Sư người Tây Vực, họ Bạch, xuất gia lúc nhỏ, là người giữ giới thanh tịnh, chuyên tâm tu học, tụng làu thông mấy trăm vạn lời kinh điển.
Niên hiệu Vĩnh Gia thứ tư (310), sư đến Lạc Dương với chí nguyện hoằng hóa Phật pháp lớn. Sư giỏi chú thuật, có thể sai khiến quỉ thần. Sư lấy dầu mè trộn phấn sáp, xoa vào lòng bàn tay thì các việc xa ngoài ngàn dặm cũng đều hiện rõ như ở trước mắt. Sư cũng có thể khiến cho người trì trai giới thanh tịnh thấy việc đó. Nghe tiếng linh, sư dự đoán trước những việc sắp xảy ra, tất cả đều hiệu nghiệm.
Sư muốn lập chùa ở Lạc Dương, nhưng gặp lúc giặc Lưu Diệu đang đánh phá ở Lạc Đài, khiến cho kinh đô rối loạn. Vì thế, chí nguyện lập chùa của sư không được thành tựu. Sư bèn ẩn thân nơi hoang vắng để quán sát thế sự biến đổi.
Bấy giờ, Thạch Lặc đóng quân ở Cát Pha, chuyên lấy việc chém giết để làm uy, khiến các sa môn bị hại rất nhiều. Sư thương xót chúng sinh, muốn đem giáo lí để giáo hóa Thạch Lặc. Thế là, sư đến doanh trại của Thạch Lặc. Sư biết đại tướng Quách Hắc Lược vốn rất tôn sùng Phật pháp, nên sư thẳng đến quân doanh ông ấy để giáo hóa. Quách Hắc Lược xin làm đệ tử, thụ trì năm giới cấm.
Sau đó, Hắc Lược cùng Thạch Lặc đi chinh phạt, ông luôn dự đoán được việc thắng bại, Thạch Lặc nghi ngờ liền hỏi:
– Ta không biết khanh có mưu trí xuất chúng như thế nào, mà khi ra quân thường biết các việc lành dữ như thế?
Quách Hắc Lược đáp:
– Tướng quân là bậc thần vũ trời sinh, vượt trội hơn người, nên được các vị thần linh hỗ trợ. Có một vị sa môn pháp thuật phi thường, vị ấy bảo rằng tướng quân sẽ chiếm được Khu Hạ[26], nên đã nhận làm quân sư. Những việc thần tâu với tướng quân từ trước đến nay, đều là lời của vị ấy.
Thạch Lặc vui mừng nói:
– Trời đã ban cho ta!
Ông liền triệu sư đến hỏi:
– Đạo Phật có gì linh nghiệm?
Sư biết Thạch Lặc không hiểu được giáo lí sâu xa, chỉ dùng chú thuật mới có thể giáo hóa, liền bảo:
– Đường đến đạo tuy xa, nhưng cũng có thể lấy những việc gần để chứng minh.
Nói xong, sư liền lấy bát đựng đầy nước rồi đốt hương chú nguyện. Phút chốc, trong bát bỗng nở một hoa sen màu xanh, ánh sáng chiếu rực rỡ, do đó Thạch Lặc tin phục. Sư khuyên rằng:
– Phàm là bậc đế vương, nếu biết dùng đức cảm hóa, thấm nhuần khắp thiên hạ thì tứ linh[27] sẽ hiện. Chính sách trị nước hà khắc, đạo đức suy đồi, thì sao chổi sẽ xuất hiện. Những thiên tượng tốt xấu đã hiện thì lành dữ theo sau, đó là lẽ thường xưa nay, cũng là điều răn rõ ràng của trời!
Thạch Lặc nghe thế, lòng rất vui mừng. Từ đó, những người đáng tội chết cũng đều được tha, tám chín phần dân được lợi ích, người Hồ ở Trung Châu[28] cũng đều nguyện thờ Phật.
Lúc ấy, có người bị bệnh động kinh, thầy thuốc khắp nơi không ai chữa trị được. Sư đến chữa thì bệnh liền khỏi. Thạch Lặc từ Cát Pha trở về Hà Bắc rồi nghỉ qua đêm tại Phương Đầu. Đêm đó, có người muốn phá doanh trại, sư liền bảo Quách Hắc Lược:
– Lát nữa có giặc tới, ông nên báo trước cho tướng công biết.
Quả đúng như lời sư nói, nhờ có đề phòng nên không bị thất bại. Có lần, Thạch Lặc muốn thử tài sư, tối đến ông đội mũ trụ, mặc áo giáp, cầm đao ngồi, rồi sai sứ đến báo với sư: “Từ tối đến giờ không biết đại tướng quân ở đâu!”
Sứ giả vừa đến chưa kịp mở lời, sư đã hỏi:
– Nơi này bình yên không có giặc cướp, cớ sao ban đêm phải canh phòng nghiêm mật như thế?
Nghe vậy, Thạch Lặc càng kính phục sư hơn. Sau đó, Thạch Lặc do sân giận, định hại các vị sa môn và muốn làm khổ sư. Sư bèn tránh mặt đến nhà Quách Hắc Lược bảo:
– Nếu sứ giả của tướng công đến hỏi ta ở đâu, ông hãy trả lời là không biết!
Sứ giả đến tìm không gặp sư, liền trở về báo lại cho Thạch Lặc, ông kinh sợ nói:
– Ta có ý xấu với thánh nhân, nên ngài đã bỏ ta đi rồi!
Suốt đêm ông không ngủ được, suy nghĩ mong gặp được sư. Sư biết Thạch Lặc có ý hối cải, nên sáng sớm liền đến, Thạch Lặc hỏi:
– Đêm qua ngài đi đâu?
Sư đáp:
– Tướng công có tâm phẫn nộ, nên đêm qua tôi tạm lánh mặt. Nay tướng công có ý hối cải, vì thế tôi mới dám đến đây.
Thạch Lặc cười lớn, nói:
– Ngài đã hiểu lầm rồi!
Nguồn nước của con hào thành Tương Quốc nằm dưới miếu Đoàn Hoàn cách thành năm dặm bỗng nhiên khô cạn, Thạch Lặc hỏi sư:
– Làm sao có lại được nguồn nước?
Sư đáp:
– Nay phải ra lệnh cho rồng (Long).
Thạch Lặc tự là Thế Long, nên ông cho rằng sư giễu cợt mình, bèn nói:
– Chính vì Long không thể lấy được nước nên mới hỏi ngài như thế!
Sư liền đáp:
– Đây là lời thành thật, chẳng phải đùa! Tại nguồn nước này nhất định có rồng thần ở. Phải đến bảo nó thì nhất định nước sẽ có lại.
Sư cùng với các đệ tử như Pháp Thủ v.v..và vài người khác đi đến đầu nguồn. Nơi đây, nước đã khô cạn từ lâu, nức nẻ như vết bánh xe. Những người theo sư sinh lòng nghi ngờ, cho rằng khó có được nước. Sư ngồi trên ghế đốt hương An tức[29], chú nguyện vài trăm lời. Trải qua ba ngày, bỗng nhiên nước tràn mênh mông, chảy đi khắp nơi. Có một con rồng nhỏ dài năm sáu tấc, xuất hiện theo dòng nước. Các vị sa môn tranh nhau đến xem. Sư bảo:
– Rồng đó có độc, chớ đến gần!
Chỉ trong nhốc lát nước chảy đến đầy khắp các hào, rạch.
Sư ngồi than:
– Hai ngày sau, sẽ có một kẻ tiểu nhân làm kinh động nơi đây.
Bấy giờ, Tiết Hợp ở Tương Quốc có hai người con, tuy còn nhỏ, nhưng tính tình kiêu căng, khinh rẻ kẻ nô bộc Hung nô. Nô bộc phẫn nộ, lấy dao giết người em rồi bắt người anh vào phòng, cầm dao doạ rằng: “Nếu có người vào phòng ta sẽ ra tay”. Rồi hắn nói với Tiết Hợp:
– Nếu đưa tôi trở về nước thì con ông được sống, bằng không tôi cùng chết với nó.
Lúc đó, mọi người kinh sợ không ai dám nhìn, Thạch Lặc đến xem, rồi bảo Tiết Hợp:
– Trả kẻ nô bộc về nước, để bảo toàn tánh mạng của con ông thì thật là một việc tốt. Nhưng nếu cách này lan truyền ra, sẽ di họa về sau. Ông hãy thông cảm, nước có phép nước.
Nói xong, Thạch Lặc sai người bắt nô bộc. Hắn liền giết đứa bé rồi tự sát.
Đoàn Ba người Hung nô đem quân đánh Thạch Lặc, thế giặc rất mạnh. Thạch Lặc sợ hãi hỏi Sư. Sư đáp:
– Hôm qua tiếng linh ở chùa kêu: “Ngày mai vào giờ ngọ sẽ bắt được Đoàn Ba”.
Thạch Lặc lên thành cao quan sát, thấy quân Đoàn Ba trùng trùng điệp điệp. Ông ta thất sắc nói:
– Quân giặc đi dậy đất, làm sao có thể bắt được Đoàn Ba, lời này chỉ vỗ an ta mà thôi!
Liền sai Quỳ An đến hỏi. Sư đáp:
– Đã bắt được Đoàn Ba!
Cùng lúc đó, binh lính mai phục ở phía bắc thành xông ra gặp Đoàn Ba và bắt sống. Sư khuyên Thạch Lặc nên khoan hồng, thả cho Đoàn Ba trở về nước. Thạch Lặc làm theo ý sư, còn quân lính bắt được đem về sung quân.
Lúc đó, Lưu Tái đã chết, em chú bác của Lưu Diệu soán vị, đổi niên hiệu là Quang Sơ. Đến niên hiệu Quang Sơ thứ 8, Lưu Diệu sai em họ là Trung Sơn Vương Lưu Nhạc, dẫn quân đánh Thạch Lặc. Lặc sai Thạch Hổ dẫn bộ binh và kị binh chống cự. Đại chiến xảy ra ở phía tây Lạc Dương, Lưu Nhạc bị thất bại, quay về trấn giữ ở Thạch Lương. Thạch Hổ ra sức bao vây. Sư cùng đệ tử từ Quan Tự đến Trung Tự, mới vào cửa chùa sư than:
– Lưu Nhạc thật đáng thương!
Đệ tử Pháp Tộ hỏi nguyên nhân. Sư nói:
– Nhạc đã bị bắt vào giờ Hợi đêm qua!
Quả đúng như lời sư nói.
Đến năm Quang Sơ thứ 11, Lưu Diệu đích thân xuất binh đánh Lạc Dương. Thạch Lặc muốn tự mình dẫn quân đến đánh Lưu Diệu, nhưng tất cả thuộc hạ đều khuyên can. Thạch Lặc đem việc này hỏi Sư, sư đáp:
– Tiếng linh trên tướng luân[30] kêu rằng: “Tú chi thế lệ cương, bộc cốc câu ngốc đương” đây là tiếng của người Yết (Hung Nô). “Tú chi thế lệ cương” là “xuất”, “bộc cốc” là ngôi vị của Lưu Diệu, “câu ngốc đương” là bắt vậy. Nghĩa là, nếu xuất quân sẽ bắt được Lưu Diệu.
Từ Quang nghe như vậy, cố khuyên Thạch Lặc xuất quân. Thạch Lặc bèn cho trưởng tử là Thạch Hoằng ở lại cùng sư trấn giữ Tương Quốc, đích thân ông dẫn bộ binh và kị binh trung quân, tiến thẳng vào thành Lạc Dương. Hai bên vừa giao chiến, quân Lưu Diệu đã đại bại, ngựa của Diệu bị rơi xuống sông. Thạch Kham bắt sống Lưu Diệu giao cho Thạch Lặc.
Sư lấy dầu xoa trong lòng bàn tay, quan sát thấy trong đó có một người bị đám đông bao vây, lụa đỏ trói tay. Nhân đây, sư bảo Thạch Hoằng:
– Ngay lúc này, Lưu Diệu đã bị bắt sống.
Sau khi bình định được giặc Lưu Diệu, Thạch Lặc tiếm xưng Triệu Thiên vương, hành phép tắc lễ nghi của hoàng đế, đổi hiệu là Nguyên Kiến Bình. Bấy giờ nhằm niên hiệu Hàm Hòa thứ năm (330) đời Tấn Thành Đế. Sau khi Thạch Lặc lên ngôi hoàng đế, ông càng hết lòng tôn kính sư.
Bấy giờ, Thạch Thông có ý muốn tạo phản. Năm ấy, sư căn dặn Thạch Lặc rằng:
– Năm nay trong hành có sâu, ăn vào sẽ có hại, ngài hãy ra lệnh cho nhân dân không được ăn hành.
Thạch Lặc ban sắc cho nhân dân trong nước không nên ăn hành. Đến tháng tám, quả nhiên Thạch Thông trốn chạy. Nhân đây, Thạch Lặc càng tôn trọng sư hơn. Ông muốn làm việc gì, trước đều thỉnh ý sư, sau mới thi hành, ông thường gọi sư là Đại hòa thượng.
Thạch Hổ có người con tên Bân, sau Thạch Lặc nhận làm con, ông rất thương yêu đứa bé này. Một hôm, bỗng nhiên Bân bị bệnh nặng và chết. Qua hai ngày sau, Thạch Lặc nói:
– Ta nghe thái tử Quắc chết mà thần y Biển Thước[31] có thể cứu sống, nay Đại hoà thượng là thần nhân của nước ta, vậy hãy mau đến trình bày, ắt được phúc cứu sống thái tử.
Đến đó, sư liền cầm nhành dương chú nguyện, bỗng nhiên thái tử sống lại, chỉ trong thời gian ngắn thái tử liền bình phục. Do đó, các con nhỏ của Thạch Lặc phần nhiều được đưa vào chùa nuôi dưỡng. Mỗi năm vào ngày mồng tám tháng tư, Thạch Lặc đích thân đến chùa tắm Phật, cầu nguyện cho các con.
Đến tháng tư niên hiệu Kiến Bình thứ tư, bầu trời yên lặng, không chút gió mà trên tháp có tiếng linh ngân lên. Sư bảo đại chúng:
Tiếng linh báo rằng “Năm nay, trong nước có đại tang”. Đúng như dự đoán, tháng 7 năm đó Thạch Lặc chết.
Thái tử Thạch Hoằng kế vị. Không bao lâu, Thạch Hổ soán ngôi, dời đô đến Kiến Nghiệp, đổi niên hiệu là Kiến Võ. Ông dốc lòng phụng thờ sư còn hơn Thạch Lặc.
Lúc ấy, sư dừng lại ở chùa Trung trong thành Kiến Nghiệp. Sư sai đệ tử Pháp Thường đến Tương Quốc. Trong lúc ấy, đệ tử Pháp Tá từ Tương Quốc trở về. Hai người gặp nhau ở thành Lương Cơ, và cùng nghỉ lại nơi đây. Đêm đó, huynh đệ cùng nhau đàm luận về thầy của mình. Khi trời gần sáng, hai người từ biệt. Pháp Tá vừa trở về chùa Trung, liền vào hầu sư. Sư cười vặn hỏi rằng:
– Đêm qua, ngươi và Pháp Thường kề xe nhau cùng nói về Thầy của ngươi phải không? Bậc Thánh xưa có nói: “Người có lòng cung kính, dù ở nơi vắng vẻ cũng không thay đổi; người có lòng thận trọng dù ở một mình cũng không buông lung. Vắng vẻ, một mình là gốc của lòng cung kính và thận trọng, ngươi không biết ư?
Pháp Tá vô cùng kinh ngạc, hổ thẹn xin sám hối. Những người trong nước thường nói với nhau rằng: “Không nên khởi tâm xấu, hòa thượng biết được tâm ông vậy”. Kể từ đây, những nơi sư ở không ai dám hướng về đó mà phóng uế.
Bấy giờ, thái tử Thạch Thúy có hai người con đang ở Tương Quốc. Sư nói với Thạch Thúy:
– Đứa con nhỏ của ông đang bị bệnh, ông nên đến thăm!
Thạch Thúy liền lên ngựa đến đó xem, quả nhiên con của ông bị bệnh đúng như lời sư nói. Thái y Ân Đằng và các đạo sĩ ở nước ngoài bảo là sẽ trị lành. Sư nói với đệ tử Pháp Nha:
– Giả như có thánh nhân xuất hiện cũng không thể trị được chứng bệnh này, huống hồ là các thầy thuốc đó!
Ba ngày sau, quả nhiên đứa bé chết đúng như sư dự đoán. Thạch Thúy đam mê tửu sắc mưu đồ tạo phản. Ông ta nói với hoạn quan:
– Hòa thượng có thần thông, e rằng biết được ý đồ của ta. Sáng mai ông ta đến, ngươi hãy giết đi!
Vào ngày rằm tháng ấy, lúc sắp vào yết kiến Thạch Hổ, sư nói với đệ tử Tăng Huệ:
– Tối hôm qua thiên thần bảo với ta: “Ngày mai nếu có vào cung cũng đừng ghé vào nhà ai”. Nếu ta có ghé thì ông nhớ ngăn ta lại.
Mỗi khi vào triều kiến, sư thường ghé vào phủ của Thạch Thúy. Thạch Thúy biết sư vào, nên chờ đợi rất lâu. Sư định lên Nam Đài thì Tăng Huệ kéo áo lại, sư nói:
– Việc đến nước này thì không thể dừng lại được!
Sư ngồi chưa yên lại vội đứng dậy. Thạch Thúy cố giữ, nhưng không được. Vì thế mà âm mưu của ông ta không thành. Sư trở về chùa than:
– Thái tử mưu đồ tạo phản, sự tình sắp thành nhưng muốn nói cũng khó nói, muốn nhẫn cũng khó nhẫn.
Sư mượn sự việc này từ tốn răn nhắc Thạch Hổ, nhưng Thạch Hổ không hiểu. Không bao lâu, ý đồ tạo phản của Thạch Thúy bại lộ, Thạch Hổ mới ngộ được lời nói của sư.
Về sau, Quách Hắc Lược đem binh chinh phạt rợ Khương ở ngọn núi phía bắc thành Trường An, bị bọn địch vây bắt. Bấy giờ, sư ngồi trong giảng đường cùng với đệ tử Pháp Thường, bỗng nhiên biến sắc đau buồn nói:
– Quách công đã rơi vào vòng vây của địch rồi!
Nói xong, sư bảo chúng tăng cùng với mình chú nguyện. Một lát sau, sư nói:
– Nếu chạy về hướng đông nam thì sống, còn những hướng khác sẽ nguy khốn!
Nói rồi, sư tiếp tục chú nguyện. Trong phút chốc, sư lại nói:
– Thoát rồi!
Hơn một tháng sau, Quách Hắc Lược trở về kể:
– Lúc rơi vào vòng vây của rợ Khương, tôi chạy về hướng đông nam, ngựa đuối sức, bỗng có một thuộc hạ cưỡi ngựa phi tới, hắn ta đẩy ngựa qua cho tôi và bảo: “Ngài hãy cưỡi con ngựa này, tiểu nhân sẽ cưỡi ngựa của ngài, cứu được hay không là tùy vào số mệnh”.
Nhờ đó mà Quách Hắc Lược thoát chết. Nghiệm ra khi ấy chính là lúc sư chú nguyện.
Ngụy đại tư mã yên công Thạch Bân được Thạch Hổ cho trấn giữ U Châu, ông ta tụ tập bọn hung ác làm điều bạo ngược. Sư khuyên Thạch Hổ:
– Tối qua thiên thần có nói với tôi: “Hãy mau chóng thâu ngựa về, mùa thu tới khắp nơi đều (Tề) sẽ bị bệnh dịch bại liệt”.
Thạch Hổ không hiểu lời sư nói, nhưng cũng ra lệnh khắp nơi thâu ngựa về. Đúng mùa thu năm đó, có người đem chuyện Thạch Bân tâu lên Thạch Hổ. Thạch Hổ cho triệu Thạch Bân đến, đánh ba trăm roi và giết mẹ của hắn ta là Tề Thị. Sau đó, Thạch Hổ còn rút tên, dương cung bắn Thạch Bân. Tự giám sát việc phạt Thạch bân như thế mà vẫn cho là nhẹ. Thạch Hổ định tự tay giết năm trăm đồng bọn, nhưng sư liền can:
– Ngài không nên tùy tiện giết hại như thế, người đã chết không thể sống lại. Theo lễ thì vua không nên đích thân giết, làm thế sẽ tổn đến ân đức. Có vị vua nào lại tự tay hành phạt bề tôi!
Nghe thế, Thạch Hổ mới dừng tay.
Về sau, quân Tấn tiến đánh, khiến các vùng Hoài, Tứ, Lũng, Bắc, Ngoã Thành nguy cấp. Khắp nơi cấp báo, lòng người rối loạn. Thạch Hổ giận dữ nói:
– Ta phụng thờ Phật mà vẫn bị nạn ngoại xâm. Phật không linh thiêng sao!
Sáng sớm hôm sau, sư vào triều, Thạch Hổ đem sự việc đó ra hỏi. Sư trách rằng:
– Vào thời quá khứ, bệ hạ đã từng là một thương buôn lớn, thường đến cúng dường một ngôi chùa ở nước Kế tân[32]. Trong đại hội có sáu mươi vịA la hán, tôi cũng có dự trong hội đó. Bấy giờ có một vị đã đắc đạo nói với tôi: “Người thương buôn này sau khi mạng chung đọa làm thân gà, rồi sau đó sinh lại làm vua nước Tấn”. Nay bệ hạ đã làm vua, há chẳng phải đã có phúc ư! Biên cương giặc giả là lẽ thuờng của đất nước, sao bệ hạ lại oán trách Tam Bảo, khởi niệm ác độc như thế!
Nghe vậy, Thạch Hổ tỉnh ngộ, quỳ xin sám hối. Thạch Hổ hỏi sư:
– Đạo Phật cấm sát sinh, trẩm làm vua thiên hạ nếu không dùng hình phạt thì không thể giữ yên đất nước. Trẩm làm như vậy là đã trái với giới sát sinh, dù phụng thờ Phật cũng đâu được phước!
Sư đáp:
– Bậc đế vương phụng thờ Phật là ở thân cung kính tâm tri thuận, xiển dương Tam bảo, không làm điều bạo ngược, không hại kẻ thế cô. Đối với kẻ bạo ngược, vô lại, nếu không giáo hóa thì họ không sửa đổi được. Kẻ có tội không thể không giết, người độc ác không thể không gia hình. Nhưng, người đáng giết thì giết, kẻ đáng hành hình thì hành hình. Nếu bạo ngược, tùy tiện giết người vô tội, thì dù có đem hết của cải để phụng sự Phật pháp cũng không thoát khỏi tai họa. Xin bệ hạ hãy giảm bớt sự tham muốn và ban trải lòng từ đến muôn loài. Có vậy, Phật pháp mới luôn hưng thịnh, ân đức bệ hạ thấm nhuần muôn phương.
Thạch Hổ tuy không làm theo hết như lời sư khuyên, nhưng ích lợi từ lời dạy của sư cũng không nhỏ.
Thượng thư của Thạch Hổ như Trương Li, Trương Lương.v.v.. hết lòng phụng thờ Phật pháp, mỗi nhà đều xây một ngôi tháp lớn. Thấy thế, sư nói:
– Phụng thờ Phật cốt là trong lòng thanh tịnh, không tham muốn, biết thương xót mọi loài. Đàn việt tuy thờ phụng Phật pháp, nhưng lòng tham lam, bỏn sẻn chưa dứt, săn bắn vô độ, tích chứa không cùng, e sẽ chịu tội trong đời hiện tại, mong gì có được phước báo?
Về sau, Trương Li, Trương Lương đều bị giết chết.
Lúc ấy, ở vùng đó hạn hán kéo dài, từ tháng giêng đến tháng sáu, Thạch Hổ sai thái tử đến cửa sông Tây Phủ ở Lâm Chương để cầu mưa, trải qua một thời gian lâu vẫn hạn hán. Thạch Hổ liền thỉnh sư đến. Ngay lúc ấy, bỗng có một con rồng trắng hai đầu xuất hiện ở miếu. Ngày đó mưa lớn đổ xuống khắp nơi, năm ấy mùa màng bội thu. Dân Nhung Mạch[33] lúc đầu chưa biết đến Phật pháp, nhưng nghe danh sư là bậc thần thông, nên từ xa họ hướng đến lễ bái. Sư không nói một lời mà vẫn cảm hóa được họ.
Có lần, sư sai đệ tử đến Tây Vực mua hương. Sau đó, sư bảo với các đệ tử khác rằng:
– Nhìn trong lòng bàn tay, ta thấy người đệ tử đi mua hương đang ở chỗ kia bị cướp sắp giết chết.
Từ xa, sư liền đốt hương chú nguyện để cứu người đệ tử. Sau đó vị ấy trở về kể lại:
– Ngày ấy, tháng ấy tại nơi ấy con sắp bị bọn cướp giết, bỗng nhiên nghe mùi hương lạ. Không biết duyên cớ gì, bọn cướp sợ hãi nói: “Cứu binh đã đến!” Nói rồi, bọn chúng bỏ chạy.
Sau đó, Thạch Hổ đến trùng tu ngôi tháp ở sông Lâm Chương, nhưng thiếu thừa lộ bàn Sư liền bảo:
– Dưới ngôi tháp cổ của vua A dục trong thành Lâm Truy có thừa lộ bàn và tượng Phật, bên trên cây cối tốt tươi, ông đào lên sẽ thấy.
Sư liền vẽ bản đồ trao cho sứ giả, sứ giả y lời, đào lên liền thấy Thừa lộ bàn và tượng Phật.
Thạch Hổ có ý định đánh nước Yên, sư liền ngăn:
– Vận thế của nước Yên chưa hết, nên rất khó thắng.
Mấy lần Thạch Hổ đem quân đánh, nhưng đều thất bại, mới tin lời sư.
Hoàng Hà từ lâu không có loài ba ba, nhưng nay bỗng nhiên người dân ở đó bắt được một con đem dâng lên Thạch Hổ. Sư thấy vậy liền than:
– Không bao lâu Hoàng Ôn sẽ vào!
Ôn tự là Nguyên Tử[34]. Về sau, quả đúng như lời sư nói.
Lúc ấy, ở huyện Ngụy có một lưu dân[35], không rõ họ tên, thường mặc y phục thô xấu, vào chợ xin ăn, nên lúc bấy giờ gọi ông là Ma Nhu[36], lời nói thật siêu việt, nhưng hình dáng giống như người điên. Khi xin được gạo cơm lại không ăn, mà vãi tung lên đường, nói:
– Cho ngựa trời ăn!
Thái thú Triệu Hưng cho người bắt ông ta đem đến Thạch Hổ. Trước đó, sư có bảo với Thạch Hổ:
– Ngày đó, tháng đó, từ phía đông của đất nước hai trăm dặm, sẽ đưa đến một người khác thường, nhưng chớ giết ông ta!
Đúng kì hạn ấy, quả nhiên Ma Nhu đến. Thạch Hổ cùng ông ta đàm luận, nhưng ngôn ngữ bất đồng. Ông ta chỉ nói:
– Sau này, bệ hạ mạng chung dưới “nhứt trụ điện”!
Thạch Hổ không hiểu lời này, liền dẫn Ma nhu đến chỗ sư.
Sư cùng với ông ta đàm luận suốt ngày mà mọi người không thể hiểu được. Có người trộm nghe, chỉ hiểu được vài lời, xét kĩ thì giống như họ đang bàn luận việc cách đây đã vài trăm năm.
Thạch Hổ sai người đem xe ngựa đưa ông ta về chốn cũ. Lúc ra khỏi thành, ông từ chối và xuống đi bộ. Ông nói:
– Tôi phải ghé một nơi, thành thật xin lỗi, không thể đi cùng. Ông đến cầu Hợp Khẩu dừng lại đợi tôi.
Sứ giả liền vâng lời ra đi. Chưa đến cầu Hợp Khẩu đã thấy Ma Nhu đứng trên cầu. Tính ra, ông đi nhanh như bay.
Đêm nọ, Thạch Hổ mộng thấy đàn dê mang những con cá từ hướng đông bắc đến. Thức dậy, ông liền đến hỏi sư, sư đáp:
– Điềm mộng này không tốt! Bộ tộc Tiên Ti sẽ chiếm ở Trung Nguyên sao!
Quả thật về sau họ Mộ Dung định đô ở đây.
Có lần, sư cùng Thạch Hổ đang ở giảng đường, bỗng sư giật mình nói:
– U Châu đang bị hoả thiêu!
Sư liền vẫy rượu.
Hồi lâu, sư cười nói:
– Đã cứu được rồi!
Thạch Hổ cho người đến U Châu kiểm chứng. Quả đúng ngày đó lửa bốn phía bốc cháy, bỗng từ hướng nam có đám mây đen bay đến, mưa xuống dập tắt ngọn lửa, trong mưa có mùi rượu.
Tháng bảy, niên hiệu Kiến Vũ thứ mười bốn (317), Thạch Tuyên và Thạch Thao mưu đồ giết hại nhau. Thạch Tuyên đến chùa, cùng với sư ngồi trên tháp, bỗng một tiếng linh reo lên, sư bảo với Thạch Tuyên:
Ông hiểu tiếng linh nói gì không? Tiếng linh nói rằng: “Hồ tử lạc độ!”
Thạch Tuyên biến sắc nói:
– Lời này có ý gì?
Sư liền nói lãng đi:
– Lão hồ tu đạo mà không thể ở trong núi, cũng không quan tâm đến nệm dày, áo đẹp. Đây há chẳng phải “lạc độ” ư?
Thạch Thao đến sau, sư nhìn chằm chằm, ông ta lo lắng hỏi sư, sư đáp:
– Kì lạ! Máu của ông có mùi hôi, cho nên tôi nhìn ông như thế.
Tháng tám, sư bảo hơn mười người đệ tử đến thất riêng, sư cũng vừa từ cửa hướng đông đi vào. Thạch Hổ cùng Đỗ hậu đến thăm hỏi. Sư bảo:
– Bên hông có giặc! Nội trong mười ngày, từ tháp này đến phía tây, từ điện này đến phía đông sẽ có đổ máu, chớ đi về hướng đông.
Đỗ hậu nói:
– Hòa thượng đã lớn tuổi, e đã nhầm lẫn! Nơi này sao lại có giặc?
Sư liền nói tránh đi:
– Lục tình[37] đều là giặc. Tôi tự biết mình đã già, nhưng cũng có thể giúp cho người sáng suốt!
Sư liền dùng ngụ ngôn mà không nói rõ mục đích. Hai ngày sau, quả đúng Thạch Nghi sai người đến chùa giết Thạch Thao, và thừa lúc Thạch Hổ đến viếng tang để hành thích. Thạch Hổ nhờ sư răn trước nên thoát nạn. Việc bại lộ, Thạch Nghi bị bắt. Sư can ngăn Thạch Hổ:
– Đã là con của bệ hạ sao lại gia hình phạt nặng như thế? Nếu bệ hạ nén lòng giận, trải lòng từ, thì có thể sống đến 60 tuổi. Nếu bệ hạ giết, thì Thạch Nghi sẽ làm sao chổi quét sạch Nghiệp cung[38] này.
Thạch Hổ không nghe, dùng móc sắt xỏ cằm Thạch Nghi kéo đến để trên đống củi và đốt, lại còn bắt hơn ba trăm thuộc hạ của Thạch Nghi cột vào xe, kéo khắp nơi, phanh thây ném xuống sông Chương. Sư liền bảo các đệ tử rời khỏi thất riêng.
Hơn một tháng sau, có một con ngựa xuất hiện, bờm và đuôi đều có vết cháy. Nó chạy vào cửa Trung Dương và ra cửa Hiển Dương, rồi quay đầu về đông chạy vào đông cung, nhưng đều không vào được. Nó lại chạy về phía đông bắc, trong chốc lát không thấy nữa. Nghe kể, sư liền than:
– Tai họa sắp đến rồi!
Đến tháng mười một, Thạch Hổ thết đãi quần thần ở điện Đại Vũ. Sư ngâm rằng:
– Điện! Điện! Cây gai thành rừng, làm rách áo người!
Thạch Hổ liền cho người đào đá dưới điện xem xét, quả có cây gai mọc ở đó.
Sư trở về chùa, nhìn tượng Phật nói:
– Thật buồn, không được trang nghiêm!
Rồi tự nói một mình:
– Được ba năm ư?
Và tự đáp:
– Không được! Không được!
Sư lại nói:
– Được hai năm, một năm, một trăm ngày, một tháng ư?
Và tự đáp:
– Không được!
Rồi sư im lặng trở về phòng, bảo đệ tử Pháp Tộ:
– Năm Mậu Thân tai họa bắt đầu manh nha, năm Kỉ Dậu họ Thạch sẽ bị tiêu diệt. Nhân lúc giặc chưa nổi loạn, ta thị tịch trước vậy!
Sau đó, sư sai người đến từ biệt Thạch Hổ rằng: “Tất cả sự vật theo lẽ hẳn dời đổi, thân mạng khó bảo toàn. Thân gánh vác đạo pháp này đã đến lúc phải ra đi. Đã mang ân sâu nặng, nên kính cẩn tâu với đại vương vậy!”
Thạch Hổ buồn bã nói:
– Không nghe hòa thượng bị bệnh, sao nay bỗng nhiên Ngài bảo sẽ thị tịch?
Ông liền đích thân đến chùa thăm hỏi. Sư nói với Thạch Hổ:
– Đến đi, sống chết đó là lẽ thường, mạng sống dài ngắn phân định rõ ràng không thể kéo dài thêm. Phàm, đạo trọng ở chỗ hạnh vẹn toàn, đức quí ở chỗ tâm không giải đãi. Nếu giữ gìn giới đức không khiếm khuyết, dù chết đi nhưng vẫn không mất. Còn như ngược lại, thì dù được kéo dài thêm mạng sống tôi cũng không muốn. Nay tôi có điều muốn nói: Đó là nên vì quốc gia để tâm vào Phật lý, tuân phụng giáo pháp, không tâm tham tiếc, xây dựng chùa miếu cao rộng trang nghiêm, với phúc đức đó, phải hưởng được phúc lạc. Nhưng, đường lối cai trị hà khắc, hình phạt tàn bạo, bên ngoài trái với thánh điển, bên trong trái với giới pháp. Nếu không xem xét điều sai trái để sửa đổi thì hoàn toàn không có phúc đức. Nếu biết điều phục tâm ý, thay đổi suy nghĩ, ban ân đức cho muôn dân thì vận nước sẽ kéo dài, đạo tục đều được lợi lạc, dù tôi có mất đi cũng không hối tiếc.
Thạch Hổ khóc lóc ngẹn ngào, biết chắc ngài sẽ thị tịch. Ông liền cho xây một ngôi mộ tháp lớn. Đến mùng 8 tháng 12, sư thị tịch ở chùa Nghiệp Cung, nhằm năm thứ tư niên hiệu Vĩnh Hòa (345 357) đời Tấn Mục Đế. Quan dân buồn thương gào khóc chấn động cả đất nước. Sư thọ thế 117 tuổi, nhập tháp ở ngoại thành, phía tây sông Chương, tức là nơi Thạch Hổ đã xây cất.
Không bao lâu, Lương Độc nổi loạn, qua năm sau Thạch Hổ mất. Nhiễm Mẫn soán ngôi, tiêu diệt toàn bộ họ Thạch. Mẫn lúc nhỏ tự là Cức Nô, đúng như lời sư tiên đoán ngày trước “Cức mọc thành rừng”.
Bên ngực trái của sư có một lỗ hổng rộng khoảng bốn, năm tấc thông xuống bụng. Sư lấy bông bít lại, ban đêm muốn đọc sách, rút bông ra thì ánh sáng rực chiếu khắp phòng. Vào ngày trai, sư đến bến sông lấy ruột ra, rửa xong lại nhét vào bụng.
Sư cao tám thước[39], thân hình đoan nghiêm, tinh thông kinh điển, ngoài ra còn am tường các thuyết thế gian. Lúc sư giảng đều nêu cao tông chỉ, khiến cho văn từ trước đến sau đều rõ ràng dể hiểu, lại trải tâm từ thấm nhuần quần sanh, thường cứu giúp những nguy khổ.
Đương thời, hai vua họ Thạch hung ác bạo ngược vô đạo. Nếu không có sư thì ai có thể khuyên can đây? Nhưng hàng ngày trăm họ được lợi ích mà không biết vậy. Trúc Phật điều, Tu bồ đề v.v.. mấy mươi danh tăng từ Thiên Trúc, Khương Cư, không ngại đường xa vạn dặm, lặn lội qua sa mạc đến sư xin thọ học. Thích Đạo An ở Phiền Miện, Trúc Pháp Nhã ở Trung Sơn, vượt qua bao núi sông hiểm trở đến nghe sư thuyết giảng, họ đều thông đạt yếu chỉ sâu xa. Sư kể rằng:
– Quê ta ở cách Kiến Nghiệp hơn chín vạn dặm, bỏ tục vào đạo một trăm lẻ chín năm, rượu không thấm môi, quá ngọ không ăn, việc trái giới không làm, không tham, không cầu. Đệ tử thân cận thường có mấy trăm, tổng cộng môn đồ khoảng một vạn, lập tám trăm chín mươi ba ngôi chùa ở các châu, quận mà ta đã đến. Việc hoằng pháp hưng thịnh trước nay chưa từng có.
Lúc trước, khi Thạch Hổ liệm sư, có lấy bình bát và tích trượng của sư lúc sinh tiền bỏ vào quan tài. Nhưng sau, Nhiễm Mẫn soán ngôi, sai người mở ra thì chỉ còn lại bình bát và tích tượng, không thấy thi hài của sư.
Có người nói:
– Sư mất được một tháng, có người thấy sư ở sa mạc.
Thạch Hổ nghi ngờ sư còn sống, liền cho người quật mộ, mở quan tài ra xem, chỉ thấy một hòn đá. Thạch Hổ nói:
– Thạch là trẫm vậy! Sư chôn ta rồi ra đi!
Không lâu sau, Thạch Hổ mất.
Mộ Dung Tuấn đống đô tại Kiến Nghiệp ở trong cung điện của Thạch Hổ. Một hôm, mộng thấy cọp (Hổ) cắn cánh tay mình, ý bảo Thạch Hổ quấy phá. Mộ Dung liền cho người tìm mộ của Thạch Hổ, đến Đông Minh Quán quật mộ lên, thấy thi thể Thạch Hổ vẫn còn nguyên vẹn, Dung Tuấn đạp chân lên thi thể Thạch Hổ, mắng rằng:
– Đã chết rồi sao còn dám dọa thiên tử đang sống? Ông xây xong cung điện, nhưng lại bị con ông mưu đoạt, huống gì là người khác!
Mắng rồi, ông ta dùng roi đánh và ném thây Thạch Hổ xuống sông Chương. Thi thể Thạch Hổ vướng chặt vào chân cầu. Tướng nhà Tần tên Vương Mãnh trông thấy liền vớt lên chôn cất. Đúng như lời Ma Nhu đã nói “nhất trụ điện” vậy.
Về sau, Phù Kiên chinh phạt Kiến Nghiệp, con Dung Tuấn là Vĩ bị đại tướng của Phù Kiên là Quách Thần Hổ bắt. Nghiệm lại thật đúng điềm mộng Mộ Dung Tuấn thấy cọp lúc trước.