Sư tự là Thiệu Tắc, họ Vương, ban đầu ở Thái Nguyên, sau ở Minh Điều, ấp An.
Sư xuất gia từ nhỏ, kết bạn đạo với pháp sư Đạo Kiệt, am tường văn tự nghĩa lí ít ai sánh bằng. Những người thông đạt lúc bấy giờ đều rất nể trọng Sư.
Khoảng niên hiệu Đại Nghiệp nhà Tùy (605 – 616), Sư giảng luận A-tì-đàm hơn bốn mươi lần, giảng luận Thành thật hai mươi lần, thời gian còn lại giảng các tiểu bộ, hầu như không có thời gian rảnh rỗi. Sư thường nói:
- Nếu tôi giảng kinh giúp cho người giải trừ được mê tối, nguyện thân này sau khi mất sẽ được sinh về An Dưỡng.
Sư là người nghiêm túc, khiêm nhường, không khoe khoang bản thân, nghe việc thiện của người dường như việc thiện mình, nghe điều ác của người, cũng như điều ác của mình.
Ngày ba mươi tháng hai, niên hiệu Trinh Quán thứ 17 (643) nhà Đường, nhân có chút bệnh, Sư bảo đệ tử:
- Ta đã khắc cốt ghi lòng, gieo nhân Tịnh độ, nay đã lâm bệnh, may là không bị các khổ. Các con lấy gì để giúp ta?
Lại bảo đệ tử lớn tiếng tụng kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật, Sư lắng tâm nghe, rồi tự mình niệm A-di-đà Phật và danh hiệu của hai vị bồ-tát Quan Âm, Thế Chí và danh hiệu của các bồ-tát trong hải hội. Sư niệm đi niệm lại nhiều lần.
Lại bảo một người xướng lớn lên, cả chúng tăng tụng theo.
Đến nửa đêm, Sư ngồi ngay ngắn viên tịch.