Home > Khai Thị Niệm Phật > Khuyen-Nguoi-Nen-Tu-Hai-Phap-Chanh-Nhon-Va-Tro-Duyen
Khuyên Người Nên Tu Hai Pháp Chánh Nhơn Và Trợ Duyên.
| Hòa Thượng Thích Hân Hiền, Việt Dịch


Nầy các thiện nam tử, thiện nữ nhơn! Nay quý vị đã phát nguyện cầu sanh Tịnh Độ. Vậy cần phải có công hạnh chính mình tu “PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” chuyên tâm niệm PHẬT A DI ĐÀ và cũng cần có phần trợ duyên do quý thiện hữu tri thức luôn luôn nhắc nhở cùng khuyến khích quý vị dõng mãnh tinh tấn niệm Phật, hầu tương lai đến khi mạng chung được vãng sanh CỰC LẠC QUỐC. Người niệm Phật được thế, không những quyết định VÃngười SANH CỰC LẠC QUỐC, mà còn được thêm lên phẩm vị cao trong chín phẩm sen vàng nơi ao thất bảo.

PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ tuy có nhiều phương pháp để dạy người tu tập, nhưng tóm lại chỉ chú trọng nhứt là một pháp “TRÌ DANH NIỆM PHẬT A DI ĐÀ”.

Vậy “TRÌ DANH NIỆM PHẬT” là gì?

TRÌ DANH NIỆM PHẬT là người phải nhớ luôn ghi mãi danh hiệu của đức PHẬT A DI ĐÀ ở nơi tâm trí của mình. Phương pháp niệm Phật nầy có hai cách: Hoặc người niệm ra tiếng hay niệm thầm, như niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT, niệm mãi cho đến được nhứt tâm bất loạn, ấy là phương pháp TRÌ DANH NIỆM PHẬT.

Phương pháp Trì DANH NIỆM PHẬT rất dễ cho người thật hành và dễ được công đức viên mãn.

Các vị Cổ đức tu PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ lấy TRÌ DANH NIỆM PHẬT làm chánh nhơn. Nghĩa là người tu pháp môn nầy lấy việc chuyên tâm niệm Phật làm chánh nhơn, vì thiếu sự niệm Phật không sao được kết quả.

Người tu PHÁP MÔN NIỆM PHẬT cần phải có ba yếu tố chính: TÍN, NGUYỆN và HẠNH.

TÍN: Mình tin chánh pháp, do đức BỔN SƯ THÍCH CA MÂU NI dạy. Tín chánh pháp cũng như tin 48 điều thệ nguyện rộng lớn của đức PHẬT A DI ĐÀ nhiếp thủ tất cả chúng sanh niệm Phật, điều ấy không hư dối. Lại nữa, tin có cảnh giới CỰC LẠC ở phương Tây, do đức PHẬT A DI ĐÀ tạo thành cõi trang nghiêm ấy. Và tin mình niệm Phật sẽ được vãng sanh cõi CỰC LẠC, như tin nhân dân ở cõi CỰC LẠC, thuần hưởng những sự vui không một điều khổ và bảo đảm giải thoát sanh tử luân hồi, mãi đến thành Phật. Do đó, đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI dạy và giới thiệu cho chúng sanh.

NGUYỆN: Sự mong cầu của mình, vì được nghe đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI đã giảng dạy y báo và chánh báo nơi cõi CỰC LẠC rất trang nghiêm, nên tự phát ra những lời mong cầu sanh về cõi ấy, bằng một cách chí thành tha thiết với đức PHẬT A DI ĐÀ, ngõ hầu mình sẽ được sanh về cõi CỰC LẠC. Điều nguyện trên đây là do tự mình đã có tâm tin sâu vào y báo và chánh báo ở nơi cõi ấy, nên mới tự phát ra những lời mong cầu sanh về cõi CỰC LẠC.

Hơn nữa, nguyện đây là tự mình nguyện sanh về cõi CỰC LẠC, mà cũng chính là nguyên độ sanh ở đời vị lai, vì mình đã được tự độ, nên ắt sẽ được độ tha.

HẠNH: Công hạnh của mình chuyên trì danh hiệu PHẬT A DI ĐÀ, vì người tu “PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” phải lấy đó làm chánh hạnh. Lại nữa, hạnh đây là chỉ cho những công hạnh của người tu hành, như niệm Phật, lạy Phật, thọ trì đọc tụng kinh điển đại thừa, trì giới… Phàm mình có làm tất cả hạnh lành, đều phải hồi hướng công đức về cõi Phật ấy, nhưng phần chính là mình phải niệm Phật. Bởi vì người niệm Phật thì tâm thanh tịnh, tâm đã thanh tịnh mới có thể tương ứng với đức Phật. Hơn nữa, người niệm Phật mới có thể đủ thiện duyên với đức Phật, vì đủ thiện duyên với đức Phật mới được sanh về cõi Phật.

Ngoài ba yếu tố trên, nay lại chỉ dẫn thêm 4 điều, hầu người trí tu PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ thật hành:

1. Đặt hết lòng tin lời đức Phật dạy, nghĩ mình từ vô thỉ kiếp đến nay bị sanh tử luân hồi mãi trong lục đạo không được giải thoát. Sao đời nầy mình lại được may mắn biết phát tâm cầu giải thoát. Lại nữa, sao mình được nghe pháp niệm Phật rất dễ thành công vãng sanh Cực Lạc quốc.

Nếu ai còn nghi ngờ không tin hẳn việc niệm Phật sẽ được vãng sanh Cực

Lạc quốc, đó là triệu chứng bịnh của người thiến tin sâu lời vàng tiếng ngọc của Đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI dạy.

Chúng ta phải biết trí huệ, thiền định, giới luật, sự thấy và biết, sức mạnh thần thông, lòng từ bi, tu khổ hạnh có ai hơn đức Phật chăng?

Đức Phật nói ra các pháp, không bao giờ chỉ dạy cho chúng sanh đi lầm đường lạc lối và cũng chẳng phỉnh gạt người, vì Ngài lúc nào cũng nói lời chơn thật.

Lời chơn thật của đức PHẬT THÍCH CA MÂU NI, tức là lời không hư dối, cũng như lờn chơn thật của chư Phật khác.

Như đức Từ phụ A DI ĐÀ nói:

– Người tột ác đến khi lâm chung mà xưng niệm PHẬT A DI ĐÀ nhẫn đến mười niệm, thời người ấy cũng được vãng sanh thế giới CỰC LẠC.

Hạng người trên đây niệm Phật còn như thế, huống là những người trọn đời chưa từng làm điều tột ác, mà số TRÌ DANH NIỆM PHẬT lại nhiều hơn mười niệm, đâu không sanh về cõi nước AN DƯỠNG (CỰC LẠC).

Khi nào người thật tâm niệm PHẬT A DI ĐÀ cầu sanh về CỰC LẠC mà chẳng được sanh, đó mới là đức Phật phỉnh gạt người, dẫn dắt đi lầm đường lạc lối, nhưng không bao giờ có lý ấy. Vì thế, chúng ta chỉ phải tin lời đức Phật dạy là điều chơn thật. Không luận là ngày nào, người cứ chuyên lòng niệm PHẬT A DI ĐÀ, niệm mãi cho đến khi lâm chung vẫn được chánh niệm cầu sanh TỊNH ĐỘ ở phương Tây của đức Từ Phụ A DI ĐÀ, không hề điên đảo thì chắc chắn được sanh về cõi Cực Lạc không bị chướng ngại. Thí như gieo hột dưa, quyết định sẽ được dưa, trồng đậu quyết sẽ hưởng đậu. Lại như kiến dương toại lấy lửa mặt trời, đá nam châm hút sắt, chỉ phải gặp dịp thông cảm nhau là được, quyết không bao giờ chẳng ứng nghiệm.

Người tu PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ phải thật tâm niệm Phật, chớ sanh lòng chướng ngại, thời bảo đảm quyết được sanh về TỊNH ĐỘ. Hoặc có người tu pháp môn nầy mà còn sanh lòng nghi ngờ, cho rằng mình mắc nghiệp chướng sâu nặng khó bảo đảm vãng sanh Cực Lạc quốc. Như thế, người tuy được nghe PHÁP MÔN NIỆM PHẬT trong lòng hơi thức tỉnh nhưng còn hoài nghi không tin chắc mình niệm Phật sẽ vãng sanh Cực Lạc quốc, thì trọn chẳng được kết quả. Người như thế là do vì đã mang nghiệp chướng sâu dầy, nó có một sức mạnh lôi cuốn con người trụy lạc, mất lòng tin chánh pháp. Vậy, người ấy phải thường khi đánh tan niệm tà nêu bày niệm chánh, lại thêm lo sám hối mãi đến thời gian lâu dài, thì sẽ được phát sanh trí huệ, chừng ấy lòng tin chánh pháp chắc chắn không còn nghi ngờ một mảy may, sự niệm Phật mới được tinh tấn dõng mảnh chẳng còn thối chuyển Đạo Vô Thượng Bồ Đề.

Phần trên đây là điều cần gấp nhứt, trước hết mở bày khởi lòng tin làm chánh hạnh.

2. Gần gũi bạn lành sáng suốt. Sự niệm Phật tuy rất dễ, nhưng nếu người niệm Phật không đắc lực thời dầu lâu hay mau cũng vô ích, vì khi vừa gặp duyên nghịch cảnh thời sanh lòng thối chuyển; hoặc nghe pháp thiền quán rồi lo tham thiền tu quán tưởng mà thay đổi pháp môn tu.

Trong bộ Cảnh Sách bình luận người niệm Phật, nếu chẳng gần gũi thầy tốt bạn lành thì quyết định phần nhiều là lầm đường lạc lối. Vì thế, người tu hành tuy là mình phải dụng công phu tu tập, nhưng cũng phải nhờ sức hỗ trợ của bạn thiện tri thức (bạn lành sáng suốt hiểu biết).

Kinh nói: Người đắc đạo toàn là nhờ có nhơn duyên với bạn thiện tri thức. Ví như mình có công phu tu hành mà lầm đường lạc lối, lại được nhờ bạn thiện tri thức nhắc nhở chỉ bày cho mình trở về con đường chơn chánh. Hoặc là lúc mình giải đãi việc tu hành, may nhờ bạn thiện tri thức khéo léo khuyên nhắc cho mình tinh tấn tu hành để sớm được giác ngộ, giải thoát sanh tử luân hồi trong ba cõi sáu đường. Điều không biết, nên nhờ bạn thiện tri thức giảng rõ cho mình hiểu biết. Điều mình đã biết, phải nhờ bạn thiện tri thức chứng cho.

Nếu người hiểu biết chữ nghĩa thời cần phải nghiên cứu sâu vào Tạng kinh điển để cho mình tăng trưởng lòng tin “PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ” và cũng cần phải cùng bạn thiện tri thức bàn rõ việc nghiên cứu điều cần thiết, mới tránh khỏi sự hiểu lầm của mình.

Ngài Pháp sư TỈNH AM nói:

Nghề nhỏ mọn trong đời còn phải cần thầy hay bạn chỉ dạy nhắc nhở, huống là PHÁP MÔN NIỆM PHẬT là pháp mầu nhiệm cao siêu khiến người nương pháp đó mà được thoát ngoài vòng sanh tử luân hồi trong ba cõi sáu đường. Nếu người không có bạn thiện tri thức dẫn đường chỉ lối, khởi một niệm bất giác liền phải sa vào đường ác, thật lầm nguy to. Đến khi lâm chung, người phải cần gấp nhờ bạn thiện tri thức nhắc nhở cho mình luôn luôn niệm Phật và trợ niệm cho được chánh niệm hiện tiền, mới quyết bảo đảm VÃNG SANH CỰC LẠC QUỐC.

Ngài Đại sư THIỆN ĐẠO nói:

– Phàm người lúc lâm chung muốn sanh về Tịnh Độ, điều cần nhứt chẳng được sợ chết. Nên tự suy nghĩ như vầy: Báo thân nầy là gốc khổ. Nó là dãy da dựng đầy đồ nhơ nhớp không chút trong sạch. Nó cũng là gốc của tất cả sự khổ lụy, vì các thứ nghiệp ác không thanh tịnh xen lẫn ràng buộc trong thân người. Nếu ta rời được cái thân ô uế nầy mà sanh về Tịnh Độ, thọ thân vàng kim cương, hưởng vô lượng sự vui thanh tịnh, giải thoát hẳn sự khổ sanh tử luân hồi, chẳng khác nào như cởi chiếc áo rách mà đổi lấy trân phục mặc, còn gì thích thú cho bằng. Nghĩ thế, nên tâm mình đừng có quan niệm luyến tiếc thân nầy nữa.

Khi vừa mang bịnh, người nên liền quán vô thường, nhứt tâm niệm Phật chờ chết. Lại cần phải căn dặn người nhà và người đến thăm, hễ khi đến gần mình thời hãy vì mình mà trợ duyên niệm Phật, không được nói chuyện gì cả. Cũng chẳng cần cầu chúc an ủi, vì đều là lời hư hoa vô ích.

Người bịnh ngặt đến khi sắp chết, bà con quyến thuộc không được khóc lóc than thở, không được mắt mũi sụt sùi làm phiền rộn tâm thần và mất chánh niệm của bịnh nhơn. Chỉ nên nhắc nhở bịnh nhơn nhớ Phật, niệm Phật, tưởng Phật, rồi cùng nhau lớn tiếng niệm “NAM MÔ A DI ĐÀ PHẬT” để giúp chánh niệm cho người bịnh được VÃNG SANH CỰC LẠC QUỐC, niệm mãi cho đến lúc bịnh nhơn dứt hơi thở.

Sau khi bịnh nhơn chết, nhớ chẳng được vội động đến thây, phải luân phiên tụng niệm nhiều chừng nào quý chừng nấy. Nếu bà con thân quyến khóc than, thì tâm người chết còn chút mảy may lưu luyến đời mà thành sự trở ngại, thì không được giải thoát biển khổ trầm luân sanh tử.

Trong khi người lâm bịnh cho đến lúc chết, nếu được bạn thiện trí thức hiểu rành “PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ”, thường đến nhắc nhở chỉ bảo cho thời là may mắn biết mấy.

Dùng phương pháp trợ niệm trên đây, người quyết được vãng sanh Tịnh Độ, không còn gì phải nghi ngờ nữa.

Ta thấy người đời thường ngày niệm Phật cầu sanh Tây phương Tịnh Độ, nhưng đến khi bịnh hoạn lại sợ chết, không dám đề cập đến sự vãng sanh Tịnh Độ giải thoát sanh tử luân hồi trong ba cõi.

Điều chết là việc quan trọng rất lớn, cần phải tự mình gia công nỗ lực chống cự nó để được giải thoát. Nếu có một niệm sai lầm mắc phải chịu khổ trong nhiều đời nhiều kiếp, đâu có một ai thay thế cho mình được. Vì vậy, nên phải tự suy xét lấy.

Xem phương pháp trợ niệm do Ngài Hòa thượng THIỆN ĐẠO là Tổ thứ hai trong phái Liên Tông chỉ bày dạy rõ, ta có thể biết đó là điều quan trọng cần gấp. Trước hết ta cần phải gần gũi bạn thiện trí thức, hầu đến lúc lâm chung được bạn thiện tri thức giúp sức niệm Phật cho mình.

Phần trên đây là điều cần gấp nhứt, nắm lấy sự gắng sức tu tập làm chánh hạnh.

3. Thường phải gia công tinh tấn tu hành. Sự tinh tấn tu có nhiều cách thức, ở sau đây sẽ chỉ dạy thời gian khóa tụng niệm hằng ngày và những pháp thập niệm…. Hoặc hạn định hằng ngày niệm danh hiệu Phật nhiều hay ít để cho mỗi người tự liệu sức mình mà định theo thời khóa.

Người niệm Phật cho đến khi mãn báo thân nầy, không có ngày nào gián đoạn, ấy gọi là luôn luôn tinh tấn niệm Phật.

Gặp lúc rảnh rang, người phân thời khóa chuyên lòng niệm Phật hoặc 1 ngày, 7 ngày, 21 ngày, nhẫn đến 49 ngày để cầu mau được chứng pháp NIỆM PHẬT TAM MUỘI ấy là dõng mảnh tinh tấn niệm Phật.

Phương pháp niệm Phật đây, chẳng luận là một người niệm hay nhiều người niệm, hoặc ngồi niệm, hoặc đứng niệm, hoặc niệm thầm, hoặc niệm ra tiếng, đều phải một lòng niệm câu danh hiệu Phật cho rành rẽ, mỗi tiếng tai nghe rõ ràng, giác ngộ từng phần, hầu trở về bản tánh toàn giác.

Hoặc người sa vào nơi vô ký, hoặc theo vọng tưởng, nếu muốn kêu họ thức giấc mơ ấy, chỉ nhờ một câu danh hiệu PHẬT A DI ĐÀ, thì dứt ngay ý căn sa vào vô ký và vọng tưởng, dứt luôn cả hai thứ tạp niệm và hôn trầm, ấy là niệm Phật được sáng suốt chơn chánh.

Người niệm Phật, không nên niệm rút, vì niệm gấp rút thì khó được niệm lâu dài và cũng không nên niệm hưởng đãi, vì niệm hưởng đãi thì tâm dễ bị rối loạn, lại không thể hy vọng tâm của mình được chánh định.

Phàm người niệm Phật, hoàn toàn không nên để tâm buông lung, phải tâm và tiếng hiệp khắn nhau. Nếu tâm chẳng hiệp với tiếng niệm thì rất dễ sa vào cảnh hôn mê. Bởi vì sự niệm Phật quý trọng ở chỗ nhứt tâm bất loạn, đến khi lâm chung hoàn toàn nhớ nương chánh niệm mà được gá thai trong hoa sen, người niệm Phật cần phải biết điều nầy.

Khi người niệm Phật đạt đến nhứt tâm, chừng ấy không cần mong mỏi thiền định, hiện tiền huệ quang tự nhiên hiển lộ, ấy là công phu đã thuần thục và đạt được mục đích cứu cánh của “PHÁP MÔN NIỆM PHẬT CHÓNG THÀNH PHẬT”. Người được thế, đầu tha hồ nói chi cũng chẳng mất chánh niệm, khác hẳn với người đời nói chuyện tạp chơi.

Hành giả niệm Phật được như trên đây, thì ở nơi thể tánh được rốt ráo, niệm tức là vô niệm, vô niệm tức là niệm. Một niệm ấy tức là Tam đế: Không đế, giả đế và trung đế, chính trong đó đã gồm có sự và lý của bốn pháp giới, cũng chính là hai pháp quán duy thức và duy tâm, cũng là thật tướng vô tướng niết bàn diệu tâm. Ấy là phương pháp niệm lý nhứt tâm của bực thượng căn, song cũng chẳng lìa nhứt tâm nương danh hiệu Phật mà được tâm định mỗi tiếng nghe rõ ràng.

Phần trên đây là điều cần gấp nhứt lấy khuôn phép Trì danh hiệu Phật là chánh hạnh.

4. Siêng năng niệm Phật ghi nhớ lấy công đức cầu sanh Tịnh Độ làm bổn nguyện. Song người phải thường chí thành tha thiết với đức Phật cần cầu sanh về Tịnh Độ phương Tây. Đối với tất cả việc lành, mình đều tùy hỷ công đức hồi hướng cõi ấy. Trong các điều ác mình đã gây thì phải thành tâm sám hối cho nó tiêu diệt. Những việc lành đều nguyện hồi hướng về Tịnh Độ phương Tây, đó là mình gây nhơn duyên ở Tịnh Độ. Khi đã đủ duyên nơi cõi ấy, đến lúc lâm chung mình chắc chắn VÃNG SANH CỰC LẠC QUỐC, chẳng khác nào như người sành đường lái chiếc xe chạy đến nơi không chút gì trở ngại.

Đến như nhớ tưởng đức PHẬT A DI ĐÀ, điều rất cần yếu là mình phải niệm danh hiệu PHẬT A DI ĐÀ.

Chương Đại Thế Chí trong kinh Lăng Nghiêm chép:

Người nhớ đức PHẬT A DI ĐÀ mà xưng niệm danh hiệu Ngài, thì hiện tiền và tương lai quyết định được thấy đức Phật.

Sự ghi nhớ đức Phật là phải tự mình ràng buộc cái tâm bằng cách thiết tha niệm Phật, hoặc nghĩ nhớ y báo chánh báo trang nghiêm của đức Phật A DI ĐÀ nơi cõi CỰC LẠC. Hoặc là quán tưởng những tướng hảo của đức Phật và Bồ Tát, thời mình phải quán pháp thân hay hóa thân và lòng trắng giữa chặn mày, dũi cánh tay báu xuống, hóa Phật trong viên quang, hoa sen… Hay là nghĩ nhớ công đức từ tâm bi nguyện độ sanh của đấng Từ phụ A DI ĐÀ, những điều thương xót chúng sanh và cứu vớt muôn loài trong mười phương cõi về ban cho sự an vui bất tận, mãi đến vị lai thành Phật.

Trong khi TRÌ DANH HIỆU PHẬT A DI ĐÀ, mình phải ghi nhớ đức Phật bằng cách khao khát quyến luyến mãi không quên Ngài. Người được chánh niệm như thế, chẳng còn điều thối chuyển niệm Phật, chính đó là niệm Phật được nhứt tâm bất loạn; nghĩa là hành giả niệm Phật được chuyên nhứt, không còn một niệm khác xen vào.

Người niệm Phật cẩn thận chớ cho niệm ban đầu xen tạp niệm, vì sợ sau nầy không được nhứt tâm rồi thối chí. Hành giả niệm Phật mãi, dù chưa được nhứt tâm, ta cứ vẫn niệm. Được thế, một ngày kia người ấy quyết định đạt đến niệm Phật nhứt tâm bất loạn. Vì thế, người phải thường ghi nhớ niệm Phật chớ quên lãng, thời gian lâu tánh niệm Phật được thành thực, chừng ấy hay ngăn được tất cả niệm ác, thành tựu tất cả công đức tu nghiệp nhơn thanh tịnh. Cổ đức có nói bài kệ:

Lâm chung bất năng quán cập niệm
Đản tác sanh ý tri hữu Phật
Thử nhơn khi tuyệt tức vãng sanh
Đại pháp cổ kinh như thị thuyết.

Tạm dịch:

Tưởng niệm khó hành lúc chuyển sanh
Chuyên lòng ghi nhớ một hồng danh
Tây phương chẳng nhọc liền mau đến
Chánh pháp xưa nay vẫn dạy rành

Dầu rằng lúc lâm chung không thể quán và niệm, mà trong tâm nhớ danh hiệu đức Phật liền được vãng sanh theo ý muốn, huống là người nhớ danh hiệu Phật không quên lãng ư!

Phần trên đây là điều cần gấp nhứt lấy việc chuyên lòng ghi nhớ NGUYỆN CẦU VÃNG SANH CỰC LẠC QUỐC LÀM CHÁNH HẠNH.

Người niệm Phật đủ 4 yếu tố chánh hạnh trên đây, sự vãng sanh Cực Lạc quyết nắm chắc trong tay chẳng còn gì mà phải nghi ngờ nữa. Song lại phải mở rộng cái tâm tu thêm sáu pháp trợ hạnh thời mình được nhiều lợi ích thù thắng.

Chúng ta phải biết cõi Ta Bà chẳng khác nào như cái biển khổ. Còn người niệm Phật tợ kẻ ngồi trên chiếc thuyền, còn gì đáng lo ngại chẳng được lên bờ. Khi sanh về Tịnh Độ, ấy là người đã được sang đến bờ giác kia. Phương pháp trợ hạnh như những vật: Buồm, mái chèo và tiền tổn phí đi đường. Người đi thuyền có đủ các vật liệu ấy thì chiếc thuyền nầy một phen qua sông mê biển khổ thẳng đến bờ giác kia, không còn lo ngại chút gì làm cản trở.

Những gì là sáu pháp trợ hạnh?

Sáu pháp trợ hạnh:

1. Siêng năng kính lạy Tam Bảo, năm vóc gieo sát đất và rộng tu hạnh cúng dường, ấy là bổn phận của người tu hành.

Hiện nay người niệm Phật phần nhiều biếng nhác hằng ngày không bày tỏ lòng thành kính đức Phật, cho đến thấy Phật cũng chẳng lạy và trong tất cả sự cúng dường cũng đều thiếu sót. Tuy hành giả miệng xưng niệm danh hiệu Phật được khỏi sanh tội lỗi, nhưng ít ai chịu khó siêng lạy Phật. Việc nói thì dễ như chơi, đến khi thật hành lấy làm rất khó. Họ đâu biết điều khó thật hành mà mình có thể thật hành, việc ấy mới là đáng quý.

Mặc dầu người tu hành là sửa đổi tâm tánh bên trong, chớ không phải tu về hình thức bên ngoài, nhưng tướng mạo oai nghi bên ngoài cũng chẳng nên thiếu kém. Vả lại chính căn cứ ở bên ngoài mới nhận rõ được bên trong. Cho nên Cổ nhơn nói:

Người thật tâm tu hành, khi được thấy tượng Phật vẻ hoặc tượng cốt đức Như Lai, mình phải coi như là Phật thiệt, thương như cha mẹ, kính như vua chúa, hằng ngày sớm tối lễ tụng tha thiết chí thành, dầu có bận việc đi xa nghìn dặm vẫn tưởng như đức Phật ở trước mặt mình và phàm khi ăn uống trước hết đều dâng lên cúng dường.

Trong LONG THƠ TỊNH ĐỘ nói: Cúng Phật, trai Tăng, đốt hương, dâng hoa, treo phan, xây tháp và các thứ khác kính dâng cúng dường Tam Bảo, đều nên hồi hướng công đức trang nghiêm Tây phương Tịnh Độ, huống là người cầu sanh Tịnh Độ. Đã là đệ tử của Tam Bảo, nếu tâm chẳng kính trọng Tam Bảo mà cầu sanh Tịnh Độ, người ấy quyết không bao giờ được toại nguyện. Cho nên người muốn cầu sanh về Tịnh Độ phương Tây, cần phải hết lòng kính trọng Tam Bảo.

2. Sám hối nghiệp chướng. Sám hối nghĩa là ăn năn những tội lỗi về trước và ngăn ngừa các tội lỗi về sau.

Người tu hành việc sám hối làm điều cần thiết.

Đức PHỔ HIỀN BỒ TÁT là bực thượng thủ trong hàng Đại Bồ Tát hội Hoa

Nghiêm còn có phát ra điều đại nguyện thứ tư là SÁM HỐI NGHIỆP CHƯỚNG. Huống là hạng phàm phu chúng ta đã từ vô thỉ vô lượng kiếp đến nay ba nghiệp hằng gây tội lỗi sâu dầy hay làm chướng ngại thánh đạo, cho nên gọi là nghiệp chướng, đâu nên không sám hối ư!

Nếu người không sám hối tội lỗi thì nghiệp chướng chẳng hết. Ví như người mặc chiếc áo nhơ cần phải giặt sạch, vì áo sạch mới là áo tốt. Lại dụ như gương vừa ố bụi, ta cần phải dùng khăn siêng năng lau chùi. Khi hết bụi, gương ấy mới được sáng tỏ, in bóng vào gương. Cũng thế, người sám hối hết nghiệp chướng thời thân tâm thanh tịnh, phát sanh trí huệ, sẽ chứng quả Vô Thượng Bồ Đề.

3. Nói về răn điều ác, thật hành việc lành. Trong văn LONG THƠ TỊNH ĐỘ nói: Người trì trai giữ giới tinh nghiêm, lại siêng niệm Phật, lạy Phật và đọc tụng kinh điển Đại thừa hiểu đệ nhứt nghĩa đế, lấy công đức ấy hồi hướng Tây phương trang nghiêm Tịnh Độ, thời QUYẾT ĐƯỢC GÁ THAI VÀO TRONG HOA SEN BỰC THƯỢNG PHẨM THƯỢNG SANH.

Trên đây nói người trì trai, tức là chỉ cho vị không ăn thịt uống rượu và ăn loại ngũ vị tân. Còn nói về người giữ giới là chỉ cho vị không sát sanh, trộm cướp, tà dâm, ấy là ba nghiệp lành của thân: không nói dối, không nói lời thêu dệt, không nói lưỡi đôi chiều và không nói lời hung dữ, ấy là bốn nghiệp lành của miệng; không tham lam, sân hận và tà kiến, ấy là ba nghiệp lành của ý.

Người giữ gìn được 10 nghiệp lành đây không phạm, chính đó là 10 điều lành. Trái lại, nếu người phạm đến 10 nghiệp lành nầy tức là 10 điều ác.

Giữ gìn 10 nghiệp lành tức là giữ 4 giới đứng đầu trong các giới, lại thêm không uống rượu, đó là người Phật Tử tu tại gia giữ 5 giới.

Là người Phật Tử thọ trì 5 điều giới của đức Phật chế ra, lại thêm tu PHÁP

MÔN TỊNH ĐỘ, thời ĐƯỢC VÃNG SANH CỰC LẠC QUỐC BỰC TRUNG PHẨM.

Nếu người chẳng có thể giữ gìn hết 5 điều giới, cũng phải gắng giữ giới sát, vì giới sát đứng đầu trong các điều giới.

Người không sát sanh là bực rất hiền. Trái lại, người sát sanh thời trở thành kẻ rất dữ.

Ngài LIÊN TRÌ ĐẠI SƯ nói:

– Kính vâng lời đức Phật dạy, khuyên người tu hiền, đó là niệm Phật, ta cần phải y theo lời đức Phật dạy: “Là người Phật Tử, phải tích đức tu phước, hiếu thuận cha mẹ, trung với vua chúa, tình anh em thương nhau, vợ chồng mến nhau và tin cậy nhau, luôn luôn nhu hòa nhẫn nhục, công bằng ngay thẳng đối với xã hội, mở rộng lòng từ thương xót mọi loài vật, cũng không mạ nhục kẻ hèn và khinh khi họ. Nếu khi nào khởi tâm ác, tự mình phải nhiếp tâm niệm Phật, để nhờ sức niệm Phật đánh tan những tâm niệm xấu. Được thế, mới là người niệm Phật quyết định vãng sanh Cực Lạc quốc”.

4. Chấm dứt tình ái. Người đời mến tiếc xác thân, sanh ra nhiều luyến ái, lại xem tài sản như tánh mạng mà tham đắm cõi trần nầy mãi. Thật, chung sanh cõi trược nầy tình ái rất nặng. Người bên Tịnh Độ kia tự nhiên không còn chút tình ái nhiễm. Bởi thế, người muốn sanh về Tịnh Độ cần phải dứt sự ái nhiễm thường tình của hạng phàm phu, đến khi lâm chung quyết được vãng sanh Cực Lạc quốc.

Chúng sanh ở cõi trược tình nặng. Còn người bên Tịnh Độ tình nhẹ. Thí như gốc của một cây to quyết định nặng hơn gấp biết bao lần của khúc ngọn.

Từ xưa đến nay, dù là vợ con đều do có nhân duyên mà tụ họp, hết duyên thì tan rã. Sau khi tan rã, còn đâu mà nhìn vợ nhìn con. Chính bản thân người đã sanh ra nhiều đời nhiều kiếp, vợ con máu mủ biết là bao, nay lại ở đâu hết đi? Vợ con chẳng qua là nghiệp oan gia trả vay vay trả mãi thôi, đâu không phải là mình mê lầm mà yêu mến nó ư! Đến như những vật tài sản, cho đến các thứ vật quý, trong nháy mắt rồi tiêu tan! Bởi thế, ta không nên đắm nhiễm tình ái.

5. Giải thích việc kết oán. Phàm khi chưa kết oán thù với ai, ta không nên kết. Như những việc sát sanh, trộm cướp, tà dâm… và lòng tham lam, sân hận…. đều là cái nhơn để kết sự oán thù. Người có thể ngăn chừa những việc xấu ấy, thời được khỏi kết oán thù. Kẻ đã kết oán, ta nên giải thích cho họ hiểu rõ, như quyến thuộc là oán thù, và những kẻ ngang ngược, cho đến chó cắn rắn độc làm hại đều do oan nghiệp đời trước nên mình phải cam chịu hoan hỷ nhận lấy, chớ nên lấy oán trả oán, oán ấy trăm nghìn muôn kiếp không bao giờ tiêu diệt mà còn kết thêm oán chất chồng sâu rộng. Người lấy ơn trả oán, oán ấy sẽ tự tiêu mất. Dẫu rằng PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ vượt ngang ba cõi, ta có thể chuyên tâm nhiếp ý tu pháp môn ấy cầu sanh Tịnh Độ, liền khỏi sự oán thù làm trở ngại việc vãng sanh, nhưng nếu ta không sớm cởi mở việc oán thù, thì e rằng sẽ trở ngại tâm giác ngộ của mình mà phải cam chịu sanh tử luân hồi trong ba cõi sáu đường.

Phải biết, chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, đối với việc kết oán thù cùng chúng sanh biết là bao không thể kể xiết. Lúc nhơn duyên chưa gặp gỡ ta đâu có thể tức khắc cởi mở hết ngay việc oán thù.

Người muốn cởi mở sự oán thù, cần phải cung đối trước đức Phật mà niệm Phật và phát nguyện:

– Nguyện đem công đức niệm Phật nầy

Khắp lợi ích chúng oán thù tôi Giả sử tôi được chứng quả Phật Xin độ hết chúng sanh ấy trước.

Người do sức đại nguyện của lòng từ ấy, sẽ được tiêu hết oan nghiệp đời trước kia. Còn nói về sự lợi ích cụ thể thời lúc bấy giờ những kẻ oán thù tự nhiên trở thành người ơn của mình.

6. Phấn chấn tinh thần. Hiện tại người tu PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ có vị kém hơn ta, cũng có người tinh tấn dõng mảnh hơn. Người tu kém hơn ta, ta không nên đem y ra so sánh, mà cho rằng ta tu hơn người ấy, thời sự tu hành không sao được tiến bộ. Muốn sự tu hành được tinh tấn, ta cần phải đem những hạng người tu hơn mình mà so sánh, nghĩ họ cùng ta đồng một hạng người, sao họ lại tinh tấn, còn mình sao lại giải đãi; họ niệm Phật được lòng chuyên nhứt, sao mình lại tán loạn; những người là Trượng phu, ta đây cũng phải thế mới được. Nếu sự tu hành của mình mà không phấn chấn tinh thần tinh tấn dõng mảnh, thì chỉ là mắt thấy người vượt lên cảnh giới CỰC LẠC, ta vẫn trầm luân trong biển khổ như xưa!

Hiện nay giữa bạn đạo thân lắm, việc nói cười rất mến nhau, nhưng đến khi trải qua thời gian ngắn việc tu đã phân biệt được ai là bực thánh, ai là kẻ phàm, nếu mình còn là hạng phàm đâu không tự thẹn buồn lấy ư!

Người tu hành suy nghĩ như thế, sẽ tự nhiên có một sức mạnh tiến thẳng lên đạt cái kết quả bực Thánh ngay trong một đời ấy chẳng đợi đến đời sau.

Thời nay có người tu hành phát nguyện đời sau trở lại tu hành nữa. Họ cứ nói tự so lường công hạnh tu hành của mình trong đời nầy rất mỏng manh, đời sau lại ráng tu thêm mới có thể hy vọng được thành công đắc quả, ấy là thật lầm to.

Nên biết, trong kinh có lời dạy: Con người lúc tạo tội chừng trong giây phút, mà phải cả nghìn muôn năm chịu khổ nơi địa ngục. Một phen bị đọa lạc mất thân người, thời muôn đời khó được lại, huống là việc đến khi được thân người trở lại và có thể biết tu hành ư!

Lại nữa, họ cứ nói đời nầy phát nguyện tu hành, nhờ nương sức nguyện nầy, thì đời sau quyết định biết tu hành, lời nầy thật là hiểu lầu rồi. vì người đã phát nguyện được sức như thế, sao lại không phát nguyện ngay trong hiện đời nầy sẽ được sanh về TỊNH ĐỘ, tự nhiên quyết thỏa mãn việc vãng sanh, mà phải đợi đời sau tu hành nữa mới được vãng sanh? Vả lại, người hiện đời chẳng cầu vãng sanh Tịnh Độ, mà lại đời sau có thể nhớ cầu vãng sanh ư! Hơn nữa, một trong muôn đời sau người phải gặp biết bao nhiêu sự gay go chướng ngại, nào là gặp chướng duyên, nào là quên tu hành, chẳng những không được vãng sanh mà còn không thể bảo đảm được chẳng mất thân người. Cho nên Cổ đức nói rằng: “Thân nầy chẳng mong ngay trong đời hiện tại được độ thoát, thì biết đời nào nữa mới mong được độ thoát”.

Người niệm Phật cần phải lập chí quyết định coi hiện ở trong cõi Ta Bà như là chỗ ở trọ, mà Tịnh Độ mới chính là cảnh nhà của mình thiệt thọ. Nghĩ thế, mình được đến bực ấy còn đâu cao siêu hơn, sẽ tự nhiên bộc lộ sức tinh tấn niệm Phật, quyết đến sau nầy được chứng quả. Ấy là một pháp đặc biệt nhất của người niệm PHẬT CẦU SANH TỊNH ĐỘ!

Phần trên đã lược nói sáu pháp trợ hạnh như thế, nếu nói rộng ra thời có đến muôn pháp trợ hạnh.

Nếu những ai bền tâm cầu lợi ích, thì phải thật nương sức niệm Phật. Phàm người muốn có nhơn duyên với Tịnh Độ, phải ráng sức siêng thật hành niệm Phật mới được.

Người muốn vãng sanh Cực Lạc quốc như ý nguyện, thời phải tu hai pháp CHÁNH NHƠN và TRỢ DUYÊN nói trên./.

Từ Ngữ Phật Học Trong: Khuyên Người Nên Tu Hai Pháp Chánh Nhơn Và Trợ Duyên.