khởi tâm động niệm, bởi vì khởi tâm động niệm thì rơi vào ý thức tình chấp, ngay đây thì Giới Định Huệ liền không còn. Chính vì vậy, Phật và Bồ tát hoàn toàn không có tâm oán hận bất cứ chúng sanh nào, dù gặp người ác việc ác làm chướng ngại, nhưng các Ngài vẫn an nhiên tự tại không khởi tâm oán hận. Vì sao vậy? Vì các Ngài mong người ác sớm giác ngộ, hồi đầu, bởi vì họ cũng như tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, cho nên Phật và Bồ tát đối với họ luôn tôn kính và trải tình thương đến cho họ.
Trong nhà Phật dùng từ “khai ngộ”, “tu hành”. Khi đọc tụng kinh có lúc chúng ta ngộ, niệm Phật cũng có lúc chúng ta khai ngộ, nhưng làm thế nào ngay trong đời sống sinh hoạt khi tiếp người đối vật mà chúng ta có thể giác ngộ. “Ngộ” chính là tỉnh giác nhận biết được những sai lầm, đó gọi là ngộ, từ chỗ nhận biết được những sai lầm chúng ta chỉnh sửa lại, đó gọi là tu hành. Tu hành chẳng phải mỗi ngày tụng bao nhiêu quyển kinh, niệm bao nhiêu câu Phật hiệu, lạy Phật thật nhiều, nếu không nhận biết rõ sự thật này thì những việc đó chỉ là “tu hành” trên hình thức mà thôi, nói tóm lại con đường tu hành chính là “biết lỗi” và “sửa lỗi”. chúng ta đem bốn chữ này thực hành thì những lỗi lầm dần dần sẽ được chuyển hóa, đến lúc không còn một lỗi lầm nào, một sự ô nhiễm nào trong tâm chúng ta cả thì chúng ta thành tựu.
Chúng ta sống ở thế gian, chúng ta có thể làm trọn bổn phận và trách nhiệm, thì đó là tu phước. Điều quan trọng trong khi làm việc, bạn đừng sợ mình bị thiệt thòi, bạn phục vụ càng nhiều với tâm lượng mở rộng thì phước càng lớn, vì sao khi làm việc mà hay gặp phiền não? Là khi làm việc bạn để tâm dính mắc, chấp trước vào công việc. Khi tâm dính mắc mà không buông xuống được thì dù làm nhiều hay làm ít cũng không lợi lạc gì cho mình và cho người. Kinh “Kim Cang” nói “ưng vô sở trụ nhi sinh kỳ tâm”. Đây mới đúng thật là phước báo chân thật, đem phước đức chuyển thành công đức. Nếu như trong tâm bạn lúc nào cũng nghĩ “ta đã làm vô số việc lợi ích cho chúng sanh”, đây là pháp thế gian, là phước báo hữu lậu nên kết quả nhận được thì lại nhỏ.