Cao tăng Đạo Nguyên pháp danh Năng Tín (能信), pháp tự Đạo Nguyên, biệt hiệu là Trung Luân sa môn (Trung Luân (中輪): Pháp luân Hữu tức Không, Không tức Hữu). Ngài Đạo Nguyên sanh năm 1900 tại trấn Châu Khẩu, huyện Thương Thủy, tỉnh Hà Nam. Chín tuổi, Ngài mồ côi mẹ, được thím nuôi nấng khôn lớn. Khi Ngài hai mươi tuổi, thím qua đời, Ngài cảm ngộ nhân sanh vô thường, cương quyết nương tựa chùa Phổ Tĩnh tại trấn Châu Khẩu, xin xuống tóc dưới tòa của thượng nhân Long Phẩm. Năm 1923, Sư tròn hai mươi bốn tuổi, đến chùa Quy Nguyên tại Hán Dương, tỉnh Hồ Bắc, nương cậy luật sư Giác Thanh thọ tam đàn đại giới. Năm 1929, Sư tròn ba mươi tuổi, xin nhập học tại Phật Học Viện Vũ Xương tỉnh Hồ Bắc, có duyên phận thân cận bậc Bắc Đẩu trong Phật môn là Thái Hư đại sư. Năm 1930, Sư bế quan tiềm tu ba năm tại chùa Bảo Thông ở Hồng Sơn. Năm 1934, sau khi triều bái hai thánh địa Phật giáo là Phổ Đà Sơn và Cửu Hoa Sơn, Sư may mắn được thọ giáo với vị tổ thứ mười ba của Tịnh Độ Tông là Ấn Quang đại sư. Năm sau, Sư tới Thượng Hải, được dự vào hàng môn hạ của pháp sư Viên Anh.
Năm 1943, lúc bốn mươi bốn tuổi, trưởng lão Đạo Nguyên nhận lời mời của lão hòa thượng Việt Trần thuộc Vân Tuyền Thiền Tự ở Tứ Nhi Sơn tại Trương Gia Khẩu (chùa này được sáng lập từ năm Hồng Vũ 26 (1393) thời Minh Thái Tổ Châu Nguyên Chương) đến trụ tích tại Nam Đường của chùa để diễn giảng giới luật, chấn hưng phong khí nhà chùa suốt sáu năm, cải biến Vân Tuyền Thiền Tự từ một ngôi “tử tôn tự miếu”[1] thành thuyết pháp tùng lâm. Ngài đã ba lượt cử hành lễ truyền giới vào lúc cuối Thu tại chùa này. Trưởng lão Đạo Nguyên hai lần đảm nhiệm vai trò Đắc Giới Hòa Thượng, một lần làm Giáo Thọ A Xà Lê (Quỹ Phạm Sư). Trong các đàn truyền giới, Sư giảng giải tam đàn giới luật. Sư dựng cao pháp tràng, rộng ban pháp nhũ, tạo ảnh hưởng khá lớn, thanh danh lan xa, nối tiếp hưng thịnh Phật chủng, tín, giải, hạnh, chứng, phát tâm từ bi, hành Bồ Tát nguyện, hết lòng dốc sức lo liệu kiến thiết tự miếu chẳng tiếc sức thừa. Sư từ tâm thương xót người nghèo khổ như con ruột, bố thí, quyên góp giúp đỡ, làm rất nhiều chuyện lợi lạc cho nhân dân, vì pháp quên mình. Sư trì giới cực nghiêm, nghiêm ngặt tuân thủ chế định của nhà Phật, chỉ ăn một bữa Ngọ, sống đời nghèo khó, bình thản trước mọi nỗi phong ba. Sư từng đảm nhiệm chức Lý Sự Trưởng của hội Phật giáo tỉnh Sát Cáp Nhĩ (Chahar)[2], khiến cho Phật pháp tại vùng biên ải hưng thịnh. Năm 1949, Sư về Thượng Hải rồi sang Đài Loan. Năm 1951, Sư sáng lập Hải Hội Tự tại thành phố Cơ Long, Đài Loan.
Năm 1963, Sư nhận lời thỉnh, kiêm nhiệm chức viện trưởng Đông Sơn Phật Học Viện tại Đài Bắc. Sư nhiều lần hướng dẫn phái đoàn Phật Giáo Đài Loan tham dự hội nghị Phật giáo thế giới, cũng như nhận lời cầu thỉnh từ Hương Cảng, Tân Gia Ba, và các nước tại Đông Nam Á chống tích trượng đến hoằng pháp khắp nơi, hoằng dương pháp môn Tịnh Độ. Tại Đài Loan, Sư nhiều lần được các sơn môn cung thỉnh vào ngôi Tam Sư trong đại giới đàn, diễn giảng giới luật, tiếp độ hàng hậu học. Lúc sáu mươi lăm tuổi, Sư được chư sơn môn công cử làm Lý Sự Trưởng của hội Phật Giáo Trung Hoa tại Đài Loan, được tôn xưng mỹ hiệu “thuyết pháp bậc nhất”, tứ chúng ngưỡng vọng, là bậc y chỉ sư cho khắp tứ chúng. Ngày Mười Sáu tháng Tư năm 1988, vào lúc bảy giờ rưỡi tối, Sư an nhiên thị tịch tại chùa Hải Hội, hưởng thọ tám mươi chín tuổi, giới lạp sáu mươi sáu năm.