Phật Pháp Cao Siêu Khó Nghĩ Bàn
Là Người Học Đạo Lắm Gian Nan
Siêng Tu Tịnh độ Đúng Chân Lý
Quyết Được Vãng Sanh Đến Lạc Bang.
Ánh hào quang của Đấng Điều Ngự Thích Ca Mâu Ni tỏa ra vô vàng tia sáng chiếu khắp vũ trụ nhân sinh. Lúc ấy đã biểu hiện được lòng từ bi bao la của Đức Phật, xoa dịu bao vết đau thương của tất cả chúng sanh và ban nguồn an vui bất tận cho muôn loài.
Giáo lý của Đức Thế Tôn quả là cao siêu tuyệt diệu, có đủ năng lực đưa người từ bến mê sang bờ giác, từ sanh tử đến quả vị Niết bàn an vui tự tại, nếu ai thực hiện tu theo giáo pháp của Ngài đã thuyết.
Vì đường sanh tử của chúng sanh, không sao khỏi động mối từ tâm của Đức Phật, nên từ kim khẩu của Ngài thuyết giáo gồm có vô lượng Pháp môn tu, mục đích chỉ vì độ tất cả chúng sanh thoát ly sanh tử, được chứng những quả Thánh cho đến thành Phật.
Trong thời mạt pháp này, Pháp môn Tịnh độ rất thích hợp thời tiết và căn cơ của chúng sanh tu Giải thoát sanh tử luân hồi.
Vì thế nên tôi trích dịch trong Kinh Tục Tạng về Pháp môn Tịnh độ, mang tên quyển dịch này: "Cực Lạc Thù Thắng", có nghĩa là người tu về Pháp môn Tịnh độ chuyên lòng niệm Phật A Di Đà, cầu sanh về cõi Cực lạc, được y báo chánh báo trang nghiêm thù thắng. Vì thế, trên nhan đề có thêm câu:
“Pháp Môn Tịnh Độ Là Con Đường Thẳng Tắt Nhất Giúp Người Tu Chóng Thoát Sinh Tử Và Thành Phật.”
Pháp môn Tịnh độ thuộc về Tông Tịnh độ, một trong mười Tông của Phật giáo. Tông Tịnh độ này Ngài Huệ Viễn Tổ Sư đã thực hiện tu chứng và hoẳng truyền Pháp môn Tịnh độ tại miền Đông Châu Á. Ngài lập thành Pháp Liên Tông tại Lô Sơn, nên Ngài được tôn xưng là Đức Liên Tông Sơ Tổ Huệ Viễn.
Đến thời kỳ Ngài Pháp Chiếu Đại Sư gặp hai vị Đại Bồ tát bực Thượng Thủ tại Chùa Đại Thánh Trúc Lâm, đó là Đức Bồ tát Văn Thù Sư Lợi và Đức Bồ tát Phổ Hiền.
Lúc ấy, Ngài Pháp Chiếu được Đức Bồ tát Văn Thù Sư Lợi dạy:
Tu các Pháp môn, không có môn nào hơn Pháp môn Niệm Phật. Rồi thêm cúng dường Ngôi Tam bảo, đó là gồm cả tu phước và tu tuệ. Hai môn này rất là thiết yếu. Đến như các Đức Phật trước kia còn làm phàm phu cũng đo cái nhơn niệm Phật, mà về sau được cái quả thành Phật. Do đó nên biết "PHÁP MÔN NIỆM PHẬT" là vua trong các Pháp môn.
Pháp môn Niệm Phật thuộc về Pháp môn Tịnh độ, tức là chỉ cho người tu "Pháp môn Niệm Phật cầu sanh Tịnh độ ở phương Tây cõi Cực lạc của Đức Phật A Di Đà".
Thời gian phiên dịch, quyển Kinh này xong, đã được trôi qua theo những chuỗi ngày êm đẹp dài đăng đẳng, hòa với tiếng gió thì thầm gợi kên hồn thơ mộng cảnh Lạc Bang, có những tiếng chim Ca Lăng Tần Già, chim Cọng Mạng, chim Khổng Tước, thốt ra những pháp âm vi diệu thậm thâm.
Loại Pháp môn Tịnh độ Thù Thắng này, mong ra đời sẽ mang lại vô vàn màu sắc lẫn hương vị tinh anh, với phẩm chất của nó có năng lực diệu dụng diệt tận nỗi lòng sầu khổ vô biên của nhân loại. Và khiến cho người tu theo Pháp môn này thường được niềm hân hoan nở đóa hoa hồng trên đôi môi, đến khi mãn báo thân này, được sanh về cõi Cực lạc.
Quyển Cực Lạc Thù Thắng này ra đời giúp ích cho toàn thể độc giả thân mến, với niềm hoan hỷ những yếu điểm đặc sắc sau đây:
- Đức tin nhơn quả hướng về Đại Thừa.
- Diệt trừ phiền não cõi lòng thanh thoát.
- Phát huy niềm tin Tịnh độ.
- Khuếch trương Pháp môn Niệm Phật.
- Khuynh hướng Niệm Phật Vãng Sanh Cực lạc Quốc Độ.
Trong quyển Cực Lạc Thù Thắng này dạy cho chúng ta "Phát khởi lòng tin về Tịnh độ", nào là nói rõ về "Việc Thức Tỉnh và Mê Muội", nào là "Pháp môn dễ Tu Học", tợ như đánh thức lòng người được giác ngộ đã phá màn lưới vô minh cùng phiền não và thực hiện đúng như "Pháp môn Niệm Phật", thời người ấy được thấy tất cả các Đức Phật ở mười phương.
Vậy, dịch giả mong rằng quyển Cực Lạc Thù Thắng này được ra đời đến tận tay quý độc giả thân mến với nguồn yêu chuộng đạo đức thoát ly sanh tử, hầu về Cõi Cực lạc, vận thần trở lại độ chúng sanh trong cõi Ta bà và nhiều phương khác.
Ước mong quý độc giả vui thích và hành trì "Pháp môn Niệm Phật" như trong quyển Cực Lạc Thù Thắng này sẽ đi đến:
Trang Nghiêm Cực Lạc Quốc Độ
Thường niệm Di Đà không nghĩ ác
Tây Phương cảnh hiện lòng man mác
Sen vàng ao báu có nêu danh
Thoát kiếp tử sanh về Cực lạc
Mạnh Thu
Ngày mùng 6 tháng 8 năm Tân Hợi (1971)
Dịch giả cẩn chí.