Cõi Ta Bà và cõi Cực Lạc là pháp môn chiết nhiếp của chư Phật. Hành giả nghe cảnh y báo và chánh báo đã nói ở trước thì có thể theo y chỉ của kinh mà hiểu rõ cõi này thật là cõi khổ, cõi Cực Lạc kia là cõi thật vui. Tuy chúng ta đã nghe pháp môn quán huệ viên dung vi diệu, nhưng chúng ta phải thấy chắc hai cõi này nghiễm nhiên là cõi thật. Chẳng phải như những người có hiểu biết cạn cợt nói cõi Cực Lạc kia là do tâm, nên tâm có thì cõi kia có, tâm không thì cõi kia không, huyễn hóa như ánh sáng, như bóng chớp, hư vọng chẳng phải thật, biết rằng chỗ nào cũng là Tây phương Cực Lạc. Họ đâu biết rằng cõi Cực Lạc cũng như cõi này chính xác thật không thể lầm lẫn. Nếu người có đủ trí nhận xét như vậy thì tất cả những thứ thiên kiến, tà giải, ác thiện tri thức liền bị tiêu diệt, chánh quán hiện tiền, trên hai cõi khổ vui, tịnh uế, sanh hai thứ tâm làm phương tiện, nếu không có hai thứ tâm này, không thể sinh về cõi kia. Vì sao gọi hai thứ tâm?
1/ Tâm nhàm chán muốn xa lìa: Đối với cõi Ta Bà này sanh lòng nhàm chán, muốn xa lìa thời có thể tùy thuận theo lời dạy của Phật Thích Ca chỉ cho thấy cõi này là cõi khổ, đáng nhàm chán gọi là chiết (bẻ gảy) môn.
2/ Ưa vui: Đối với cõi Cực Lạc kia sanh lòng ưa muốn về thời có thể tùy thuận theo lời dạy của Phật A Di Đà chỉ cho thấy cõi Cực Lạc đáng vui, Phật luôn muốn tiếp dẫn về gọi là nhiếp môn. Dùng hai môn này tinh tấn tu hành thì niệm Phật tam muội chắc được thành tựu.
Vì sao gọi là chiết môn? Hành giả khi nghe cõi Cực Lạc thắng diệu được trang nghiêm ở trên, thời nên đúng lý mà quán sát thế giới Ta Bà này đều là khổ, không có chút gì gọi là vui như địa ngục tam đồ ngày đêm thiêu đốt, ngạ quỷ bàng sanh không thể nhận chịu, Tu la sân hận chiến đấu không chỗ nào yên, con người chịu vô vàn đau khổ, căn trần cùng 8 khổ hòa hợp, nhơn quả cùng bốn loài lên xuống, thời tiết thì có nóng lạnh, cảnh thì toàn bụi nhơ, ngày đêm suy tàn, vô thường không trụ. Lại nữa, thọ thân dơ bẫn, nam nữ khác hình, nhu cầu áo mặc cơm ăn, gian nan thô ác, thọ mạng ngắn ngủi, các khổ hợp nhau, dù có sanh ở cung trời, phước báo hết cũng quay về với cực khổ. Không biết rằng trong kiếp người vui tức là khổ, vì cười là nước mắt khô không lệ, kẻ thân thuộc chính là oan gia, điên đão chạy rong, không tìm đường thoát. Từ tạo nghiệp đến tạo nghiệp, các khổ như thế không thể kể xiết nên phải xa lìa.
Vì sao gọi là nhiếp môn? Hành giả nghe nói Ta Bà thật khổ như thế, thì đối với cõi Tây phương Cực lạc kia sanh lòng vui ưa lớn. Cõi Cực Lạc có đất báu, ao báu, không ba đường dữ, trang nghiêm thù thắng vượt qua các cõi Tịnh độ ở mười phương, ngày đêm nóng lạnh không có, không kết nghiệp sanh già bệnh chết, thuần nam không nữ, hoa sen hóa sanh, ăn mặc tự nhiên, đều được pháp hỷ, thọ mạng vô lượng, thân có hào quang vô cùng, nghe pháp âm thì niệm Tam bảo, biết chỗ về nhà, thấy tướng hảo trong sát na liền ngộ đạo, các thứ khoái lạc vô lượng nên gọi là Cực Lạc, nên phải ưa thích. Nếu có thể ở trong hai môn này tinh tấn tu tập, ngày đêm không gián đoạn là tùy thuận theo giáo lý đạo Phật, đối với cõi này các cảnh thanh sắc đều tưởng địa ngục, tưởng biển khổ, tưởng nhà lửa. Đối các vật báu sanh tưởng dụng cụ tạo khổ, ăn uống y phục, tưởng như ghẻ lở da sắt. Đối với quyến thuộc tưởng như gặp dạ xoa, la sát ăn thịt người. Huống nữa việc sanh tử chẳng dừng nhiều kiếp luân chuyển thật đáng nhàm chán muốn xa lìa.
Đối với các bậc thiện tri thức hoặc đọc kinh điển nghe nói nguyện lực của đức Phật kia, quốc độ trang nghiêm, ở trong mỗi niệm, ưa thích chỗ kia, sanh tưởng yên ổn, sanh tưởng đến bảo sở, tưởng trở lại quê cũ, tưởng đến chỗ giải thoát, tưởng Như Lai A Di Đà, chư Bồ tát, tăng chúng như cha lành, mẹ hiền, sanh tưởng được tiếp dẫn, sanh tưởng được đến bến bờ. Trong khi lo sợ nạn gấp, xưng danh hiệu liền được ứng nghiệm, công không mất, trong sát na liền đến cứu hộ nên nhớ tưởng xa lìa, như thế công đức vô lượng thật đáng ưa thích. Đối với chiết môn này không thể tu hành, nhàm chán không nhiều thì nghiệp buộc ràng ở cõi Ta Bà khó thoát. Nếu đối với nhiếp môn kia không thể tu hành, lòng ưa thích không tha thiết thì thắng cảnh Cực lạc khó về. Vì thế, hành giả muốn sanh Tịnh độ, thành tựu niệm Phật tam muộn phải tu đủ hai môn làm bước đầu phát khởi thực hành. Nếu không tu hai môn này dù hiểu rõ ý chỉ quán huệ cũng thành hư giả, dù muốn sanh về cõi kia, không dùng hân (ưa) và yểm (chán) thì không do đâu mà thành tựu. Nếu gắng tu hai môn ưa chán này mà không biết ý chỉ quán huệ, tuy có thể sanh về cõi kia chỉ được sự tưởng, địa vị không thuộc bậc thượng, nếu có tâm ưa chán mà tu quán huệ đã chắc sanh mà vào ngay bậc thượng. Các bậc học giả không thể coi hai môn này là chấp tướng mà dám khinh lờn ư!
Có người hỏi: vì sao không buông bỏ các duyên, một niệm muôn năm làm cho tâm và lý hợp, cảnh và thần dung thông, tự nhiên hợp đạo cần gì ưa chán, lấy bỏ cho là cao diệu ư!
Đáp: Nếu nói buông bỏ các duyên là đạo, chỉ khởi niệm một tâm buông bỏ thì không gọi là buông bỏ, cùng với đạo trái ngược rất xa, thuộc về đoạn kiến của ngoại đạo. Nên ngài Nga Hồ nói: "Đừng chỉ quên hình cùng tử tâm, việc ấy khó chửa bệnh rất nhiều." Lại nói: "nếu lại lặng lẽ giống như ngu, biết ông chưa hiểu đến công phu". Trong 18 pháp Phật bất công có tinh tấn không giảm bớt, trong sáu pháp ba la mật nhờ có tinh tấn mà được thành mãn. Vã lại buông bỏ là buông bỏ nghiệp duyên thế gian đâu có thể buông bỏ tinh tấn thể đạo. Cổ nhơn nói: Ngồi ở trong chỗ vô tích sự chính là hạng người này. Nếu buông bỏ tự do là đạo mà không cần thân tinh tấn nhất tâm tu hành, làm sao được tâm hợp cảnh dung thông, đập thành một miếng để cùng với đạo hợp. Nếu biết không buông bỏ là buông bỏ thì rõ ràng ưa chán, lấy bỏ, tức là không ưa chán, lấy bỏ, tu là không tu, niệm là không niệm, đó gọi là vô công dụng hạnh, cũng gọi là diệu tâm vô tác, đâu có khó gì chứng được lý trung đạo. Lại nữa, tu thì lìa đoạn kiến, không tu thì lìa thường kiến. Đoạn kiến và thường kiến đã xa lìa thì khác chỗ hỏi mà thẳng sanh về thế giới an lạc, cùng tu với hai vị Đại sĩ, cùng gặp Phật A Di Đà hằng ngày thì có pháp gì mà không thể hỏi, có hạnh gì mà không thể học, nghi gì mà không trừ, chỗ mong cầu gì mà không được. Đã được vị vô thối chuyển thì hạnh ưa chán này đâu chẳng phải là đại nhơn hạnh thành vô thượng chánh đẳng chánh giác ư!
II. Phát nguyện môn