Sư họ Châu, người Tiên Đô, Tấn Vân. Mẹ họ La, Lúc mang thai Sư, bà mộng thấy dạo chơi ở núi Đỉnh Hồ, được ngọc nữ trao cho hoa sen xanh và nói:
- Hoa cát tường này trao cho bà, bà sẽ sinh quý tử!
Ngày Sư chào đời có ánh sáng xanh đầy phòng, mùi thơm tựa như hương hoa sen. Thuở còn nằm nôi, Sư có đôi mắt xanh, môi hồng, khác với các đứa trẻ bình thường. Từ buổi sơ sinh, Sư tuyệt nhiên không nói.
Người xem tướng bảo:
- Đứa bé này thật kỳ lạ, không thể suy lường được, tôi không biết được vì sao nó không nói!
Lên bảy tuổi, mẹ dẫn Sư lên chùa Linh Sơn, đến chính điện, bà chỉ vào tượng Phật, cười hỏi Sư:
- Con kính Phật không?
Sư đáp:
- Đức Phật Thích ca của chúng ta, ai mà không kính?
Người mẹ nghe nói thế lấy làm lạ, vì kể từ khi sinh ra đến lúc ấy Sư chưa từng nói bao giờ. Do đó, cha mẹ cho Sư xuất gia.
Năm mười lăm tuổi, sư tụng năm bộ kinh như: Pháp hoa, Lăng nghiêm v.v… Sư đến chùa Gia Tường ở Việt Châu học tập và nghiên cứu giới luật.
Sau, Sư đến chùa Long Hưng ở Thượng Nguyên, nghe giảng kinh Hoa nghiêm và các bộ luận như Du già ...
Đầu niên hiệu Trinh Nguyên (785), Sư đến chùa Bạch Mã[71] ở thành Lạc Dương, thấy bản văn trong điện nhiều lần phóng ra ánh sáng, Sư không ngờ được, đến tìm xem thì thấy đó là bản văn Tây phương hóa đạo của ngài Thiện Đạo[72] khi xưa.
Sư nguyện:
- Nếu con có duyên với Tịnh độ thì hãy khiến cho bản văn này tiếp tục phát ra ánh sáng!
Chưa dứt lời, ánh sáng lại chiếu ra rực rỡ.
Sư nói:
- Kiếp thạch có thể mòn, nhưng lời nguyện của con không bao giờ đổi.
Nhân đó, Sư đến Trường An, chiêm lễ di tượng của ngài Thiện Đạo, lúc thiết lễ cúng bỗng thấy tượng ngài bay lên hư không, bảo Sư rằng:
- Ông y theo lời ta phổ độ chúng sinh, nhờ công đức này mà sinh về An Dưỡng.
Sư nghe lời đó như có được sự ấn chứng. Sư tiếp tục đến chùa Quả Nguyện ở Giang Lăng. Trên đường đi, Sư gặp một vị tăng bảo rằng:
- Thầy muốn giáo hóa thì nên đến xứ Tân Định.
Vị ấy nói rồi biến mất. Sư đi đến Mục châu, mọi người chưa biết đến Phật nên chưa theo sự hướng dẫn của Sư. Sư quyên tiền dẫn dụ trẻ em niệm Phật, bảo:
- Đức Phật A di đà chính là bậc thầy lành dẫn đường cho các con, nếu niệm danh hiệu Phật một câu ta sẽ cho một đồng tiền!
Nghe nói niệm Phật được tiền, lũ trẻ liền theo Sư niệm Phật. Hơn một tháng sau, trẻ con niệm Phật để được tiền càng đông, Sư bảo với chúng:
- Niệm Phật mười câu thì được thưởng tiền!
Các đứa trẻ ở Mục châu cũng theo lời quy định đó. Như thế được một năm thì số nam nữ bất kể già trẻ, sang hèn hễ gặp Sư đều niệm “A di đà Phật”. Cho nên, người ở Mục châu cùng nhau niệm Phật khắp cả đường sá.
Niên hiệu Trinh Nguyên thứ mười (794), Sư thành lập đạo tràng Tịnh độ ở núi Ô Long[73], xây đàn Tam Cấp, nửa đêm tập hợp mọi người lại niệm Phật. Trong thời tu tập của đạo tràng, Sư đều đích thân thăng tòa, rồi bảo mọi người nhìn về phía Sư, Sư niệm lớn “A di đà Phật” rồi mọi người cùng nối tiếp niệm hòa theo. Lúc Sư xướng lên, đại chúng nhìn thấy có một vị Phật từ trong miệng Sư bay ra, niệm liên tục mười lần thì có mười vị Phật liên tiếp như xâu chuỗi. Sư hỏi:
- Các vị thấy Phật không? Nếu ai thấy Phật người ấy nhất định sinh Tịnh độ.
Trong vài nghìn người niệm Phật đó cũng có người không thấy.
Ngày mồng ba tháng mười niên hiệu Trinh Nguyên thứ hai mươi mốt (805), Sư dặn dò mọi người phải tinh tiến cầu sinh An Dưỡng, nhàm chán cõi Diêm phù đề.
Sư nói tiếp:
- Nếu bây giờ các con thấy được hào quang mới thật là đệ tử của ta!
Nói xong, Sư liền phóng vài luồng ánh sáng lạ rồi viên tịch. Đại chúng xây tháp ở đài Tử Nham.
Niên hiệu Càn Hựu thứ ba (950) đời Hậu Hán, thiền sư Đức Thiều[74] ở núi Thiên Thai trùng tu lại bảo tháp. Người đời nay phần nhiều đều cho rằng ngôi tháp đó thờ hậu thân của ngài Thiện Đạo.
Ghi chú
Có người nghi ngờ việc Phật từ trong miệng Sư bay ra, họ cho là điều quái lạ. Than ôi! Đức Thế Tôn lúc gặp voi say trên đầu năm ngón tay xuất hiện năm con sư tử ánh sáng màu vàng, Thế Tôn nói: “Ta đâu có tâm chế ngự voi! Vì từ vô lượng kiếp đến nay, Ta tu pháp từ bi, nhẫn nhục, tự nhiên có năm con sư tử xuất hiện, Ta cũng không hay biết”. Nay thấy Đức Phật từ trong miệng pháp sư Đài Nham Khang bay ra, đây cũng do lòng kính ngưỡng từ vô lượng kiếp đến nay dẫn đến mà thôi. Đâu có gì lạ! Ở thế gian có những vị thầy tà dạy mọi người, ban đêm ngồi đốt hương chí thành cầu nguyện sẽ thấy Đức Phật hiện, bèn cho là có cảm ứng. So sánh giữa hai việc tà và chính thật xa vời, người tu tịnh nghiệp không thể không hiểu rõ điều này.