Sư tên là An Thanh, con của vua nước An Tức. Thuở nhỏ nổi tiếng là người hiếu hạnh lại thêm thông minh và hiếu học. Từ sách vở nước ngoài cho đến thất diệu[6], ngũ hành[7] thuốc men thuật số, cả những tiếng chim muông, sư đều thông hiểu.
Có lần đang trên đường đi, nhìn thấy bầy chim yến bay ngang, sư bèn nói với bạn:
– Chim yến bảo có người mang thức ăn đến.
Một lát sau, đúng là có người mang thức ăn đến. Mọi người thảy đều kinh ngạc. Danh tiếng sư nhanh chóng lan truyền khắp Tây Vực. Sau đó, sư nhường ngôi xuất gia tu học, thông suốt kinh tạng, nhất là môn A tỳ đàm[8]. Sư du phương khắp các nước để tham học. Năm thứ nhất đời Hoàn Đế nhà Hán, sư đến Trung Hoa. Tại đây, sư học tiếng Hoa và phiên dịch các kinh điển. Sư biểu hiện rất nhiều điều thần kì, tự kể lại kiếp trước mình đã từng xuất gia. Sư có một người bạn đồng học tánh hay sân giận, nếu đi khất thực mà gặp thí chủ không vừa ý thì nổi giận, sư đã nhiều lần khuyên can, nhưng vẫn không chịu sửa đổi, suốt hai mươi năm như vậy. Một hôm sư từ biệt bạn đồng học và nói:
– Tôi phải đến Quảng Châu để trả nợ đời trước, huynh siêng năng và thông thạo kinh điển không thua kém gì tôi, chỉ vì tánh hay sân giận, nên sau khi mạng chung sẽ mang thân hình xấu xí, nếu tôi đắc đạo ắt sẽ độ huynh.
Nói xong, sư đến Quảng Châu. Gặp khi đất nước bị loạn lạc, trên đường, sư gặp một thiếu niên cầm đao nói với sư:
– Đúng là gặp được ông rồi!
Sư bèn mĩm cười nói:
– Đời trước tôi mắc nợ anh, nay tôi đến đây để trả. Anh giận như thế chính là do oan nghiệp đời trước.
Nói xong, sư đưa cổ ra nhận nhát dao mà không hề biến sắc. Người xem rất đông, ai nấy đều kinh ngạc. Thần thức của sư tái sinh làm thái tử nước An Tức. Sau, sư xuất gia và du hóa đến Trung Quốc. Cuối đời Hán Linh Đế, giặc giả nhiễu loạn ở Quan Lạc, sư bèn đi đến Giang Nam và tự nhũ: “Mình phải qua Lô Sơn để độ bạn đồng học đời trước”. Sư đi đến miếu Cung Đình Hồ, miếu này vốn rất linh thiêng, thương buôn cầu cúng thuyền đi đều được thuận buồm xuôi gió, không bị trở ngại gì. Lần nọ, có người xin thần cây trúc, thần chưa cho mà tự tiện lấy thì lập tức thuyền bị chìm và cây trúc trở về chỗ cũ. Từ đó người đi thuyền thảy đều khiếp sợ. Hơn ba mươi thuyền buôn cùng đoàn với sư đến miếu dâng lễ cầu phước, thần miếu bèn nói:
– Dưới thuyền có sa môn, hãy mời ông ấy đến đây.
Khách buôn đều kinh ngạc, mời sư vào miếu. Thần bèn nói với sư:
– Thuở xưa, ở nước ngoài, tôi với ngài cùng xuất gia học đạo, tôi ưa bố thí nhưng tánh hay sân giận nên nay đọa làm thần trong miếu này, quanh đây ngàn dặm đều do tôi cai quản. Nhờ phước bố thí nên châu báu của tôi rất nhiều, nhưng do sân giận, nên đọa làm thần. Nay gặp lại bạn xưa, tôi thật vui buồn lẫn lộn. Mạng sống của tôi không còn bao lâu nữa mà thân hình tôi lại quá lớn, nếu như tôi chết ở đây e rằng làm nhơ uế sông hồ, nên tôi phải sang đầm nước ở phía tây ngọn núi. Sau khi chết, thân này có lẽ đọa địa ngục, tôi có một nghìn xấp lụa và nhiều vật quý giá khác, ngài hãy đem số của cải này vì tôi mà xây tháp thờ kinh để tôi được sinh vào cõi lành.
Sư nói:
– Tôi từ xa đến đây để độ ông, sao ông không hiện nguyên hình?
Thần miếu đáp:
– Thân hình của tôi rất xấu xí, e rằng mọi người sẽ khiếp sợ.
Sư bảo:
– Ông cứ xuất hiện đi, mọi người sẽ không sợ đâu.
Nghe vậy, từ sau án thờ thần miếu xuất hiện, đó là con mãng xà rất lớn. Nó đến quì bên gối sư, sư bèn hướng về nó tụng mấy biến thần chú. Mãng xà khóc như mưa, lát sau thì biến mất. Thế rồi sư lấy lụa và các đồ vật cùng với những người thương buôn căng buồm ra đi. Mãng xà đứng trên núi cao nhìn theo, mọi người vẫy tay từ biệt cho đến khi khuất bóng.
Không bao lâu sư đến Dự Chương, mang những đồ vật trong miếu xây dựng Đông tự. Sau khi sư ra đi, vị thần miếu cũng qua đời. Đến chiều hôm ấy, có một thiếu niên lên thuyền quì trước sư, sư chú nguyện xong, thiếu niên liền biến mất. Sư nói với các thương buôn:
– Thiếu niên kia chính là vị thần trong miếu đã lìa bỏ thân hình xấu xí.
Từ đó thần không còn, miếu cũng không còn linh nghiệm.Về sau mọi người thấy xác mãng xà dài mấy dặm nằm trong đầm phía tây ngọn núi. Nơi này, nay chính là thôn Xà thuộc quận Tầm Dương.
Sau đó, sư lại đến Quảng Châu tìm vị thiếu niên đã giết mình đời trước. Lúc này vị thiếu niên vẫn còn ở đó, sư đi thẳng vào nhà nói lại việc trả oán và duyên nghiệp đời trước. Sư vui vẻ nói:
Tôi còn chút nợ đời trước, nay phải đến Cối Kê[9] để trả cho xong!
Vị thiếu niên mới nhận ra sư là người phi phàm, chợt hiểu và hối hận lỗi lầm trước đây. Ông ta tiếp đãi và cúng dường sư rất nồng hậu rồi theo sư về hướng đông. Khi đến Cối Kê, sư vào chợ, chợt gặp mọi người đang đánh nhau, họ đánh nhầm vào đầu sư, sư liền mạng chung. Vị thiếu niên mới nghiệm ra hai sự báo ứng, bèn siêng năng tu tập, và đem chuyện này kể lại cho mọi người nghe, ai nấy đều cho là kì lạ.