Home > Nhân Qủa Nghiệp Báo
Ngài Bát Lật Mật Đế (Pramiti, Dịch Là Cực Lượng)
| Thượng Tọa Thích Hằng Đạt, Việt Dịch


Ngài là người trung Thiên Trúc, có hoài bão tùy duyên tế sanh độ vật, nên du hóa khắp nơi, rồi từ từ sang Chi Na, đến Quảng Châu trụ tại chùa Chế Chỉ. Nơi đó, vào ngày hai mươi ba tháng năm niên hiệu Thần Long nguyên niên (705) đời Đường Trung Tông, thể theo lời cầu thỉnh của đại chúng, Ngài rút ra từ bộ Quán Đảnh, mà dịch ra thành một phẩm, được một bộ mười quyển, gọi là Đại Phật Đảnh Như Lai Mật Nhân, Tu Chứng Liễu Nghĩa, Chư Bồ Tát Vạn Hạnh, Thủ Lăng Nghiêm Kinh. Tương truyền, xưa kia Ngài đã từng mang bộ kinh này ra khỏi nước nhưng bị quan quân bắt giữ vì quốc vương Thiên Trúc tôn trọng bộ kinh đó như quốc bảo. Do đó, Ngài phải cuộn quyển kinh vào vải lụa, rồi cắt bắp tay và nhét bộ kinh đó vào để tránh sự bắt bớ của quan quân. Sau khi Ngài đem kinh sang Trung Thổ, phu nhân của thừa tướng Phòng Dung chế loại thuốc rửa cuộn vải chứa kinh. Kế đến, Ngài tùng sự phiên dịch. Sa môn Di Già Thích Ca (người nước Ô Trường) chuyển Ngữ. Bồ tát giới đệ tử Tiền Chánh Nghị đại phu đồng trung thư, môn hạ bình chương Thanh Hà Phòng Dung ghi chép. Sa môn Hoài Địch ở chùa Nam Lâu, núi Phù Sơn, tại Tuần Châu, kiểm chứng văn phiên dịch. Quốc vương ở trung Thiên Trúc, nghe tin ngài Bát Lạt Mật Đế dịch bộ kinh này tại Trung Thổ, nổi giận (vì bộ kinh này được xem là quốc bảo) lôi đình, sai người truy tìm. Ngài bèn mang nguyên bản chữ Phạn trở về bổn quốc, vì chúng sanh mà chịu tội với triều đình.