Trúc Đạo Sinh
Minh Thành Tổ Chu Lệ | Đức Nghiêm Đức Thuận Nguyên Nhứt, Việt Dịch


Sư họ Ngụy, người Cự Lộc, [12] thuở nhỏ rất thông minh tài trí, cha sư biết con mình là bậc phi phàm nên rất yêu thương và quí trọng. Sau đó, sư gặp sa môn Trúc Pháp Thái bèn bỏ tục xuất gia. Năm mười lăm tuổi, sư thăng tòa thuyết pháp, lời lẽ đối đáp trong sáng như châu ngọc, những học tăng nổi tiếng, danh sĩ đương thời đều bị sư chiết phục, chẳng ai dám phản kháng. Sau khi thụ cụ túc giới hiểu biết phật pháp càng sâu.

Sư vào ẩn tu ở Lô Sơn[13] bảy năm, thường cho huệ giải là căn bản vào đạo, nên thường nghiên cứu các bộ kinh, cầu thầy học đạo, dù xa vạn dặm vẫn không quản mệt nhọc. Sau đó, sư đến Trường An theo học với ngài La thập, các vị tăng ở Quan Trung đều khen sư có sức ngộ như thần. Sau đó, sư trở về ở lại chùa Thanh Viên, [14] Thái Tổ Văn đế Hoàng nhà Tống rất kính trọng sư. Có lần, Thái Tổ thiết hội, đích thân cùng với mọi người ngồi trên chiếu trải trên đất. Do chuẩn bị thức ăn quá lâu, nên mọi người sợ trời chiều. Vua bảo:

– Mới trưa mà.

Sư bảo:

– Bầu trời trong sáng, thiên tử bảo mới trưa, thì nhất định là trưa!

Nói rồi, sư lấy bát cùng mọi người dùng cơm. Họ đều khen lời của sư nói rất thích hợp.

Lúc đó, Niết bàn hậu phẩm[15] chưa truyền vào Trung Quốc, sư nói:

– Xiển đề[16] đều có thể thành Phật, chỉ vì bộ kinh này chưa truyền đến đầy đủ mà thôi.

Các vị tì kheo chấp văn tự cho sư là tà đạo, bèn đuổi đi.

Sư thệ trước đại chúng:

– Nếu lời của tôi không khế hợp với nghĩa kinh, thì xin đời này sẽ chịu ác báo, còn khế hợp với tâm Phật, thì nguyện đến khi bỏ thân này tôi sẽ ngồi trên tòa sư tử.

Nói rồi sư phất áo ra đi, vào núi Hổ Khâu[17] quận Ngô, dựng đá làm đồ chúng, để giảng kinh Niết bàn, đến chỗ: “Xiển đề có Phật tánh”. Sư hỏi:

– Lời ta nói có khế hợp với tâm Phật không?

Các viên đá đều gật đầu. Mùa hạ năm đó, sấm chấn động ở Phật điện chùa Thanh Viên, mọi người chợt thấy một con rồng bay lên trời, bóng hiện ở bức tường phía tây, nhân đó đổi tên chùa là Long Quang. Khi ấy, mọi người than rằng:

– Rồng bay rồi, Sư nhất định sẽ đi.

Không lâu, sư trở về Lô Sơn, ẩn tu trong hang núi, chúng tăng đều kính phục.

Sau đó, bản kinh Đại Niết bàn đến Nam kinh, quả đúng trong kinh có thuyết: “Xiển đề đều có Phật tánh”, rất trùng hợp với lời của sư. Sư đã tìm thấy bộ kinh này, liền thăng tòa giảng thuyết.

Đến niên hiệu Nguyên Gia thứ mười một (434) đời Tống, sư thăng tòa thuyết giảng kinh Niết bàn ở Lô Sơn. Lúc giảng vừa xong, bỗng mọi người thấy cây phất trần khỏi tay. Sư an nhiên thị tịch trên pháp tòa.