Home > Khai Thị Niệm Phật > Tinh-Do-Phap-Mon-Thu-Thang
Tịnh Độ Pháp Môn Thù Thắng
Hòa Thượng Thích Thiện Phụng


Trước đây trong cuốn Nhất tâm niệm Phật – Quyết định vãng sanh chúng tôi đã sơ lược về pháp môn Tịnh Độ, trong đó có nói về Kinh A Di Đà và Luận Tịnh Độ Vãng Sanh của ngài Thế Thân, 48 đại nguyện của Phật A Di Đà và phương pháp tu trì danh niệm Phật, ngõ hầu giúp hàng Phật tử sơ cơ có được những kiến thức cơ bản của pháp môn Tịnh Độ. Trong cuốn Chân thật niệm Phật Cực Lạc hiện tiền này, chúng tôi biên soạn thêm phần Chánh Kiến Tịnh Độ gồm các chương Tịnh Độ thù thắng, Ý nghĩa Tịnh Độ, Những điều cần biết về thế giới Tây Phương Cực Lạc... mục đích nhằm tăng trưởng Tín Hạnh Nguyện cho quý Phật tử, qua đó đồng thời nhằm củng cố niềm tin trước sự thiếu hiểu biết và ngộ nhận của quần chúng Phật tử sơ cơ về ý nghĩa thiết thực của việc niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

Pháp môn Tịnh Độ xét về lý thì cực kỳ cao siêu, còn xét về sự thì vô cùng giản dị. Về điều này Đại Sư Ấn Quang đã dạy: “Pháp môn Tịnh Độ chính là pháp môn tối huyền, tối diệu, chí viên, chí đốn trong giáo pháp của cả một đời đức Phật (một pháp có đủ hết thảy pháp gọi là viên, ngay trong đời này tu sẽ chứng đắc gọi là đốn). Hạng phàm phu lè tè sát đất cũng vào được pháp này, bậc Đẳng Giác Bồ Tát cũng không ra khỏi pháp này. Thật là một con đường tắt để thượng Thánh hạ phàm chóng thành Phật đạo, là một chiếc thuyền từ phổ độ chúng sanh của chư Phật, chư Tổ”.

Điều thù thắng đầu tiên của pháp môn Tịnh Độ mà đức Phật đã chỉ dạy trong kinh Quán Vô Lương Thọ là “Tâm này làm Phật – Tâm này là Phật”. Ở đây đức Phật chỉ thẳng tâm chúng ta là Phật, nếu người học Phật không lãnh hội được yếu chỉ Tịnh Độ quá thẳng tắt này, thì vẫn có thể nhận ra ngay trong nơi mỗi niệm (niệm Phật) đó, chính là Phật chứ không đâu khác. Nếu người học Phật vẫn chưa nhận ra, thì phát khởi Tín Hạnh Nguyện, Tin sâu – Nguyện thiết Hạnh chuyên, trì danh đạt đến nhất tâm bất loạn thì vẫn có thể ngộ ra tự tánh Di Đà, sẽ được an nhiên tự tại vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc. Chính vì vậy mà trong một pháp môn Tịnh Độ thống nhiếp cả Thiền, Luật, Giáo; độ khắp ba căn Thượng, Trung, Hạ. Trong Ấn Quang Đại Sư Gia Ngôn Lục, ngài Ấn Quang đã dạy: “Hết thảy pháp Thiên, Viên, Đốn, Tiệm không pháp nào chẳng phát xuất từ pháp giới này (tức Tịnh Độ). Hết thảy hạnh Đại, Tiểu, Quyền, Thật không hạnh nào chẳng quy về pháp giới này. Chẳng đoạn hoặc nghiệp, liền được dự vào hàng Bổ Xứ, viên mãn Bồ Đề ngay trong một đời. Chúng sanh trong cửu giới lìa pháp môn này thì trên chẳng thể viên thành Phật đạo. Mười phương chư Phật mà bỏ pháp môn này thì dưới chẳng thể lợi khắp quần sanh. Bởi đó, trọn Hoa Nghiêm hải chúng cùng tuân theo mười đại nguyện vương, Pháp Hoa vừa xưng một tiếng liền chứng thật tướng các pháp... Tịnh Độ là hạnh phương tiện tối thắng, nên trong Luận Khởi Tín, ngài Mã Minh bảo là dễ hành mau đến, ngài Long Thọ cũng đã xiển dương pháp này trong Luận Tỳ Bà Sa. Hậu thân của đức Phật Thích Ca là ngài Trí Giả nói ra Thập Nghi Luận chuyên chí Tây Phương Cực Lạc, Sư Vĩnh Minh là Phật Di Lặc thị hiện soạn Tứ Liệu Giản, chung thân niệm Phật, dẫn Tam thừa Ngũ tánh cùng chứng chân thường, đưa thượng Thánh hạ phàm cùng lên bờ kia. Vì thế pháp môn này cả cửu giới cùng hướng về, mười phương cùng khen ngợi, ngàn kinh cùng xiển dương, vạn luận đều tuyên thuyết. Thật có thể nói là pháp cực đàm của một đời giáo hóa của đức Phật, là đại giáo nhất thừa vô thượng, chẳng trồng cội đức thì trải bao kiếp khó gặp được, nay đã được thấy nghe phải siêng tu tập. Giáo – Lý – Hạnh – Quả là cương tông của Phật pháp. Nhớ Phật, niệm Phật là đường tắt để đắc đạo. Thời xưa nếu tu một pháp thì cả bốn (Giáo – Lý – Hạnh – Quả) đều đủ. Còn đời này, nếu bỏ Tịnh Độ thì hồn tồn chẳng chứng được đạo quả. Thế nên, Thánh hiền đời trước, ai nấy đều hướng về, ngàn kinh vạn luận đâu đâu cũng chỉ quy. Từ sau hội Hoa Nghiêm dẫn khởi quy hướng, các Đại Bồ Tát tận khắp mười phương thế giới không vị nào chẳng cầu sanh Tịnh Độ; kể từ khi đức Phật Thích Ca diễn thuyết tại Kỳ Viên đến nay, hết thảy các trước thuật của Tây Thiên, Đông Độ đều quy kết Tây Phương Cực Lạc”.

Cổ nhân nói Thân người khó được – Phật pháp khó nghe. Chúng ta may mắn được thân người, được nghe Phật pháp. Điều bất hạnh là tự thẹn nghiệp chướng sâu dày, không sức đoạn hoặc để mau thốt khỏi tam giới, liễu sinh thốt tử, nhưng lại may mắn được nghe đức Phật bi tâm triệt để nói ra pháp môn Tịnh Độ là pháp đại quyền xảo, phương tiện lạ lùng, khiến hàng phàm phu ngu muội cũng được đới nghiệp vãng sanh, thật không còn gì may mắn hơn nữa! Nếu chẳng phải từ vô lượng kiếp đến nay, đã trồng thiện căn sâu dày, làm sao nghe được pháp chẳng thể nghĩ bàn này? Giả sử khắp cả đại địa chúng sanh đều thành Chánh Giác, hiện tướng lưỡi rộng dài dùng sức thần thông, sức trí huệ, nói không gián đoạn vẫn không thể nói tột nổi. Bởi lẽ, Tịnh Độ vốn là chẳng thể nghĩ bàn.

Nên biết rằng, chúng ta từ vô thỉ đến nay đã tạo ác nghiệp vô lượng vô biên. Kinh Hoa Nghiêm dạy: “Giả sử ác nghiệp có thể tướng thì mười phương hư không chẳng thể chứa đựng nổi”. Lẽ đâu tu lơ mơ, hời hợt, lại tiêu nổi được nghiệp ư? Bởi vậy, Phật Thích Ca, Phật A Di Đà, giáo chủ hai cõi đau đáu nghĩ đến chúng sanh không đủ sức đoạn hoặc, riêng mở ra một pháp môn nương vào từ lực của Phật để đới nghiệp vãng sanh. Lòng hoằng từ đại bi ấy dù trời đất, cha mẹ cũng chẳng thể bằng được một phần hằng hà sa, chỉ nên phát lòng hổ thẹn, phát tâm sám hối mới tự có thể được Phật gia bị, tiêu nghiệp, thân an thôi! Hòa thượng Thiện Đạo nói: “Nếu muốn học về Giải thì hết thảy các pháp từ địa vị phàm phu cho đến địa vị Phật, không pháp nào chẳng nên học... Nếu muốn học về Hạnh, thì chỉ nên chọn lấy một pháp khế cơ khế lý, tinh chuyện tận sức mới mau chứng được lợi ích chân thật. Nếu không thì từ kiếp này qua kiếp nọ vẫn khó xuất ly sanh tử luân hồi”. Pháp khế lý, khế cơ mà ngài Thiện Đạo nói đó, không gì khác hơn là Tín – Nguyện trì danh niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc.

Như chúng ta đã biết, trong các kinh Vô Lượng Thọ, kinh Quán Vô Lượng Thọ, kinh A Di Đà (gọi là Tịnh Độ tam kinh) chuyên luận về sự lý duyên khởi của Tịnh Độ; Các kinh đại thừa khác thảy đều nói kèm về Tịnh Độ. Thế nhưng kinh Hoa Nghiêm là bộ kinh mà khi đức Phật mới thành Chánh Giác, vì bốn mươi mốt vị Đại sĩ mà xứng tánh giảng thẳng diệu pháp nhất thừa. Cuối kinh, Thiện Tài đi tham học khắp các thiện tri thức. Sau khi chứng ngộ như chư Phật, Thiện Tài đồng tử được Phổ Hiền Bồ Tát giảng cho nghe Mười đại nguyện vương. Ngài dạy Thiện Tài và khắp Hoa Nghiêm hải chúng hồi hướng vãng sanh thế giới Tây Phương Cực Lạc ngõ hầu được viên mãn Phật quả.

Tính thù thắng của Tịnh Độ nổi bật lên trong Quán Vô Lượng Thọ Kinh, phần nói về Hạ phẩm Hạ sanh, đối với kẻ ngũ nghịch, thập ác gồm đủ các điều bất thiện, lúc lâm chung tướng địa ngục hiện ra, ngay khi đó có thiện tri thức dạy cho niệm Phật, kẻ ấy liền vâng lời dạy, xưng niệm Phật danh, chưa đầy mười tiếng liền thấy hóa thân Phật đưa tay tiếp dẫn vãng sanh. Kinh Đại Tập dạy: “Đời mạt pháp ức ức người tu hành, hiếm có một người đắc đạo. Chỉ có nương vào niệm Phật mới thốt khỏi sanh tử”. Do đó chúng ta biết rằng, pháp niệm Phật là đạo để phàm Thánh cùng tu, dù trí hay ngu cũng đều hành được. Niệm Phật là pháp hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít nhưng được hiệu quả nhanh. Do chuyên cậy vào Phật lực nên lợi ích thù thắng, vượt trội những giáo pháp thông thường. Người xưa nói: “Các môn khác học đạo như kiến bò lên núi cao. Niệm Phật vãng sanh như căng buồm thuận gió, nước xuôi”. Đây là sức thù thắng của pháp môn Tịnh Độ vậy!

Đấng Đại Giác Thế Tôn vì thương chúng sinh mê trái tự tâm, trầm luân trong biển khổ luân hồi sanh tử, nên ngài thị hiện sinh ra trong thế gian thành bậc Đẳng Chánh Giác, tùy thuận cơ nghi nói pháp. Đại cương gồm có năm tông: Đó là Luật, Giáo, Thiền, Mật, Tịnh. Luật là thân Phật, giáo là lời Phật, Thiền là tâm Phật. Sở dĩ Phật độ chúng sinh cũng là do ba pháp này. Nếu chúng sanh thật sự nương theo Luật, Giáo, Thiền thì ba nghiệp của chúng sanh sẽ chyển thành ba nghiệp của chư Phật. Ba nghiệp đã chuyển thì phiền não chính là Bồ đề, sinh tử chính là Niết Bàn. Tuy nhiên, ngài lại sợ rằng chúng sanh tác nghiệp sâu nặng chẳng thể dễ chuyển nên dùng sức Đà Ra Ni Tam Mật gia trì để un đúc. Song, ngài lại sợ căn khí chúng sanh kém cỏi, chưa được giải thốt, phải thọ sanh lần nữa sẽ khó tránh khỏi sự mê lầm, vì thế ngài đặc biệt mở ra pháp môn Tịnh Độ, nương Tín – Nguyện trì danh niệm Phật cầu vãng sanh Tây Phương Cực Lạc ngay trong đời này. Bậc Thánh thì mau chứng Vô Thượng Bồ Đề, kẻ phàm thì vĩnh viễn thốt khỏi luân hồi sanh tử. Do dựa vào tha lực của Phật nên công đức lợi ích chẳng thể nghĩ bàn. Nhân đây, chúng ta cũng nên biết rằng, Luật là nền tảng của Giáo, Thiền, Tịnh, Mật, nếu người học Phật chẳng nghiêm trì giới cấm thì sẽ chẳng đạt được lợi ích chân thật nơi Giáo, Thiền, Tịnh, Mật. Như xây lầu cao mà nền móng chẳng vững thì chưa cất xong nó đã sụp đổ. Riêng Tịnh là chỗ quy túc của Giáo, Thiền, Mật, như trăm sông vạn dòng đều chảy vào biển cả.

Từ kinh Hoa Nghiêm, pháp môn Tịnh Độ là pháp môn để mười phương chư Phật trên thành Phật đạo, dưới độ chúng sanh, các bậc Đại Sĩ, Bồ Tát cũng đều tu tập pháp môn Tịnh Độ để mau thành Phật quả. Đến kinh Quán Vô Lượng Thọ, kẻ phàm phu phạm tội ngũ nghịch thập ác, sắp đọa địa ngục, niệm Phật mười tiếng hoặc chỉ được mấy tiếng là mạng chung, thì cũng được chư Phật tiếp dẫn vãng sanh Cực Lạc. Như vậy, công đức lợi ích của pháp môn Tịnh Độ thù thắng vượt trội hơn các giáo pháp khác trong cả một đời giáo hóa của đức Phật. Chính vì vậy mà trong các kinh đại thừa như Hoa Nghiêm, kinh Pháp Hoa, các đại Bồ Tát như Văn Thù, Phổ Hiền, các đại Tổ Sư như Mã Minh, Long Thọ đều xiển dương, khen ngợi, chỉ dạy, phổ khuyến vãng sanh. Từ sự thù thắng nhiệm mầu của pháp môn Tịnh Độ, chúng ta nhận ra, đức Phật Di Đà và Phật Thích Ca trong những kiếp lâu xa, đã phát đại thệ nguyện rộng lớn độ thốt chúng sanh. Đức Phật Thích Ca thì thị hiện sinh ra trong uế độ, dùng nhơ, dùng khổ chiết phục, hòng đưa chúng sanh mau mau thốt nạn. Còn đức Phật Di Đà thì thị hiện an cư Tịnh Độ, dùng tịnh, dùng vui nhiếp thọ để lôi kéo về Tây Phương uốn nắn. Quả thật, lòng đại từ đại bi của chư Phật là vô biên vô hạn, nếu không ăn năn hối cải, Tín – Nguyện trì danh niệm Phật thì chẳng lấy gì mà đền đáp thâm ân cao dày này được.

Chư tôn đức dạy rằng, hết thảy pháp môn tuy đốn tiệm khác nhau, quyền thật khác nhau, nhưng cũng đều phải dụng công tu tập sâu xa mới có thể đoạn hoặc chứng chơn, xuất ly sanh tử. Đó gọi là tự lực, hồn tồn không dựa vào điều gì cả. Tuy nhiên, nếu như còn chút hoặc chưa tận thì vẫn bị luân hồi như cũ. Người học Phật thời nay cần phải thấu đạt lý này. Nếu chẳng phải hạng người sẵn có linh căn từ đời trước, thì chỉ trong đời này thật khó lòng chứng nhập. Duy chỉ có pháp môn Tịnh Độ, chẳng luận là kẻ phú quý hay bần tiện, già trẻ, gái trai, trí ngu, tăng, tục, sĩ, nông, công, thương, hết thảy hạng người trên thế gian này đều tu tập được, đều là do đại bi, đại nguyện lực của Phật A Di Đà nhiếp thủ chúng sanh khổ não ở cõi Ta bà. Vì thế, so với các pháp môn khác, tu Tịnh Độ dễ dàng đắc quả hơn.

Phàm trong tam giới, người nhiếp được tâm, chế ngự được các phiền não hoặc nghiệp, nhưng đa phần vẫn còn chấp thân, tình chủng vẫn còn, một khi phước báo hết, sinh xuống cõi dưới, gặp cảnh, đụng duyên, lại khởi hoặc tạo nghiệp. Do nghiệp cảm khổ, nên luân hồi lục đạo cứ thế xoay chuyển không lúc nào ngưng. Vì vậy, trong kinh Pháp Hoa dạy: “Ba cõi không an giống như nhà cháy. Các khổ đầy dãy, thật đáng sợ hãi”. Nếu chẳng phải là kẻ nghiệp tận tình không, đoạn hoặc chứng chơn thì chẳng có hy vọng gì mà thốt khỏi tam giới. Nay đã có pháp môn Tịnh Độ, cốt sao người học Phật lòng tin chân chánh, nguyện thiết tha, trì danh hiệu Phật, liền có thể nương Phật từ lực vãng sanh Tây Phương. Đã được vãng sanh liền nhập Phật cảnh giới, thọ dụng như Phật, phàm tình thánh kiến thứ gì cũng chẳng sanh. Thật là ngàn phần an ổn. Nay đang thời mạt pháp, nếu người học Phật mà bỏ pháp môn này thì không còn cách nào có thể cứu khổ luân hồi sanh tử cả.

Tóm lại, sự thù thắng của pháp môn Tịnh Độ là tự lực và Phật lực cả hai cùng đủ. Bởi thế, người đã đoạn hoặc nghiệp sẽ mau chứng pháp thân. Còn người đầy dãy hoặc nghiệp thì cũng được đới nghiệp vãng sanh. Pháp trì danh niệm Phật, cực kỳ bình thường, dù là kẻ ít học độn căn cũng được hưởng lợi ích, nhưng cũng là pháp môn cực kỳ huyền diệu, dẫu là Đẳng Giác Bồ Tát cũng chẳng thốt khỏi phạm vi của pháp này. Vì thế, không một ai mà chẳng tu được. Hạ thủ dễ, thành công cao, dùng sức ít, hiệu quả nhanh, đó là tính ưu việt của pháp môn niệm Phật, đây là pháp môn đặc biệt trong cả một đời giáo hóa của Như Lai... Chính vì vậy mà chúng ta chẳng thể dùng sức giáo lý thông thường để bình luận phán đốn được. Thời mạt pháp, chúng sanh phước mỏng huệ cạn, nghiệp chướng sâu dày, nếu chẳng tu pháp này, chỉ toan cậy tự lực để đoạn hoặc chứng chơn hòng liễu sinh thốt tử, e rằng quá khó, quá khó! (Nội dung của chương này, chúng tôi lược trích và biên soạn lại từ cuốn Ấn Quang Đại sư Gia Ngôn Lục của Đại Sư Ấn Quang, Như Hòa dịch, NXB Phương Đông 2006).

Từ Ngữ Phật Học Trong: Tịnh Độ Pháp Môn Thù Thắng