Sư họ Mạnh, người Đại Lục, Triệu Châu. Thuở nhỏ, tính Sư trong sáng ngay thẳng, thích ẩn cư nơi suối rừng, lạy thiền sư Trù ở Vân Môn làm thầy. Chẳng bao lâu sau thì xuất gia, Sư càng lạnh nhạt với thế tục. Suốt hơn mười hai năm, cả ngày Sư luôn trầm lặng tựa như người câm. Những lời Sư nói ra đều là giới, là định; Sư mong được tu chứng giai vị Tam thừa. Thiền sư Trù thấy thế bảo:
- Con đối với việc đời hầu như không còn vướng mắc, từ nay về sau ta có thể dạy Phật pháp cho con.
Do đó, mỗi ngày Sư đều học được những điều mới về giáo nghĩa quyền và thật của Tam thừa, và rèn luyện thêm phẩm hạnh của một vị tăng. Mỗi khi vọng tình[63] dấy khởi, Sư rút dùi sắt nhọn đâm vào đùi để răn mình giữ gìn chính niệm. Dù là phạm một lỗi nhỏ, Sư cũng làm như thế. Nhờ vậy, Sư không bị đắm nhiễm bởi các trần lao nghiệp chướng.
Trước đó, Sư cùng với pháp sư Đàm Tuân cùng tu thiền định, trải qua hơn mười năm gạn lọc, chân chưa từng bước ra khỏi cửa. Sau này, nghe nói núi Hứa Đình ở Tán Hoàng rừng sâu hẻo lánh, Sư liền đến ẩn tu. Khi biết việc ấy, nhiều người đã vận chuyển vật thực đến cúng dường, Sư đều tránh mặt.Hỏi nguyên do thì Sư trả lời:
- Ở núi rừng có hạt dẻ, hạt sồi, đủ dùng cho cả năm, đâu có gì thiếu thốn!
Ấy là lối sống giản dị của Sư. Bản tính Sư lại rất mực nhân từ, đối với muôn loài chúng sinh, dù là nhỏ bé như dế, kiến, Sư cũng chưa từng làm tổn hại chúng, huống gì các loài khác. Gặp người đang ăn thịt, Sư liền bảo:
- Trong lục đạo, chúng sinh có hình thù khác nhau, ngươi cũng đã từng mang những hình thể đó. Muôn loài đều có sinh mệnh, đều là cha mẹ, đều là thân trước kia của ngươi. Ăn thịt của chúng là ăn thịt cha mẹ mình, uống máu của chúng là uống máu mình. Sao ngươi không nghĩ đến cha mẹ, bản thân của mình mà khởi lòng thương xót chúng?
Nghe qua lời giảng dạy, người đó chợt hối cải.
Một hôm, người thợ săn đang đuổi bắt chim trĩ, chim bay vào trong phòng Sư, Sư tha thiết khuyên người thợ săn tha cho nó, nhưng ông không nghe. Thế là sư cắt lỗ tai của mình đưa cho thợ săn, nói rằng:
- Ta không thể khuyên được bởi vì ông tham thịt, ta nguyện đem tai này đổi lấy sự sống của chim trĩ!
Người thợ săn thấy vậy thất kinh. Về sau, ở Hứa Đình, mười người đã có đến tám chín người bỏ nghề săn bắn.
Sư ở Hứa Đình đã lâu, dân làng sống ở chân núi kéo đến cung kính nương tựa, nhưng Sư không thích, liền vào hang núi phía nam núi Chương Hồng chuyên tâm tu thiền định.
Vào niên hiệu Khai Hoàng thứ mười đời Tùy (590), Văn đế biết Sư là người tu hành khắc khổ, nên đặc biệt truyền chiếu:
- Hoàng đế kính thăm thiền sư Trí Thuấn ở hang phía nam núi Chương Hoàng! Mùa đông buốt lạnh, đạo vị vững vàng, hết lòng hóa độ chúng sinh, thành tựu hạnh nghiệp thù thắng. Với nguyện lực này trẫm hết sức vui mừng, nay lệnh quan tri phủ Khai Phong là Lư Nguyên Thọ truyền ý chỉ của trẫm, triệu thỉnh thiền sư về cung đình.
Sư dâng biểu tạ ơn vua, lấy cớ bị bệnh để chối từ. Dân chúng khâm phục đức độ nên dựng chùa thỉnh Sư ở.
Về sau, Sư đến ở chùa Đại Lâm, Lô Sơn. Ngày trước, ngài Tuệ Viễn có lập Tịnh xã Liên Đài để tu, đến bấy giờ dấu tích vẫn còn nguyên vẹn. Sư tiếp nối theo giáo pháp đó, tu tập mười sáu pháp quán, hằng ngày Sư luôn chú tâm vào các quán môn.
Đến cuối năm, tăng tục ở Dự Chương thỉnh Sư giảng kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Sư nói:
- Kinh này là giáo nghĩa của tông Tịnh Độ, mà Tịnh Độ là pháp tu của tôi nên đâu thể chối từ!
Năm ngày sau khi giảng kinh xong, Sư lâm bệnh. Một hôm, đang lúc bệnh, Sư thấy hàng trăm chim anh vũ, khổng tước bay đến niệm danh hiệu Phật, niệm các pháp ba-la-mật. Tiếng hót thánh thót, du dương vang vọng, khiến Sư gắng sức ngồi dậy, bảo các đệ tử:
- Chim anh vũ, khổng tước cùng nhau bay đến, lại cất tiếng niệm Phật, niệm pháp hiện đang ở trước mặt ta. Đây nhất định là Đức Phật A-di-đà thị hiện để báo trước sẽ đến tiếp dẫn. Ta sẽ đi trong ngày hôm nay!
Quả nhiên trong ngày hôm ấy Sư viên tịch.