Home > Học Phật Căn Bản > Phat-Hoc-Tinh-Yeu

Phật Học Tinh Yếu

Xã Hội Ấn Độ Trước Khi Phật Ra Đời


Tiết mục:

I.   Nguồn gốc dân tộc Ấn-Độ
II.   Bốn thứ Phệ-Ðà
III.   Sự diễn biến của Phệ-Đà
IV.   Bốn giai cấp của xã hội Ấn-Độ 

Kinh sách tham khảo:  Nhơn-Vương-Kinh-Sớ, Ấn-Độ-Phật-Giáo, Phật-Học-Đại-Cương, Ấn-Độ-Phật-Giáo-Sử-Lược.

Đề yếu:  Tiết thứ nhất, lược thuật cuộc di cư của chủng tộc Nhã-Lỵ-An, sau thành dân Ấn-Độ, trải qua năm giai đoạn:  Từ Trung-Á dời qua Đông-Nam-Á, từ Đông-Nam-Á vào Ca-Nhĩ-Bố, từ Ca-Nhĩ-Bố đến Ấn-Độ-Hà, từ Ấn-Độ-Hà xuống lưu vực sông Hằng, và từ Hằng-Hà về Nam-Ấn.  Tiết thứ hai, nói về lý tưởng tôn-giáo của dân tộc Ấn thời xưa, được thể hiện bằng bốn pho kinh:  Lê-Câu, Dạ-Du, Sa-Ma, và A-Thát-Bà Phệ-Đà.  Tiết thứ ba, kể lại tình trạng biến đổi về tư tưởng tôn-giáo của dân tộc Ấn:  từ Đa-thần qua Nhất-thần, từ Nhất-thần lần sang khu vực Triết-học theo ba thời đại:  Phệ-Đà-Thiên-Thơ, Phạm-Thơ và Áo-Nghĩa-Thơ.  Ấn-Độ-giáo hiện thời cũng thừa kế tư tưởng của hệ thống nầy.  Tiết thứ tư, nói về sự sai biệt của bốn giai cấp:  Bà-La-Môn, Sát-Ðế-Lỵ, Phệ-Xá, Thủ-Ðà-La.  Sự sai biệt nầy có liên quan đến lý tưởng tôn-giáo, và dẫn khởi hai tư trào:  hệ thống Phệ-Đà và hệ thống phản Phệ-Đà.

Hai hệ thống nầy đã sản xuất nhiều giáo phái ở Ấn-Độ.

Tiết I:  Nguồn Gốc Dân Tộc Ấn Độ

Một tôn-giáo không luận là cao siêu hay thâm thúy đến đâu, cũng vẫn là sản phẩm của xã hội.  Là sản phẩm của xã hội, tất nhiên tôn-giáo ảnh hưởng đến xã hội và đồng thời cũng chịu ảnh hưởng của xã hội.  Đó là điều không thể tránh.

Phật-giáo có một lịch sử trên hai ngàn năm, đông tây truyền bá đến vài mươi nước.  Ngoài năm xứ của Ấn-Độ, Phật-giáo đã gieo rắc rất nhiều ảnh hưởng ở các nơi.  Trong sự gieo rắc ấy, qua mỗi thời đại, Phật-giáo lại tùy theo tình trạng xã hội của mỗi địa phương mà có ít nhiều biến thái về bản sắc.  Vì thế, muốn nói đến điểm xuất phát của đạo Phật, không thể đi sâu vào bối cảnh lịch sử của Ấn-Độ đương thời.

Trước đây độ trên bốn ngàn năm, dân tộc xưa nhất của Ấn-Độ là giống người Nhã-Lỵ-An (Aryan).  Chủng tộc nầy lấy nghề du mục để sinh sống.  Trước tiên họ cư trụ ở miền trung nguyên Á-Tế-Á, rồi vượt qua dãy núi Tín-Độ-Khố-Tư (Hindukush), dời xuống vùng đông nam Á-Tế-Á.  Từ nơi đây, họ chia làm hai bộ, một bộ di chuyển về phía tây nam vào xứ Ba-Tư (Iran); một bộ tiến thẳng về phía đông nam vào xứ Ca-Nhĩ-Bố (Kabul) và lần xâm nhập miền Tây-bắc Ấn-Độ, đánh đuổi người bản xứ, chiếm lãnh vùng Bằng-Xà-Bạch (Panjab Ngũ-Hà địa phương) thuộc thượng lưu Ấn-Độ hà (Indus).  Sau đó, họ lại đi dọc theo dãy núi Tuyết (Hymalaya), vào ở tại lưu vực sông Hằng (Ganga, Gange).  Cuộc di cư sau nầy, thuộc vào khoảng 1000 năm trước kỷ nguyên.  Trong mười vạn bài tụng của bộ Đại-sử-thi Ma-Ha-Bà-La-Đa (Mahàbhàrata), có nói rõ những chiến sự và tình trạng giữa thời gian đó.  Còn cuộc di chuyển tiếp tục về Nam-Ấn, ước vào khoảng 500 năm trước kỷ nguyên.  Trong khoảng thời gian nầy, để ghi lại sự giao tranh giữa thổ nhơn và chủng tộc Nhã-Lỵ-An, người Ấn-Độ đã mượn cảnh động tác của cá nhơn mà làm ra bộ La-Ma-Diễn-Noa (Ramayana), gồm hai vạn bốn ngàn bài tụng.

Tiết II:  Bốn Thứ Phệ Ðà

Giữa thời kỳ chiếm lãnh Ấn-Độ hà, thuộc miền Tây-bắc Ấn, giống người Nhã-Lỵ-An được gọi là dân tộc Nhã-Lỵ-An Ấn-Độ.  Gặp nơi khí hậu ấm áp, thời tiết điều hòa, vật sản phong phú, dân tộc ấy hưởng một đời sống an nhàn, vui vẻ.  Vì thế, đối với bầu trời man mác, với hiện tượng nhựt, nguyệt, tinh tú, non, sông, gió, mây, nước, lửa, họ đều có một ý niệm tín thành sùng bái.  Đó là những lý do người ta đã sáng tác ra những bản thánh-ca và nghi thức cúng tế thần-linh, để cầu cho đất nước gia đình được tiêu tai, thêm phước.  Nghi thức đã nhiều thì không thể ai cũng thông thạo cả, phải có người chủ chốt việc tế tự.  Nhân đó mới sản xuất một hạng Tăng-lữ, về sau thành giai cấp Bà-La-Môn (Brahman).

Bà-La-Môn, Trung-Hoa dịch là Tịnh-hạnh hoặc Phạm-hạnh, chỉ cho phái tu hạnh trong sạch.  Kinh-điển của phái nầy gọi là Phệ-Đà (Veda), Trung-Hoa dịch là Minh-luận hoặc Trí-luận, có nghĩa:  Kinh sách thuyết minh sự thật và phát sanh trí huệ.  Kinh-điển của đạo Bà-La-Môn truyền lại có 4 thứ:

1.  Lê-Câu Phệ-Đà (Rig-Veda):  Trước tiên, dân tộc Ấn-Độ chỉ sùng bái ca ngợi những hiện tượng của tự nhiên vật.  Lần lần họ tin tưởng mỗi hiện tượng đó đều có thần linh làm chủ.  Các thần linh đều có tính cách đạo đức, có quyền thưởng phạt thế gian.  Đồng thời lại do sự hàm dưỡng của tư tưởng triết học, họ dung hợp lại, chế tác ra bộ kinh đầu tiên là Lê-Câu Phệ-Đà.  Lê-Câu Phệ-Ðà, Trung-Hoa dịch là Tán-Tụng-Minh-Luận hoặc Thọ-Minh.  Nội dung của kinh nầy gồm những bài ca tán có tính cách thần thoại, nhưng cũng bao hàm nhiều tư tưởng về vũ trụ và nhân sinh quan.  Trong ấy lại có biên tập về thuật dưỡng sanh, dạy những phương pháp làm cho con người dung sắc thường tươi trẻ, mạng sống được lâu dài.  Tư tưởng của Lê-Câu Phệ-Ðà là tư tưởng mở đầu cho nền văn minh và triết học Ấn-Độ và cũng là cơ sở để khai triển cho những trào lưu tư tưởng hậu lai.

2.  Dạ-Du Phệ-Ðà (Yajur Veda):  Từ nơi sự ca ngợi tự nhiên vật rồi tin tưởng thần linh, người ta lại bày ra những nghi thức thờ phụng cúng tế.  Đây là nguyên nhân sản xuất kinh Dạ-Du Phệ-Ðà.  Dạ-Du Phệ-Ðà, Trung-Hoa dịch là Tế-Tự-Minh-Luận, gọi tắt là Tự-Minh.  Nội dung của Kinh-điển nầy, phần nhiều đều trích dẫn trong Lê-Câu Phệ-Ðà, lấy cơ bản của sự tán tụng mà chế tác.  Trong ấy, ngoài việc biên tập về nghi thức cúng tế, lại có ghi chép những bài chú văn để tế tự trong các mùa.  Xét qua từ Lê-Câu Phệ-Ðà, cho đến Da-Du Phệ-Ðà, người ta nhận thấy tôn-giáo thời ấy tuy là đa thuần mà kiêm sắc thái nhất thần, đôi khi lại xen tạp những tư tưởng về các môn triết học.

3.  Sa-Ma Phệ-Ðà (Sàma Veda):  Để cho sự tán ca được tiện lợi, và bổ túc phần nghi lễ thêm hoàn bị, người ta lại sáng chế kinh Sa-Ma Phệ-Ðà.  Kinh-điển nầy cũng trích dẫn một phần các tụng văn trong Lê-Câu Phệ-Ðà mà làm ra.  Sa-Ma Phệ-Ðà, Trung-Hoa dịch là Ca-Vịnh-Minh-Luận, cũng gọi là Bình-Minh.  Trong đó, ngoài sự ghi chép về nghi lễ, âm nhạc, luật lệ xử đoán, lại có giảng dạy về môn bốc toán cho đến binh pháp đồ trận.  Căn cứ theo ba pho kinh Phệ-Đà trên đây, mỗi khi cúng thần, người ta đều dùng những vị tế tăng riêng biệt.

4.  A-Thát-Bà Phệ-Ðà (Atharva Veda):  Về sau, có kẻ lại tập hợp những bài chú thuật cổ truyền, được người đời tin tưởng, viết ra kinh A-Thát-Bà Phệ-Ðà.  A-Thát-Bà Phệ-Ðà, Trung-Hoa dịch là Nhương-Tai-Minh-Luận, cũng gọi là Thuật-Minh.  Trong ấy, người ta ghi chép những bài chú để cầu phước, tiêu tai.  Ngoài ra, Kinh-điển nầy cũng có dạy về y phương và nhiều dị thuật.

Bốn thứ kinh trên đây, được gọi chung là Tứ-Phệ-Ðà thánh-điển.  Đó là một hệ thống tư tưởng về thời xưa của Ấn-Độ.

Tiết III:  Sự Diễn Biến Của Phệ Ðà

Từ khi Tứ-Phệ-Ðà thánh-điển được thành lập, chủng tộc Bà-La-Môn chiếm địa vị tối cao trong xã hội, và thành ra một giai cấp Tăng-lữ.  Họ không còn những hoạt động hướng ngoại như khi trước, mà có một cuộc sống trầm tư, hướng nội, bảo thủ những truyền thuyết tán tụng, những nghi thức cúng tế theo xưa.  Các Tăng-lữ lại thẩm định những câu văn, ý nghĩa trong kinh Phệ-Ðà, rồi giải rộng thêm ra, gây thành một học phong phiền tỏa và thần bí.  Đồng thời trên hình thức tôn-giáo, những hành nghi cũng tăng thêm phần bí mật.  Khi giáo lý càng rộng, sự suy biện càng sâu, nghi thức càng phiền, thì địa vị của giai cấp Bà-La-Môn càng được bền vững.  Do đó nền văn học, đạo đức trong xã hội, nằm yên trong nếp cũ, dường như ở trong trạng thái khó nỗi chấn hưng.

Tuy nhiên, cảnh đời đã vô thường, thì nguồn tư tưởng của nhân loại cũng theo thời gian mà biến đổi.  Từ khi giai cấp Tăng-lữ mới thành lập, cho đến khoảng 600 năm trước kỷ nguyên, nếu phân tích kỹ, chúng ta có thể chia nền học thuyết của Bà-La-Môn giáo thành ba thời đại:

1.  Thời đại Phệ-Ðà-Thiên-Thơ (Veda):  Thời đại nầy khởi thủy từ khi bốn mươi quyển Lê-Câu Phệ-Ðà vừa được sáng tác, lúc dân tộc Nhã-Lỵ-An di cư xuống Ấn-Độ-hà, vào khoảng 2500 - 1000 năm trước kỷ nguyên.  Trong thời gian nầy, giáo đồ Bà-La-Môn thiên về sự sùng bái cúng tế, hình thức phần chánh thuộc về Đa-thần-giáo.  Họ có ba cú thoại (luận điệu):  Phệ-Ðà là thiên thơ (sách của Trời), Bà-La-Môn là chủng tộc cao quí nhất của nhân loại, Tế lễ là vạn năng.

Những tư tưởng trên, được truyền lại một thời gian lâu xa về sau.  Cho đến khi Phật giáng sinh, một số đông giáo đồ Bà-La-Môn vẫn còn bảo thủ lấy quan niệm cũ.  Nhưng đó là một chủ nghĩa chuyên chế, họ không thể trói buộc mãi được lòng người, khi tình thế đổi mới.  Hơn nữa, lúc bấy giờ giáo đồ Bà-La-Môn rất kiêu xa, cho nên họ không thể duy trì một cách hữu hiệu sự tín ngưỡng của đạo mình trong xã hội nữa.

2.  Thời đại Phạm-Thơ (Brahmana - Thần-học-thơ):  Thời đại nầy vào khoảng 1000 - 800 năm trước kỷ nguyên, lúc dân tộc Nhã-Lỵ-An Ấn-Độ di chuyển về phía đông nam, chiếm lãnh khu vực đồng bằng phì nhiêu trên bờ sông Hằng, lấy nghề canh nông làm mục tiêu.  Hình thức của Phệ-Ðà khi xưa thiên về Đa-thần-giáo, việc tế lễ rất nặng nề, phiền phức.  Đến thời gian nầy, dân chúng sanh ra chán những nghi thức nghiêm cách ấy.  Vì thế, trong các vị thần, người ta chọn lấy ít vị quan trọng để làm trung tâm tín ngưỡng.  Ba vị thần phổ thông nhất bấy giờ là Phạm-Thiên (Brahma), Tỳ-Nựu-Noa-Thiên (Visnu) và Thấp-Bà-Thiên (Civa).  Thế là đối tượng tín ngưỡng đã bắt đầu chuyển lần từ Đa-thần-giáo sang Nhất-thần-giáo.

Về mặt tư tưởng, từ khi Kinh-điển Phệ-Ðà được suy diễn rộng thêm, giáo lý Bà-La-Môn đượm vẻ thần bí; người ta gọi đó là học thuyết Bà-la-ma-noa, tức Phạm-thơ.  Phạm-thơ là bộ sách chú thích và thuyết minh kinh Phệ-Ðà.  Phần chủ yếu của sách nầy, đều rút những tài liệu trong Tứ-Phệ-Ðà thánh-điển, nhưng suy diễn sâu rộng đến chỗ u vi, hoàn toàn có tính cách thần học.  Tư tưởng triết học của Phạm-thơ tiến triển theo thứ tự trong ba giai đoạn:

Giai đoạn thứ nhất, Phạm (Brahma) là vị thần tối cao, trước tiên tạo ra trời đất, rồi đến Thái-dương thần, Phong thần, Hỏa thần...  con người và vạn hữu.  Vì thế Phạm cũng có hiệu là Sanh-chủ (Prajapati).  Giai đoạn nầy thiên về quan niệm sáng tạo, lấy thần Sanh-chủ làm trung tâm điểm.

Giai đoạn thứ hai, Phạm là Đại-ngã (Svayambhu), là bản thể của vũ trụ, có tính cách tuyệt đãi độc tồn.  Giá trị của Phạm đứng trên hai phương diện:  Một mặt thì duy trì cái bản chất không biến động của nó; mặt khác lại hoạt động theo hai yếu tố là Danh (Nama) và Sắc (Rupa) để mở mang vạn hữu.  Giai đoạn nầy thiên về quan niệm bất biến, lấy Đại-ngã làm trung tâm điểm.

Giai đoạn thứ ba, Phạm là Tự-ngã (Atman).  Phạm và Tự-ngã tên tuy khác nhau, nhưng cùng một thể.  Sở dĩ có tên khác nhau như thế, vì Tự-ngã do sự suy lý của triết học, chỉ định cho là nguồn gốc của muôn vật; còn Phạm thì do sự khảo sát của thần học, chỉ định cho là tự tánh của muôn vật.  Tự-ngã thuộc về phương diện tâm lý (linh hồn), Phạm thuộc về phương diện vũ trụ (linh tánh).  Căn cứ vào phương diện tâm lý thì linh hồn bất diệt, khi con người chết thì Tự-ngã lìa thể xác mà quy thuộc về Phạm.  Giai đoạn nầy lấy Tự-ngã làm trung tâm điểm

3.  Thời đại Áo-Nghĩa-Thơ (Upanishad):  Thời đại nầy thuộc vào khoảng 800 - 600 trước kỷ nguyên.  Từ nơi Phạm-thơ, người ta suy diễn rộng thêm, cho rằng khi hành nghi thức đã có hàm triết lý bên trong, và nghi thức tế tự là biểu hiện cho triết lý.  Để kỹ thuật đạo lý nầy, người ta sáng chế ra sách A-Lan-Nhã-Ca (Aranyaka).  A-Lan-Nhã-Ca có nghĩa là Lâm-trung-thơ.  Bởi người trong chủng tộc Bà-La-Môn đến khi lớn tuổi thì ẩn cư nơi rừng vắng, lấy sự tế tự tu hành làm thường khóa.  Những nghi thức ấy đều ghi chép trong sách nầy.  Nhưng nội dung của Lâm-trung-thơ không phải chỉ giới hạn trong nghi thức tế tự, mà gồm có môn triết lý cao siêu.

Từ Lâm-trung-thơ, người ta nghiên cứu rộng thêm, rồi sáng tác ra bộ Ưu-Ba-Ni-Sa-Đàm, tức là Áo-nghĩa-thơ.  Danh từ Áo-nghĩa-thơ bao hàm những ý:  Môn triết học trong triết học, Bí-mật ngữ, Bí-mật văn và Bí-mật nghĩa.  Bộ phận chủ yếu của nguồn tư tưởng nầy, do chủng tộc Sát-Ðế-Lỵ khai sáng, về sau dòng Bà-La-Môn mới phụ họa suy diễn rộng thêm.  Nội dung của Áo-nghĩa-thơ chủ trương thuyết “Phạm, Ngã đồng nhất”, Phạm cùng Ngã đều là một bản thể của vũ trụ.  Các hiện tượng của sai biệt giới đều là huyễn pháp (Maya) không ngoài bản thể ấy mà có.  Lý tưởng giải thoát của Áo-nghĩa-thơ chia làm hai phần:

Phần thứ nhất là việc đi tìm giải thoát, nhưng giải thoát phải tìm chính nơi mình, không phải ở bên ngoài.  Con người sở dĩ bị luân-hồi là do Vô-minh (Avidya) che lấp, không biết sai biệt giới là giả huyễn.  Từ Vô-minh sanh Ái-dục (Kàma), rồi tạo nghiệp, gây ra sự khổ trong đường sanh-tử.  Muốn được giải thoát, phải có tinh thần tự giác hướng về Trí-minh (Vidya) mà trừ cái gốc Vô-minh.  Hướng về Trí-minh là an trụ tâm vào bản tính trong lặng để bồi dưỡng phần trí huệ.  Khi tâm đã thuần tịnh, tự nhiên được giác ngộ, nảy sanh trí huệ, thấy sự sống chết như chiêm bao.  Phạm và Ngã thầm hợp, không còn luân-hồi, chứng được Phạm-niết-bàn (Brahma nirvana).  Đây là phần lý thuyết.

Phần thứ hai là phải y theo pháp thức tu trì để phát minh trực quán trí.  Pháp thức nầy lại có hai phương diện:  một mặt là cần giữ giới, lìa tất cả dục cảnh để thành hạnh Xả-ly (Samuyasa); mặt khác, phải trừ vọng tình, chuyên tâm nơi ngã tướng để thành hạnh Du-già (Yoga - tương ưng quán).  Cứ như thế mà tu, lần lần chân ngã sẽ toàn hiện, tức là được giải thoát, chấm dứt luân-hồi.  Đây là phần thực hành.

Tóm lại, ba thời đại trên đây đã cho chúng ta thấy sự diễn biến của giáo lý Phệ-Ðà, từ nơi thô sơ đến chỗ u vi thần bí.  Riêng về Áo-nghĩa-thơ, các nhà nghiên cứu triết học đông tây đều tán dương, cho là một sản phẩm trí huệ cao siêu của nhân loại.  Về sau, các học giả nương theo tư trào nầy mà lập ra nhiều giáo phái, như phái Số-luận thì cho Ngã là Thần-ngã, Huyễn là Tự-tánh, danh từ tuy khác, nhưng lý tưởng vẫn đồng.  Phật-giáo cũng nương theo một phần trọng yếu của Áo-nghĩa-thơ, như thuyết luân-hồi, nhưng canh tân thêm, thành ra sâu sắc và hoàn bị hơn.  Ngoài ra cũng có nhiều học giả thoát ly tư tưởng Phệ-Ðà, chủ trương tự do khảo cứu, rồi lập thành phái triết học tự nhiên.  Trong chương sau, chúng ta sẽ thấy những học thuyết ấy.

Tiết IV:  Bốn Giai Cấp Của Xã Hội Ấn Độ

Thuở xưa, dân tộc Ấn-Độ rất cung kính thần linh, tôn trọng nghi thức cúng tế.  Lúc đầu, họ đặt ra người Gia-trưởng, hoặc Tộc-trưởng, để giữ việc tế lễ, gọi là chức Ty-tế.  Lần lần, chức Ty-tế nầy trở thành việc chuyên môn, nên được thay thế bằng các Tăng-lữ.  Mặt khác, vì theo đà tiến triển của xã hội, lại phát sanh ra bốn chức nghiệp:  Sĩ, Nông, Công, Thương.  Các nghề nghiệp nầy lần lần trở thành giai cấp hóa.  Giai cấp Tăng-lữ chủ về việc tế tự, chiếm địa vị tối cao.  Giai cấp Vua chúa nắm giữ chánh quyền, ở vào địa vị thứ hai.  Nhơn dân phổ thông như hạng nông, công, thương, thuộc về địa vị thứ ba.  Còn hạng người thổ dân của Ấn-Độ, bị Nhã-Lỵ-An chinh phục, chuyên theo nghề nghiệp thấp kém như ở đợ, làm mướn, là giai cấp tiện dân, ở vào địa vị thứ tư.

Lối phân chia giai cấp đó, mỗi ngày thêm chặt chẽ.  Ban sơ, sự phân biệt chỉ ở trong quan niệm của dân chúng mà thôi.  Nhưng khi các Tăng-lữ nắm được thật quyền trong xã hội họ liền tổ chức thành bốn giai cấp rõ rệt:  Tăng-lữ thuộc giai cấp Bà-La-Môn (Brahman), Vua chúa thuộc giai cấp Sát-Ðế-Lỵ (Ksatriya), Bình dân thuộc giai cấp Phệ-Xá (Vaisya), Tiện dân thuộc giai cấp Thủ-Ðà-La (Sùdra).  Hai hạng trước là giai cấp thống trị, hai hạng sau là giai cấp bị trị.  Bốn giai cấp nầy theo chế độ thế tập, cha truyền con nối, nên giai cấp nô lệ cứ phải đời đời làm nô lệ, gây ra một tổ chức xã hội bất công.

Giai cấp Bà-La-Môn lại nương vào chế độ của xã hội mà quy định thành bốn thời kỳ của chủng tộc mình.  Bốn thời kỳ đó như sau:

1.  Phạm-trí-kỳ (Brahmacàrin):  Thời kỳ du học của buổi thiếu niên và tráng niên.  Người trong chủng tộc Bà-La-Môn, vào khoảng từ 7 tới 15 tuổi, thì học tập ở nhà; từ 16 tới 39 tuổi, phải xuất-gia theo thầy học tập Phệ-Ðà thánh-điển.  Đến khi học nghiệp thành tựu lại được trở về nhà.

2.  Gia-cư-kỳ (Grhastha):  Thời kỳ sinh hoạt gia đình của buổi trung niên.  Khi đã được 40 tuổi, người Bà-La-Môn phải trở về nhà lập gia đình để cho dòng dõi không bị tuyệt.  Thời gian nầy họ theo chức nghiệp, làm trọn nhiệm vụ tế tự của người gia trưởng.

3.  Lâm-cư-kỳ (Vànaprastha):  Thời kỳ tu dưỡng của buổi mộ niên.  Lúc 50, 51 tuổi sắp lên, người Bà-La-Môn đã làm xong nhiệm vụ gia đình, phải lìa nhà vào nơi núi sâu rừng vắng để tu luyện.

4.  Du-hành-kỳ (Parivràjaka):  Thời kỳ du hành vừa tự tu vừa hóa đạo của buổi lão niên.  Thời kỳ nầy không nhất định, tùy theo tu nghiệp được vững vàng, mà sự xuất thế có sớm hay muộn.  Trong khoảng thời gian sau cùng, hàng Bà-La-Môn muốn cho thân tâm được tự tại giải thoát, nên nơi ăn chốn ở không nhất định, rày đây mai đó.  Cho nên người tu ở thời kỳ nầy có tên là Khất-sĩ (Bhiksu) hay Hành-giả (Yati).

Bốn thời kỳ kể trên, là lý tưởng sinh hoạt của giai cấp Bà-La-Môn.  Theo đó, nếu người nào tu hành đạt tới chỗ cứu cánh, thì được mọi người cung kính tột bậc.

Chủng tộc Bà-La-Môn đã chế định ra bốn giai cấp, tự cho mình ở địa vị tối cao.  Còn ba giai cấp kia, nhất là hàng tiện dân, lại bị xã hội khinh miệt, không được luật pháp bảo hộ, không cho dự phần tín ngưỡng tôn-giáo và tán tụng Kinh-điển Phệ-Ðà.  Thời bấy giờ ở Ấn-Độ người ta lại chế ra thứ luật Ma-noa (Mànu), hỗn hợp cả chính-trị lẫn tôn-giáo.  Nhờ có pháp luật nầy, tổ chức của đạo Bà-La-Môn mới được hoàn thành.  Bởi giáo lý của đạo ấy, là nương vào tư tưởng của phái Phệ-đàn-đà, lấy việc duy trì giai cấp bốn chủng tộc làm mục đích duy nhất.  Sống dưới một chế độ bất công như thế, lâu ngày dân chúng đâm ra chán nản, hằng ước ao có một cuộc đổi mới.

Sự phát sanh của các học thuyết như:  chủ nghĩa khoái lạc, chủ nghĩa yếm thế sau đây, phần lớn cũng bởi nguyên nhân nầy.