Ngài vốn là người Tây Vực, thuộc nước Quy Từ. Tên tục của Ngài là Bạch, thiếu niên xuất gia, tánh hiền hòa thuần chơn mà hiếu học; tụng đọc kinh thư đến trăm vạn lời; đối với văn nghĩa đều thâm hiểu liễu giải lẹ làng. Lúc chưa qua Trung Thổ, tuy chưa từng đọc qua các Nho sử cùng những kinh thư điển tích, mà khi biện luận với các học giả, đều hợp với ý chỉ. Đối với sự học vấn Ngài từng bảo:
- Ta đã từng hai lần qua nước Kế Tân để thọ giáo với các danh sư, nên hiện tại mới có được năng lực như vầy.
Người Tây Vực đồng xưng tán rằng Ngài đã đắc đạo.
Đời Tấn Hoài Đế, niên hiệu Vĩnh Gia thứ tư (310), Ngài đến Lạc Dương. Ngài có chí nguyện hoằng dương Phật pháp, lại có thần thông, cùng có khả năng sai khiến quỷ thần; xoa mỡ trong lòng bàn tay liền thấy những chuyện cách ngoài ngàn dặm; dự đoán được những việc trong tương lai; nghe tiếng cái linh kêu liền biết việc gì sẽ xảy ra; không gì mà chẳng linh ứng. Bổn ý muốn kiến lập chùa chiền, mà gặp lúc Lưu Diệu đang hưng binh tại Trung Nguyên, khiến kinh sư náo loạn, nên Ngài tạm đình chỉ ý muốn kia, mà ẩn thân nơi miền quê hoang dã, để quán xem thời cuộc chuyển biến, hầu mong tìm cơ hội hưng long Phật pháp.
(Bàn về lịch sử, sau đời Hán và đời Ngụy các dị dân ở phương bắc đã thần phục triều đình nước Tàu. Nhưng đến đời Đông Hán, họ lập ra nước Hung Nô, do Lưu Uyên làm hoàng đế. Lưu Uyên mất (310), con là Lưu Thông lên ngôi, rồi dẫn quân công phá thành Lạc Dương vào đời Tấn Hoài Đế (311). Khi đó, em của Lưu Thông là Lưu Diệu cùng với Vương Di công phá được thành Lạc Dương, bắt giết Tấn Hoài Đế, rồi lại đem quân công phá thành Trường An, giết Tấn Mân Đế (316), khiến cho nhà Tấn phải diệt vong. Lưu Thông mất, trong nước có loạn, nên chia làm Tiền Triệu và Hậu Triệu. Sau này, Thạch Lặc ở nước Hậu Triệu giết Lưu Diệu cùng Vương Nhi của Tiền Triệu, và hàng phục được các Hồ tộc như Khương Nhung, rồi tự xưng là Thiên Vương.
Lang Nha Vương Duệ là con cháu của Tư Mã Ý, sang dựng nghiệp ở phía nam tại Kiến Nghiệp (Nam Kinh), lập ra nhà Đông Tấn, tự xưng là Tấn Nguyên Đế.
Đại quân của Thạch Lặc ở Tân Sát, tỉnh Hà Nam, thường giết vô số dân lành để thị oai. Sa môn của Phật giáo cũng bị bức hại không ít. Chứng kiến cảnh trạng này, ngài Phật Đồ Trừng khởi lòng từ bi trắc uẩn, thương xót cho quần sanh thống khổ. Ngài định dùng Phật pháp để cảm hóa Thạch Lặc, nên trước tiên đến doanh trại của Quách Hắc Lược (đại tướng của Thạch Lặc), thuyết phục và khiến hắn phải quy y Tam Bảo cùng thọ năm giới. Từ đó, mỗi lần quân Thạch Lặc xuất trận, Quách Hắc Lược đều dự biết việc thắng bại. Việc này khiến cho Thạch Lặc nghi ngờ, hỏi:
- Ta không nghĩ rằng ngươi có tài năng mưu lược xuất chúng, mà mỗi lần sắp xuất binh, lại biết việc may rủi. Thế thì vì lý do gì?
Quách Hắc Lược thưa:
- Thiên binh của Tướng Quân nay có thần linh hộ trợ. Sa môn nọ pháp thuật cơ trí phi thường. Ngài thường bảo rằng Tướng Quân sẽ thống trị Trung Nguyên, và chính Ngài sẽ là quốc sư. Những việc quân cơ may rủi, thắng bại mà thần biết trước, đều nhờ sự mách bảo của vị sa môn đó.
Nghe như thế, Thạch Lặc mừng rỡ, bảo:
- Trời ban cơ duyên lành!
Nói xong, ông bèn ra lịnh thỉnh mời ngài Phật Đồ Trừng đến, hỏi han những việc linh ứng của Phật pháp, cùng yêu cầu được xem pháp thuật hiển bày. Biết rõ Thạch Lặc chẳng hiểu gì về nghĩa lý thâm diệu của Phật pháp, nên Ngài chỉ dùng pháp thuật để hiển minh Phật đạo thâm cao. Ngài bảo:
- Đạo tuy cao xa thâm sâu khó hiểu, nhưng có thể lấy những việc gần nhất để chứng minh.
Nói xong, Ngài yêu cầu mang ra một bồn nước, rồi dâng hương niệm chú. Một hồi sau, từ trong bồn xuất hiện một đóa hoa sen xanh, tỏa sáng màu sắc dị thường. Xem thấy điều này, Thạch Lặc bèn tín phục. Lợi dụng cơ hội đó, Ngài răn nhắc Thạch Lặc:
- Phận làm vua nếu lấy đức mà ban bố cho thiên hạ, thì sẽ có bốn linh quái như lân, phượng, quy, long xuất hiện, để biểu thị điềm lành. Nếu chánh trị có lắm điều tệ hại, và chánh đạo suy vi, thì sao chổi sẽ xuất hiện, việc xấu sẽ phát khởi, tức biểu thị những điềm chẳng lành. Những điềm linh dị đó, đều ứng với nền chánh trị hiền lương hay bạo ngược. Xưa nay, điều này thường xảy ra, và các bậc cao nhân hiểu rõ thiên lý đều răn nhắc.
Nghe những lời răn nhắc này, Thạch Lặc liền thọ nhận tín phục. Từ đó, trong nước hễ mười người sắp bị giết thì có chín người được tha, và dân chúng thấm nhuần ân trạch của Phật pháp. Do Thạch Lặc y cứ theo lời khuyên nhắc của Ngài để thi hành chánh trị, nên tại Trung Nguyên, Hồ tộc cùng Hán tộc đại đa số đều tín phụng Phật pháp. Từ đó, Ngài tận lực làm cố vấn cho Thạch Lặc về quân sự chính trị, cùng dự tri tiên đoán những việc may rủi. Thế nên, đối với thần lực dị kỳ của Ngài, Thạch Lặc rất cung kính kinh sợ, nên thường xưng Ngài là Đại Hòa Thượng.
Lần nọ, Thạch Lặc từ Cát Pha trở về Hà Bắc, đi qua Phương Đầu. Đến tối hôm đó, có người định đánh úp doanh trại. Dự biết việc này, Ngài gọi Quách Hắc Lược, bảo:
- Sẽ có kẻ đến trộm lấy long bào. Xin hãy báo cho Thạch Lặc để sớm phòng bị.
Đến tối, quả nhiên có sự việc xảy ra như Ngài tiên đoán. Tuy nhiên, nhờ phòng bị cẩn mật, nên Thạch Lặc thoát chết. Vào một đêm nọ, vì muốn thử thần thông của Ngài, Thạch Lặc bèn mang y giáp, cầm đao mà ngồi, rồi phái người qua thưa với Ngài:
- Trời tối, Thạch tướng quân không biết phải làm gì!
Viên quan do Thạch Lặc phái đi, vừa đến nơi, chưa kịp nói năng gì Ngài đã bảo:
- Mọi việc đều an lành, lại không có tặc khấu đến, mà tại sao Thạch Lặc lại võ trang chuẩn bị nghinh chiến?
Từ đó, Thạch Lặc lại càng thêm cung kính Ngài.
Lần khác, Thạch Lặc đột nhiên tức giận tăng chúng, nên khởi tâm muốn giết hại, lại định bắt tội Ngài. Dự tri biết ý đồ này, nên tại nhà Quách Hắc Lược, Ngài bảo đồ chúng:
- Nếu Thạch Lặc phái người đến tìm Ta, thì hãy đáp rằng không biết Ta đã đi đâu!
Chẳng bao lâu, người do Thạch Lặc phái đến, tìm không thấy Ngài tại nhà Quách Hắc Lược, nên trở về bẩm tấu. Thạch Lặc hoảng sợ, thốt:
- Vì Ta có ác niệm với Thánh Nhân, nên Ngài đã bỏ đi!
Vì vậy, Thạch Lặc mãi trằn trọc suốt thâu đêm, chỉ ước muốn gặp lại Ngài. Biết Thạch Lặc đã hồi tâm, sáng hôm sau Ngài đến gặp. Vừa thấy Ngài, Thạch Lặc vui mừng hỏi:
- Đêm qua Ngài đi đâu vậy?
Ngài bảo:
- Vì hôm qua Đại Vương nổi giận lôi đình, nên lão tăng tạm thời lánh mặt. Bây giờ, Đại Vương đã hồi tâm, nên lão tăng trở lại đây tương kiến.
Nghe lời này, Thạch Lặc không những thán phục mà còn vui mừng bất tận.
Lần nọ, nguồn nước dẫn từ phía tây bắc của hào thành Tương Quốc dài khoảng năm dặm đột nhiên bị khô cạn. Thạch Lặc hỏi Ngài rằng có thể khiến cho mạch nước chảy lại được không, Ngài đáp:
- Chỉ việc triệu rồng đến thì giải quyết xong?
Vì tên tự của Thạch Lặc là 'Long' (tức rồng), nên tưởng là Ngài nói đùa, ông bảo:
- Tại vì rồng không thể khai mạch nước, nên mới cầu thỉnh Ngài!
Ngài nói:
- Ta nói lời chân thật, chẳng phải đùa giỡn. Đầu nguồn mạch nước, có một con rồng ẩn cư. Chỉ việc triệu thỉnh nó ra, thì mạch nước sẽ chảy tràn đầy.
Nói xong, Ngài dẫn đồ đệ đến đầu mạch nguồn suối. Nơi đó, nước khô cạn đã lâu, lại có vết của các bánh xe qua lại in rõ ràng. Các đệ tử e sợ không thể khai thông mạch nước. Tuy nhiên, Ngài duyệt ý định thần, ngồi ngay ngắn trên một gốc cây, dâng hương khấn nguyện, tụng niệm thần chú. Cứ như thế trải qua ba ngày, nơi nguồn suối khô cạn đột nhiên nước vụt chảy ào ào. Một con rồng nhỏ, dài khoảng năm thước, theo mạch nước mà bò ra. Vừa thấy rồng thì đồ chúng của Ngài lại tranh nhau xem. Ngài bảo:
- Rồng có khí độc, chớ đến gần nó!
Chẳng bao lâu thành hào Tuơng Quốc có nước chảy tràn đầy. Ngồi một mình nơi đó, Ngài lại bảo:
- Hai ngày sau, sẽ có một kẻ nô bộc làm rúng động trời đất đến nơi đây.
Nguyên vì Tiết Hợp, người Tương Quốc, có hai đứa con rất kiêu căng ngạo mạn. Lần nọ, chúng lừa gạt trêu chọc một người nô bộc thuộc bộ tộc Tiên Ti, nên gã sanh tâm phẫn uất, khởi ác niệm, bèn bất cẩn giết đứa con nhỏ, rồi lại bắt nhốt đứa con lớn trong phòng. Những người hầu định chạy vào cứu thì gã vung đao, và hâm dọa rằng nếu có ai đến gần thì sẽ giết đứa con đó. Gã lại nói:
- Hãy đưa Ta trở về bổn quốc, bằng không thì Ta sẽ chết với thằng nhỏ này tại nơi đây.
Dân chúng trong và ngoài thành đều kinh hoàng sửng sốt, nên chạy đến xem coi, bao quanh nhà của Tiết Hợp. Thạch Lặc cũng tự thân đến đó, bảo:
- Hãy thả đức bé đó ra. Nếu quốc pháp đã khai, thì sẽ mang họa đến. Ta khuyên ông suy xét tường tận. Luật pháp quốc gia không thể thay đổi!
Ngay sau đó, Tiết Hợp sai người bắt gã nô bộc. Gã nô bộc tức giận và lập tức giết con của Tiết Hợp rồi tự để bị trói. Vì phẫn nộ việc này, thủ lãnh bộ tộc Tiên Ti là Đoạn Ba cầm quân đánh Thạch Lặc. Thanh thế quân binh của Đoạn Ba rất mạnh mẽ, khiến cho Thạch Lặc rất lo âu sợ sệt, nên phải cầu Ngài tìm kế đối địch. Ngài bảo:
- Hôm qua cái linh trong chùa chợt kêu lên tiếng rằng sáng sớm ngày mai, Đoạn Ba sẽ bị bắt.
Thạch Lặc lên thành xem xét quân tình, thấy quân của Đoạn Ba hàng hàng lớp lớp vây kín ngoài thành, nên kinh hoàng thất sắc bảo:
- Quân địch đông đúc khiến trời đất chấn động, như vầy thì làm sao bắt được Đoạn Ba? Ngài Phật Đồ Trừng chắc chỉ an ủi Ta thôi!
Trong tâm bất an, nên Thạch Lặc lại phái người đến hỏi Ngài về binh tình. Ngài bảo:
- Chớ có hoài nghi, Đoạn Ba đã bị bắt rồi!
Nhân vì có một đội quân của Thạch Lặc lẻn ra ngoài thành phục kích. Gặp Lúc Đoạn Ba đang đi tới, nên họ bắt được ông ta.
Bắt được tướng địch, Ngài lại khuyên Thạch Lặc hãy thả Đoạn Ba trở về bổn quốc. Thạch Lặc nghe theo lời dạy của Ngài, nên sau này được lợi lạc.
Đương thời, Lưu Thông vừa mất, người em là Lưu Diệu lên kế vị, đổi quốc hiệu là Tiền Triệu, niên hiệu Kiến Nguyên Quang Sơ. Niên hiệu Quang Sơ thứ tám, Lưu Diệu phái em mình là trung sơn vương Lưu Nhạc thống lãnh đại binh sang đánh Thạch Lặc. Thạch Lặc bèn phái Thạch Hổ mang quân ra chống cự. Sau khi hai bên đánh nhau tại phía tây thành Lạc Dương, Lưu Nhạc vì thua bại phải thối lui về thung lũng Thạch Lương, rồi cho quân kiên thủ phòng bị. Công phá không nổi, Thạch Hổ bèn kéo quân ra vùng phụ cận, cắm lều kiên quyết chờ Lưu Nhạc. Hai bên cứ đánh nhau mãi mà không phân thắng bại.
Ngày nọ, cùng với các đệ tử vừa bước vào cửa chùa Tự Quan, Ngài bèn thốt lời:
- Thương thay cho Lưu Nhạc!
Đồ chúng không hiểu gì, nên hỏi han. Ngài bảo:
- Giờ hợi ngày hôm qua, Lưu Nhạc đã bị bắt rồi.
Chốc lát sau, tin chiến trận truyền về, quả nhiên như lời của Ngài tiên đoán; Lưu Nhạc đã bị bắt.
Niên hiệu Quang Sơ thứ mười một, Lưu Diệu tự thân dẫn đại binh công phá thành Lạc Dương. Thạch Lặc định thân chinh đem binh ra chống cự, nhưng triều thần đều khuyên rằng không cần phải mạo hiểm. Thạch Lặc bèn đến hỏi Ngài phải nên làm gì. Ngài bảo:
- 'Tú chi thế lệ võng, bộc cốc cù ngốc đương' là ngôn ngữ của Yết tộc, cũng có nghĩa là xuất binh thì bắt được Lưu Diệu.
Bấy giờ, quan quân nghe thế, tin lời tiên đoán của Ngài, nên lại thỉnh Thạch Lặc thân chinh thống lãnh đại quân. Thạch Lặc bèn giữ Thạch Hoằng lại để trấn thủ thành Tương Quốc, rồi tự thống suất đại binh đến Lạc Dương. Đang lúc hai bên giao chiến, quân của Lưu Diệu bỗng nhiên bị tán loạn. Ngựa của Lưu Diệu cũng té xuống nước. Thừa dịp, Thạch Kham cho quân vây bắt được Lưu Diệu, rồi dẫn về gặp Thạch Lặc. Đương thời, trong thành Ngài lấy dầu xoa bàn tay, rồi trong đó hiện ra trong quân binh náo loạn, có một người nọ bị trói tay. Ngài bèn bảo Thạch Hoằng rằng người đó chính là Lưu Diệu.
Bình định Lưu Diệu xong, Thạch Lặc tự xưng là Triệu Thiên Vương, đổi niên hiệu là Kiến Bình, tức làm vua nước Hậu Triệu. Bấy giờ nhằm niên hiệu Hàm Hòa thứ năm, đời Đông Tấn Thành Đế (330).
Lần nọ, Thạch Thông có ý đồ phản loạn, mà Ngài biết rõ việc này, nên bảo Thạch Lặc:
- Năm nay trong cây hành có trùng, nên không thể ăn được. Xin Đại Vương hạ lệnh cấm dân chúng ăn hành.
Do đó, Thạch Lặc viết chiếu chỉ, cấm dân chúng không được ăn hành. Nhân vì 'thực thông' (tức là cây hành), vốn đồng âm với tên của Thạch Thông, nên nghe sắc lịnh đó Thạch Thông biết cơ mưu đã bại lộ. Vào tháng tám, vì sợ bị bắt tội, Thạch Thông lẫn trốn đi nơi khác. Thạch Lặc sau này biết rõ sự tình, nên càng thêm cung kính Ngài. Có hữu sự chi, Thạch Lặc đều bàn thảo với Ngài rồi mới thi hành.
Thạch Bân vốn là con của Thạch Hổ, được Thạch Lặc thương mến vô cùng. Lần nọ, Thạch Bân bị nóng sốt rồi qua đời. Thạch Lặc đau xót bảo:
- Ta đã từng nghe rằng xưa kia thái tử của nước Quách Quốc chết, Thiên Thước cứu sống trở lại. Đại Hòa Thượng là thần nhân trong nước. Hãy thưa với Ngài việc này. Nhất định Ngài sẽ chuyển họa thành phước.
Do đó, Thạch Lặc cho người thỉnh Ngài đến. Ngài dùng cành cây dương chi phất trên đầu Thạch Bân, và tụng niệm thần chú. Chốc lát sau, Thạch Bân sống trở lại, rồi từ từ khỏe mạnh như thường. Từ đó, Thạch Bân thường ở suốt trong chùa. Mỗi năm đến mồng tám tháng tư, tức ngày Phật đản, Thạch Lặc tự thân đến chùa dự lễ tắm Phật để cầu phước.
Niên hiệu Kiến Bình thứ tư (333), vào tháng tư, trời trong mây tạnh, chẳng có ngọn gió nào, mà cái linh trên tháp, chợt khua vang tiếng não nề. Ngài bảo đại chúng:
- Linh bảo rằng trong nước có đại tang. E rằng năm nay sẽ phát sanh.
Năm đó, vào tháng bảy, Thạch Lặc mất, Thạch Hoằng kế vị. Chẳng bao lâu, Thạch Hổ lại truất phế Thạch Hoằng mà tự lên ngôi, rồi dời đô từ Tương Quốc về Nghiệp Đô (tức huyện Lâm Chương, tỉnh Hà Nam), đổi niên hiệu là Kiến Võ. Thạch Hổ lại càng tận tâm tận ý tín phụng Ngài hơn Thạch Lặc, nên ban sắc lịnh:
- Đại Hòa Thượng là đại quốc bảo của triều đình. Ngài không hề lãnh thọ phẩm lộc vinh hoa. Từ nay, phải kết lụa kim tuyến làm y, trang hoàng hoa kiệu làm xe. Ngày hội triều, lúc Đại Hòa Thượng thăng cung điện, các quan viên hầu cận đều phải đỡ kiệu, và thái tử cùng chư công hầu cũng phải đưa Ngài lên cung điện. Lúc Ngài vào triều nộI, tất cả bá quan đều phải đứng dậy nghinh tiếp và xưng 'Đại Hòa Thượng' đến để biểu thị oai đức cao quý tôn vinh của Ngài.
Thạch Hổ lại sai Ty Không Quý Nông, sớm tối đến chùa vấn an Ngài. Thái tử cùng chư công hầu cách năm ngày là đến bái kiến Ngài, để biểu thị lòng tôn kính cao tột.
Ngày nọ, lúc cư trú tại chùa trong thành Nghiệp Đô, Ngài phái đệ tử là Pháp Thường sang Tương Quốc để gọi một đệ tử khác là Pháp Tả trở về. Trên đường đi, Pháp Thường gặp Pháp Tả tại thành Lương Cơ, nên cùng trú qua đêm một nơi. Đến tối, họ cùng nhau đàm luận về những việc dị thường của Ngài. Sáng hôm sau, cả hai chia tay. Pháp Tả về tới Nghiệp Đô. Ngài cười bảo:
- Đêm hôm qua, ngươi cùng Pháp Thường bàn luận về việc của Ta phải không? Cổ nhân nói rằng chớ vì không gặp nhau mà chẳng sanh tâm cung kính. Chớ vì sống đơn độc một mình mà sanh tâm giải đãi nơi giới luật.
Nghe qua lời này, Pháp Tả kinh sợ kính phục mà sám hối. Do đó, dân chúng thường thường răn nhắc với nhau:
- Chớ khởi tâm ác! Không sợ Đại Hòa Thượng biết sao!
Thái tử Thạch Thúy có hai đứa con tại Tương Quốc. Ngài từng bảo Thạch Thúy:
- Con của Thái Tử sắp bị bịnh nặng. Hãy mau qua đó mà lo lắng chăm sóc.
Thạch Thúy phái người đến thăm, thì quả nhiên như lời Ngài bảo; một đứa con của ông ta đang bị bịnh nặng, nằm liệt giường. Vì vậy, Thạch Thúy cho mời thái y Đoạn Thắng cùng các đạo sĩ ngoại quốc đến chẩn bịnh. Họ đều bảo rằng có thể cứu chữa căn bịnh cho con của Thạch Thúy. Ngài bảo với đệ tử là Pháp Nha:
- Ngay cả thánh nhân xuất thế, cũng không cứu được bịnh con của Thạch Thúy, hà huống là những người đó!
Ba ngày sau, quả nhiên con của Thạch Thúy qua đời. Thạch Thúy đam mê tửu sắc, lại định tạo phản, nhưng vẫn còn e dè thần thông của Ngài phát giác được sự tình, nên bảo tướng hầu cận Hắc Vũ:
- Hòa thượng có thần thông quảng đại. E rằng Hòa Thượng phát giác việc của Ta. Vậy, ngày mai khi Hòa Thượng đến, ngươi hãy trừ khử cho Ta.
Rằm mỗi tháng, Ngài thường đến thăm Thạch Hổ. Lần đó, trước khi đi, Ngài bảo Tăng Huệ:
- Đêm qua thần mách bảo Ta rằng ngày mai nếu có thượng trào, thì quyết chớ đi thăm viếng người nào! Trước khi Ta muốn đi, ngươi hãy nhắc nhở, chớ đi qua nơi khác!
Mỗi lần Ngài vào triều xong, nhất định phải qua gặp Thạch Thúy. Thấy Ngài đã vào triều, Thạch Thúy bèn cầu thỉnh Ngài qua đông cung. Nhớ lời dặn dò vừa rồi, Tăng Huệ lập tức kéo y của Ngài để làm hiệu. Ngài bảo:
- Không còn biện pháp nào. Không thể chẳng đi!
Qua đến đông cung, vừa ngồi xuống thì Ngài bèn cáo từ. Thạch Thúy kiên quyết lưu giữ lại, nhưng Ngài chẳng khứng chịu, nên âm mưu ám sát không thành. Trở về chùa, Ngài than vãn:
- Dáng dấp phản loạn của Thái Tử đã hình thành. Ta muốn nói mà thật khó nói; muốn nhẫn mà thật khó nhẫn!
Bấy giờ, Ngài chỉ dùng ẩn ngữ để răn nhắc Thạch Hổ. Tuy nhiên, Thạch Hổ chẳng hiểu chút nào. Đến khi âm mưu tạo phản của Thái Tử bộc phát, thì Thạch Hổ mới hiểu dụng ý về những ẩn ngữ răn nhắc của Ngài.
Sau này, Quách Hắc Lược dẫn quân đi chinh phạt Khương tộc ở Bắc Sơn, Trường An. Giữa đường bị người Khương phục kích. Đương thời, Ngài đang ngồi tại chánh điện, có đệ tử là Pháp Thường đứng hầu. Ngài chợt biến sắc mặt bảo:
- Quách Hắc Lược hiện nay đang lâm nạn.
Nói xong, Ngài bảo chúng tăng tụng kinh chú nguyện. Chẳng bao lâu Ngài tự bảo:
- Chỉ việc qua hướng đông nam thì mới có thể thoát nạn. Đi nơi khác đều sẽ bị nguy khốn.
Nói xong, rồi lại chú nguyện tiếp tục. Chốc lát sau, Ngài bảo:
- Đã thoát nạn rồi!
Vài tháng sau, Quách Hắc Lược ban sư hồi kinh, và trần thuật lại việc bị lâm nạn nơi quân của Khương tộc. Ông ta hướng về phía đông nam chạy lánh nạn. Tuy nhiên, con ngựa đã kiệt sức, nên tưởng chắc sẽ bị bắt. May sao, dưới trướng có một người nọ, đem một con ngựa đến cho, bảo:
- Hãy đổi ngựa của tướng quân cho Ta. Thoát được vòng vây hay không, chỉ do thiên mạng.
Nhờ cỡi con ngựa đó mà Quách Hắc Lược chạy thoát vòng vây. Tính ra ngày tháng, thì hôm đó chính là lúc Ngài đang chú nguyện.
Biết tánh khí thô bạo của Thạch Hổ, Ngài thường dùng lý luận Phật giáo và năng lực thần dị dựa trên tinh thần từ bi, để răn nhắc ông ta hành sự.
Hai đại thần của Thạch Hổ là Trương Ly và Trương Lang, vốn giàu sang quyền quý, tín phụng Phật pháp, kiến lập chùa chiền. Ngài bảo họ:
- Làm việc Phật sự phải có tâm từ bi, thanh tịnh, không tham lam. Đàn việt tuy tín phụng Phật pháp, mà tâm tham chưa dứt, mong muốn vô độ, chưa từng biết tự tiết chế, tích tụ tài sản không cùng tận, nên sẽ thọ tội trong hiện đời, thì sao hy vọng có được phước báo?
Tinh thần căn bổn quan trọng nhất khi làm Phật sự của người Phật tử là tâm phải từ bi, thanh tịnh, không tham cầu. Ngài răn nhắc Trương Ly và Trương Lang những lời này vì tuy họ có tín phụng cúng dường Tam Bảo, xây dựng chùa chiền, nhưng đều dựa trên tâm tham cầu vô độ, lo tích tụ tài sản không hạn lượng, lại thường giết hại chim chóc cầm thú. Vì vậy, tạo tội báo ngay trong hiện đời, thì dẫu cần cầu, làm sao phước lành đến được!
Sau này, Trương Ly và Trương Lang vì tự ý phóng túng, phạm đến quốc pháp, nên bị gia hình.
Con của Thạch Hổ là đại tư mã yến công Thạch Bân, nhậm chức tại U Châu Mục, thường chiêu tập những kẻ ác, làm bao việc phi nghĩa. Ngài bảo Thạch Hổ:
- Hôm qua, thiên thần bảo Ta rằng hãy mau dẫn con ngựa trở về, nếu không đến mùa thu sẽ sanh ra việc hư thối.
Thạch Hổ không hiểu ý của Ngài, chỉ ra lịnh bắt những con ngựa chạy rong, nhốt vào chuồng. Đến mùa thu, được người bẩm tấu hành động tàn ác của Thạch Bân, Thạch Hổ giận dữ, bèn triệu hắn về, rồi ra lịnh giết mẹ của Thạch Bân là Tề Thị, và đánh phạt Thạch Bân ba trăm roi. Đích thân Thạch Hổ giám sát hành phạt. Vì thấy bọn thủ hạ đánh phạt Thạch Bân quá nhẹ, nên Thạch Hổ ra lịnh giết cả năm trăm người. Thấy Thạch Hổ giết người quá lắm, Ngài khuyên:
- Tâm không thể quá phóng túng! Người chết rồi không thể sống lại! Theo lễ nghi quy định, Thiên Tử không thể tự tay giết người, vì sẽ tổn thương ân đức. Sao Đại Vương lại tự tay gia hình?
Nghe lời này, Thạch Hổ mới chịu dừng tay.
Về sau, quân Đông Tấn phản công, giao chiến ba mặt tại Trường An, Tân An, Lạc Dương. Quan quân gởi thơ cấp báo tình thế nguy kịch. Thạch Hổ tức giận bảo:
- Ta tín phụng Phật pháp, cúng dường tăng sĩ. Nay bị nạn ngoại xâm, Phật linh ứng gì đâu?
Ngày kế, Thạch Hổ đem việc này cật vấn Ngài. Ngài bảo:
- Tiền thế của Đại Vương vốn là một đại thương chủ, và đã từng đến nước Kế Tân hành cúng dường đại hội trai tăng. Đương thời, trong hội có sáu mươi vị A La Hán, mà Ta cũng trong số đó. Bấy giờ, một vị A La Hán bảo rằng vị chủ nhân này sau khi mạng chung, trước tiên sẽ thọ làm thân gà, rồi kế đến sanh làm vua tại Trung Thổ. Hiện tại, Đại Vương đã làm vua, vậy chẳng phải do phước báu sao? Nơi chiến trường, thắng thua là việc thường tình. Sao vì việc này mà oán giận Tam Bảo, hưng khởi ý niệm độc ác?
Nghe qua lời này, Thạch Hổ lãnh hội, nhận thấy lỗi lầm, nên quỳ xuống tạ tội sám hối. Thạch Hổ lại hỏi Ngài:
- Yếu chỉ căn bổn của Phật pháp là gì?
Ngài đáp:
- Phật giáo vốn không giết người!
- Con vốn làm vua thiên hạ. Nếu không dùng hình phạt thì chẳng có cách nào để hoàn thành trọng trách răn nhắc dân chúng trong nước. Con đã làm ngược lại giới cấm sát sanh mà giết người, rồi lại hành Phật sự. Như thế thì có gặt được phước báo quả lành không?
- Lúc Đại Vương làm việc Phật sự, phải dùng toàn thân tận ý cung kính, và dụng tâm tùy thuận giáo pháp, xiển dương Tam Bảo. Lại nữa, chẳng nên có hành vi bạo ngược, giết hại dân chúng vô tội. Đối với những kẻ hung bạo vô loại, tội ác đầy trời, nếu không thể dùng giáo pháp để khiến chúng hồi tâm hướng thiện, thì không thể chẳng gia hình. Phải hành phạt những kẻ nên hành phạt. Nếu Đại Vương tùy ý giết hại lương dân vô tội, thì phước báu do cúng dường Tam Bảo hay xây cất chùa chiền, không thể giải cứu hoạn nạn được. Vì vậy, hy vọng Đại Vương dùng tâm từ bi mà chăm lo cho dân chúng. Nếu được như thế, thì không những Phật pháp vĩnh viễn được hưng long, mà phước báu của Đại Vương cũng được lâu bền.
Tâm nguyện của Ngài là muốn dạy Thạch Hổ cùng các Phật tử phải ít muốn biết đủ, hưng khởi tinh thần từ bi. Tuy không hoàn toàn tuân theo hết những lời dạy của Ngài, nhưng Thạch Hổ cũng làm những việc thiện không ít, nên khiến dân chúng được phước lợi rất nhiều.
Năm nọ, trời đại hạn hán từ tháng giêng đến tháng sáu. Thạch Hổ sai thái tử đến khẩu Tây Phù ở Lâm Chương để cầu mưa, nhưng cầu mãi vẫn chưa được. Vì vậy, Thạch Hổ thỉnh nhờ Ngài cầu mưa. Chẳng bao lâu, trên nền trời xanh, hai con rồng trắng bay lượn chung quanh đàn cầu mưa, rồi trong khoảnh khắc mưa đổ xuống như thác. Nông dân trong vòng ngàn dặm, được trúng mùa vào năm đó. Những kẻ ngông cuồng vốn không tin Phật pháp, nghe đến việc thần kỳ của Ngài, đều phải lễ bái, và từ từ tiếp thọ giáo pháp.
Ngài thường sai một người đệ tử qua Tây Vực để mua hương. Sau khi vị đó đi cả mấy ngày, Ngài đột nhiên bảo đồ chúng:
- Ta thấy hắn sắp bị bọn cướp nơi kia gia hại.
Nói xong, Ngài dâng hương chú nguyện. Lúc trở về, người đệ tử kia thuật lại:
- Trên đường sang Tây Vực mua hương, con bị bọn cướp vây quanh định giết hại. Đột nhiên, có mùi hương lạ bay đến, khiến bọn cướp đều kinh hoàng la hoảng: "Cứu binh đến", rồi bỏ chạy, nên sanh mạng của con mới còn.
Trước khi quan quân của Thạch Hổ đến Lâm Chương sửa chữa lại một ngôi tháp cũ, Ngài bảo:
- Trong thành Lâm Chương có một ngọn tháp của vua A Dục. Dưới mặt đất vẫn còn có một cái mâm và một tượng Phật. Ở nơi đó, cây cối mọc rất um tùm. Hãy cho người đến đó đào lên.
Nói xong, Ngài vẽ địa đồ. Thạch Hổ bèn sai người y theo đó mà đào xới, thì thật tìm thấy được một cái mâm và một tượng Phật.
Lần nọ, biết Thạch Hổ muốn dẫn quân sang chinh phạt nước Yên, Ngài bèn khuyên:
- Vận thế của nước Yên chưa hết. Đại Vương dẫn quân đi chinh phạt, thì e rằng khó thành công.
Do không chịu nghe lời khuyên của Ngài, Thạch Lặc cứ ngang nhiên dẫn quân sang đánh nước Yên, nên bị đại bại, phải kéo quân về. Từ đó, Thạch Hổ lại càng tin tưởng những lời răn nhắc của Ngài.
Song song với công nghiệp kiến lập chùa chiền, giảng kinh thuyết pháp, giáo hóa dân chúng cùng họ Thạch, ngài Phật Đồ Trừng cũng từng độ chúng xuất gia. Người Tàu xuất gia đi sang Tây Vực cầu pháp đầu tiên vào đời Tam Quốc là Châu Sĩ Hành. Đương thời, người Tàu xuất gia rất ít. Đại đa số đều là chư tăng người Thiên Trúc, Tây Vực, Khương Cư, Quy Từ, Kế Tân, đến Trung Thổ hoằng dương Phật pháp hay phiên dịch kinh điển. Sự tín phụng Phật pháp, chỉ hạn cuộc nơi tín đồ Phật tử tại gia. Nhờ oai đức cảm hóa của ngài Phật Đồ Trừng, mà tín chúng Phật tử đua nhau cúng dường tài vật để xây dựng chùa chiền, và lại tranh nhau xuất gia, nên không tránh khỏi sự lạm dụng của một số tăng đồ.
Từ khi Hán Minh Đế thấy thần minh hiển hiện, bèn bắt đầu cho người sang Tây Vực cầu pháp, nhưng triều đình chưa chính thức cho phép người Tàu tín phụng Phật pháp; triều đình thường ban chiếu chỉ như sau: "Chỉ có người xứ Thiên Trúc và Tây Vực mới được phép lập tự viện nơi Đô Ấp, tín phụng Phật đà".
Xây dựng chùa chiền, cúng dường chư sa môn, làm việc Phật sự, chỉ hạn cuộc nơi người xứ Thiên Trúc và Tây Vực, và chỉ thừa nhận người xuất gia Tây Vực, chứ không cho phép người Tàu xuất gia. Đời Tào Ngụy cũng y chiếu theo chế độ như thế của đời Đông Hán.
Gốc vốn là người Hồ tộc ở phương bắc, có phong tục tập quán cùng thể chế khác với người Tàu, mà lúc tiến vào Trung Thổ, được lên ngôi cửu trùng, Thạch Hổ bèn ban sắc lịnh: "Phật là thần của nước ngoài, chẳng phải là vị thần mà các vua chúa ở Trung Thổ tín phụng. Ta vốn sanh trưởng tại biên thùy, nhưng vận thế may mắn, được làm vua nơi Trung Thổ. Bàn về việc tế tự, Ta có chủ quyền ở nơi đây, nên đối với những sự tế tự phải theo phong tục của bổn quốc (Hậu Triệu). Phật vốn là thần của Ta, nên dân chúng phải tín phụng. Do trên quốc vương thường hành, thì mới có thể trở thành quy chế vĩnh viễn. Nếu không có việc gì tổn hại, thì không cần phải câu nệ theo thể chế của các đời vua lúc trước, mà cấm chỉ người Tàu xuất gia. Người Di Địch, người Tàu, người Mán, nếu ai có nguyện ý xả tục mà xuất gia hành Phật sự, thì Ta đều chuẩn hứa cho họ làm người tu đạo".
Sắc lịnh này được ban ra để đối lại với biểu tấu của quan triều là Vương Độ. Ông ta đã từng dâng tấu (335) xin Thạch Hổ hãy cấm ngặt người Hậu Triều không được tín phụng lễ bái Phật đà; trừng phạt những ai vi phạm luật này, và bắt các sa môn người Tàu phải hoàn tục vì đức Phật chỉ là vị thần của nước ngoài, chứ không phải là vị thần mà các vua chúa tiền triều tín phụng.
Do sắc lịnh của Thặch Hổ ban ra, những ai muốn xuất gia tu đạo đều được chuẩn y. Niên hiệu Thái Ninh đời Đông Tấn (323 326), và niên hiệu Kiến Võ nhà Hậu Triệu của Thạch Hổ (335), triều đình chính thức cho phép người Tàu xuất gia. (Trước đó, sa môn người nước Triệu tuy có tiếng là xuất gia, nhưng vẫn thường ăn mặc giống như thường dân.) Quyển Kinh Tịch Chí thứ ba mươi lăm của sách đời Tùy, viết: "Trong những năm đầu Ngụy Hoàng, người Trung Thổ bắt đầu y theo giới pháp của Phật, xuống tóc làm tăng".
Xưa kia, người Tàu xuất gia, chỉ do tự cá nhân chứ chưa được triều đình chính thức cho phép, như Châu Sĩ Hành và Trúc Thâm (em của thừa tướng Vương Đôn, đời vua Tấn Thái Xương).
Ngày nọ, Ngài cùng đệ tử là Đạo An lên cung điện. Đang ngồi, Ngài chợt la lên:
- Biến biến U Châu! Chính có hỏa hoạn!
Nói xong, Ngài bèn bảo lấy rượu ra, rồi rắc rượu xuống đất như dạng cứu lửa. Lát sau, Ngài cuời bảo:
- Cứu lửa đã xong!
Thạch Hổ nhìn thấy việc này chẳng hiểu tự sự, nên phái người đến U Châu thẩm tra, và được bẩm báo:
- Ngày đó, hỏa hoạn xảy ra tại cửa phía tây, về hướng Tây nam của Điểu Vân Mật Dõng. Đương thời, tự nhiên mây kéo đến, rồi mưa rơi tầm tả, khiến lửa bị dập tắt, mà trong nước mưa có chút mùi rượu.
Tại Ngụy Huyện có một gã thường đi lang thang, không ai biết danh tánh, chỉ thường mặc vải bố, và xin ăn nơi chợ ở huyện thành, nên mọi người đều gọi là 'Ma Nhu'. Ngôn ngữ của gã rất lạ kỳ, mà hành sự như kẻ điên. Mỗi lần xin được cơm thì không chịu ăn, lại tán nhuyễn rồi để tại ngã tư đường, tự bảo rằng cho ngựa trời ăn. Thái thú Tạ Bạt ở Triệu Hưng, biết rõ hành vi của gã, nên bắt giam, rồi giao lại cho Thạch Hổ. Trước đó, Ngài đã dự tri việc này mà bảo Thạch Hổ:
- Cách nơi đây hai trăm dặm về phía đông, vào ngày nọ sẽ có một người chẳng đồng phàm nhân. Xin chớ hại người đó.
Vài ngày sau, Tạ Bạt cho quân đưa gã này đến. Lúc cùng với gã đó đối đáp, Thạch Hổ không thấy có lời gì kỳ đặc, trừ câu:
- Điện Hạ cuối cùng chỉ là một cột trụ dưới cung điện.
Nghe lời này, Thạch Hổ không hiểu gì cả, nên dẫn đến gặp Ngài. Vừa gặp mặt, Ngài cùng gã đó đàm luận suốt cả ngày đêm. Các đệ tử chẳng hiểu gì về nội dung của những lời luận bàn, chỉ cảm thấy như họ bàn luận về những việc cả mấy trăm năm về trước. Sau này, Thạch Hổ cho quân đưa gã đó trở về Ngụy Huyện. Xe vừa ra khỏi thành, gã đó bèn bước xuống mà đi bộ, và bảo rằng muốn đến thăm bạn hữu, rồi hẹn với quan quân sẽ gặp tại cầu Hợp Khẩu. Quan quân đánh xe ngựa chưa đến cầu Hợp Khẩu thì đã thấy gã đó đứng trên cầu.
Ngài có một người đệ tử là Đạo Tấn, uyên bác thông suốt ngoại điển nội thư, rất được Thạch Hổ kính trọng.
Niên hiệu Kiến Võ thứ mười bốn (348), con của Thạch Hổ là Thạch Tuyên và Thạch Thao muốn giết lẫn nhau. Lần nọ, Thạch Tuyên đến chùa, ngồi kế bên Ngài. Lúc đó, cái linh trên tháp Phật chợt vang tiếng. Ngài bảo Thạch Tuyên:
- Ngài có hiểu linh nói gì chăng. Linh bảo rằng Hồ tử lạc độ.
Thạch dân vốn là Yết tộc, nên xưng là Hồ tử. Lạc độ tức là ý của hồn phách bay lạc. Thạch Tuyên nghe lời này, sợ tái mặt, hỏi:
- Đó là nghĩa gì?
Ngài bảo:
- Ta tu hành, làm Phật sự, đáng ra phải luôn ẩn cư nơi thâm sơn cùng cốc, mà ngược lại đi mặc áo lụa, ăn đồ cao sang. Đây có phải là việc hưởng thụ sung sướng không (lạc độ)?
Thạch Thao lại đến chùa gặp Ngài. Vừa gặp mặt, Ngài nhìn trừng trừng, khiến Thạch Thao hoảng sợ, nên hỏi lý do. Ngài bảo:
- Ta thấy trên thân của Ngài có mùi máu tanh nồng nặc.
Tuy nhiên, cả hai Thạch Tuyên và Thạch Thao không hiểu lời của Ngài. Đến tháng tám năm đó, Ngài bảo đồ chúng, quét dọn sạch sẽ am thất, cùng nghiêm trì trai giới, rồi tự thân tạm thời vào ẩn tu ở Đông Các.
Thạch Hổ và hoàng hậu Đỗ Thị hỏi rằng vì sao Ngài lại cư trú như thế. Ngài bảo:
- Khấu tặc gần ngay bên sườn. Chẳng quá mười ngày, sẽ có nghịch phản. Phía tây của Phật tháp, tức phía đông của Đông Các này sẽ có máu đổ. Bất luận là việc gì Đại Vương và Hoàng Hậu chớ có đi qua bên hướng đông!
Hoàng Hậu bảo:
- Hòa Thượng sao quá hồ đồ! Nơi đây làm sao có giặc.
Ngài bảo:
- Tham dục của con người là giặc. Già rồi thường hôn mê lầm loạn. Tuy vậy, chỉ khiến người trẻ không hôn mê lầm loạn là đủ!
Hai ngày sau, quả nhiên Thạch Tuyên phái người đến giết Thạch Thao ngay trong chùa. Thạch Tuyên lại có ý đồ là định trong lúc làm lễ tang chế cho Thạch Thao, sẽ giết Thạch Hổ luôn. Nhờ nghe lời Ngài cảnh giác mà Thạch Hổ tránh được đại họa. Mưu cơ phản nghịch của Thạch Tuyên sau này bị bại lộ, nên bị Thạch Hổ bắt giam gia hình tàn nhẫn. Ngài thấy thế, bèn khuyên Thạch Hổ:
- Thạch Tuyên cũng là con của Đại Vương. Hà tất vừa để tang một đứa con xong, lại tạo thêm tai họa! Nếu Đại Vương dằn cơn phẫn nộ, mà dùng đức từ ái, thì sẽ còn hưởng lộc hơn sáu mươi năm nữa. Nếu quyết định giết hắn, thì Thạch Tuyên sẽ biến thành sao chổi mà đốt cung điện Nghiệp Đô.
Thạch Hổ không chịu nghe lời trung trực của Ngài, mà ra lịnh xiết vòng sắt nơi bụng của Thạch Tuyên và chất củi thiêu sống. Thạch Hổ lại còn đem hơn ba trăm cung quyến của Thạch Tuyên, cho xe cán chết phanh thây, rồi liệng thi thể nơi sông Chương Hà, khiến máu chảy lai láng. Ngài đã biết việc này không thể cứu vãn, nên bảo đồ đệ ngưng hành lễ trai hội.
Dẫu Ngài có dùng bao nhiêu lời lẽ khuyên răn, nhưng tánh tình hung bạo của Thạch Hổ thật khó sửa đổi.
Qua vài tháng sau, chợt có một con ngựa, lông bờm đều có dấu vết bị bỏng cháy, chạy từ cửa Trung Dương đến cửa Hiển Dương, lại chạy qua hướng tây bắc, rồi biến mất. Thấy việc này, Ngài bảo:
- Tai họa sắp đến!
Đến tháng mười một, Thạch Hổ bày yến tiệc đãi quần thần trước cung điện Thái Võ. Ngài chợt cao tiếng xướng:
- Cung điện a! Cung điện a! Cây gai đã thành rừng, làm rách áo của người!
Quả nhiên, ngay nơi tảng đá bên ngoài cung điện, có một cây gai chợt mọc lên. Trở về chùa, Ngài ngước nhìn tượng Phật mà than:
- Buồn thay! Từ đây không còn được lễ kính nữa!
Lại tự hỏi và tự đáp:
- Có thể duy trì ba năm không?
- Không được! Không được!
- Có thể duy trì, hai năm, một năm, trăm ngày, một tháng chăng?
- Không được!
Đến đây, Ngài ngưng không nói thêm lời nào, rồi trở về phòng, bảo Pháp Tộ:
- Năm Mậu Dần, họa loạn từ từ phát sanh. Đến năm Kỷ Hợi, họ Thạch bị diệt vong. Trước họa loạn này phát sanh, Ta phải nhập diệt sớm.
Nói xong, Ngài lại bảo đệ tử mang thơ từ biệt gởi đến Thạch Hổ:
- Muôn sự muôn vật tất nhiên phải biến hóa, mà thân thể và tánh mạng cũng đồng như thế, chứ không thể giữ trường tồn mãi. Ta cũng như vậy, nên muốn nhập diệt. Lúc sống nhờ ơn Đại Vương ân cần hậu đãi, nên nay đặc biệt báo tin cáo từ.
Thạch Hổ buồn bã bảo:
- Không nghe Hòa Thượng bị bịnh gì, sao lại muốn nhập tịch?
Nói xong, Thạch Hổ tự thân đến vấn an Ngài. Ngài bảo:
- Chết sống là lý lẽ bất biến. Thọ mạng dài ngắn cũng không chủ định, nên không thể tự mình kéo mạng sống dài thêm. Nếu là người học đạo, phải trọng nơi đức hạnh vuông tròn. Đức trọng nhờ siêng năng tu hành chánh pháp. Nếu đức hạnh không khiếm khuyết, thì tuy chết cũng như sanh. Hành trái ngược với chánh đạo để được thân trường thọ vĩnh cữu, chẳng phải là ý nguyện của Ta. Dẫu Đại Vương có tâm lễ kính Phật pháp, xây cất chùa chiền tráng lệ nguy nga, nhưng lại thi hành chánh sách bạo ngược, thì hiển nhiên bội ngược với thánh giáo. Không tỉnh ngộ để sửa đổi, thì mãi mãi chẳng được phước lành. Nếu sám hối sửa đổi tâm tánh, thi ân bố đức đến dân lành, khiến vận nước được trường tồn, đạo tục đều khâm phục kính ngưỡng, thì dẫu Ta có mạng chung, cũng không hối hận!
Biết Ngài sẽ viên tịch, Thạch Hổ khóc nức nở, sai người xây cất phần mộ. Mồng tám tháng chạp năm 348, ngài Phật Đồ Trừng nhập tịch tại chùa Nghiệp Cung, được một trăm mười bảy tuổi. Sĩ thứ trong toàn quốc đều đau buồn bi thương như quốc tang.
Sau khi ngài Phật Đồ Trừng viên tịch, Thạch Hổ mai táng Ngài tại Lâm Chương, phía tây của Sài Mạch. Thạch Hổ cũng tự tay tẩn liệm nhục thân của Ngài vào quan tài, rồi đem tích trượng y bát đặt vào trong đó.
Lúc Nhiễm Mẫn làm phụ chánh, ông ta mở quan tài ra, chỉ thấy có cây tích trượng và bình bát, mà không có thi thể. Dân chúng bảo nhau:
- Trong tháng mà ngài Phật Đồ Trừng nhập tịch, có người thấy Ngài tại bên dòng sông.
Nghe việc này, Thạch Hổ sanh tâm nghi hoặc rằng Ngài cũng vẫn chưa nhập tịch, nên đến mở quan tài ra, nhưng không thấy thi thể.
Ngực bên trái của Ngài có một lỗ thủng, sâu bốn mươi phân, suốt đến trong bụng. Lúc còn tại thế, ruột trong bụng thường chảy ra, nên Ngài lấy bông và hoa ngăn lại. Đọc kinh sách vào ban tối, Ngài mở bông hoa ra, thì chợt có ánh hào quang tỏa sáng, khiến cả phòng thất đều sáng ngời. Đến những ngày trai, Ngài thường tới bên dòng nước, lấy ruột ra mà tẩy rửa, rồi lại bỏ vô bụng như cũ.
Ngài Phật Đồ Trừng nhập tịch chẳng bao lâu, Lương Độc nổi loạn. Năm kế, Thạch Hổ mất, Nhiễm Mẫn soán ngôi vị, đổi quốc hiệu là Ngụy, nên sử gọi là Nhiễm Ngụy. Lên ngôi xong, Nhiễm Mẫn giết sạch gia tộc họ Thạch. Nghĩa tên lót của Nhiễm Mẫn là 'cây gai', ứng hợp với lời tiên tri của ngài Phật Đồ Trừng khi xưa: "Gai thành rừng, đâm thủng áo người".
Chiến loạn bộc phát khắp nơi, Ngài thương cho dân chúng vô tội bị giết hại, nên hiển thị thần thông để cảm hóa Thạch Lặc tại Tương Quốc và Thạch Hổ tại Nghiệp Đô. Ngài dùng mật chú để cứu bao sanh linh, và dùng mùi hương để cứu người trong hiểm nạn; nghe tiếng linh kêu và ngồi tọa một nơi mà biết việc may rủi, nên được Thạch Lặc và Thạch Hổ tôn sùng kính ngưỡng. Tử tôn là Thạch Tuyên và Thạch Thao cũng thường lui tới thỉnh giáo. Ngài ân cần khuyên nhủ họ Thạch sửa đổi tánh khí cuồng bạo, khiến dân chúng được thấm nhuần ân huệ.
Nếu không có ngài Phật Đồ Trừng thì với tánh khí thô cuồng bạo ngược của Thạch Lặc và Thạch Hổ, không biết bao nhiêu sanh mạng dân lành đã bị phanh thây, mà bút mực cũng sẽ khó ghi chép cho hết. Đối với Thạch Lặc và Thạch Hổ, Ngài thường bỏ rất nhiều công sức tâm lực để răn nhắc, khuyến hóa họ, rằng phải nên dùng tinh thần từ bi hỷ xả của Phật giáo mà trị quốc an dân. Ngài dùng thần lực cứu độ địa ngục trần gian vào đương thời. Các vua chúa Ngũ Hồ mười sáu nước thường giết người như tợ giết trâu bò mà không phân biệt; điều này trái ngược với chủ trương bất sát của Phật giáo. Trải qua bao đời, Hồ tộc thường tín phụng Phật pháp, nên giảm bớt tập tánh ngông cuồng bạo ngược. Đấy là sự cống hiến tích cực của Phật giáo vào đương thời.
Thân của Ngài cao tám thước, cử chỉ nhu hòa, từ tốn. Những kinh điển thâm sâu, Ngài đều hiểu rõ, cùng thông suốt sách vở kinh luận thế tục. Lúc giảng kinh, Ngài chỉ đề xuất ra tông chỉ, khiến thính giả tự nhiên quán thông đầu đuôi, và hiểu rõ nghĩa lý.
Cuộc đời hành đạo của ngài Phật Đồ Trừng không những dùng thần lực để hóa độ các vua chúa, quần thần, dân chúng mà cũng thường chú trọng vào việc giảng kinh thuyết pháp, cùng sáng lập chùa chiền. Cao Tăng Truyện viết: "Ngài Phật Đồ Trừng liễu giải kinh điển thâm diệu, lại thông thế luận".
Tuy không phải là một đại dịch giả như ngài Trúc Pháp Hộ, đối với nghĩa lý chân thật của kinh điển, cùng các trước luận của thế gian Ngài đều tinh thông thâm hiểu.
Lúc giảng giải kinh điển, Ngài có thể diễn đạt chính xác về các yếu chỉ căn bản, khiến cho các thính giả đều hiểu rõ nghĩa lý văn chương tường tận từ đầu đến cuối. Không những dùng những ngôn từ thâm sâu để giảng giải kinh điển, mà Ngài còn áp dụng tinh thần từ bi hỷ xả đến với quần chúng, cùng tận tâm giải cứu họ trong những lúc hoạn nạn.
Sự hoằng dương Phật pháp của Ngài, không những ảnh hưởng rộng khắp Trung Thổ mà còn lan rộng đến Thiên Trúc, khiến cho hàng chục vị danh tăng từ Thiên Trúc, Khương Cư, v.v... không quản muôn dặm đường xa, lội qua bao bãi sa mạc, cùng trèo non lội suối để cầu mong lời giáo huấn như ngài Phật Điều, Tu Bồ Đề, v.v... Trong nước, các ngài Đạo An, Trúc Pháp Nhã, v.v... cũng vượt muôn dặm ải hà để đến nghe Ngài giảng kinh thuyết pháp. Tất cả đều liễu đạt diệu lý u huyền của Phật pháp.
Ngài Phật Đồ Trừng đã từng bảo:
- Nơi Ta xuất sanh cách Nghiệp Đô hơn chín trăm ngàn dặm; bỏ nhà vào đạo một trăm lẻ chín năm; răng không bao giờ chạm rượu; qua giờ ngọ không dùng cơm; chẳng đúng theo giới luật thì không hành; chẳng có tham dục, và chẳng hằng mong cầu; người đến cầu đạo từ các miền xa xuôi có hơn cả ngàn; đồ chúng trước sau có hàng trăm ngàn; kiến tạo chùa chiền khắp Trung Thổ cả tám trăm chín mươi ba ngôi; sự nghiệp hoằng pháp được hưng thịnh, khác biệt với những vị khi trước.
Ngài Phật Đồ Trừng tự bảo rằng nơi xuất sanh cách xa Nghiệp Đô hơn chín trăm ngàn dặm, tức là Thiên Trúc. Ngài được một trăm lẻ chín hạ lạp. Viên tịch vào năm một trăm mười bảy tuổi (348), tức là tám tuổi đã xuất gia. Ngài đến Lạc Dương vào năm bảy mươi chín tuổi, tức cuối đời Tây Tấn, niên hiệu Vĩnh Gia thứ tư (310).
'Rượu không chạm răng, quá ngọ không ăn, chẳng hợp với giới luật thì không hành, không tham dục, không mong cầu', chứng minh rằng ngài Phật Đồ Trừng không những tự có đầy đủ thần lực đạo thuật dị thường, mà chính bản thân cũng thực tiễn tôn kính nghiêm trì giới luật. Không uống rượu, tức là giữ giới không uống rượu. Qua giờ ngọ không dùng cơm, tức là thủ trì giới không ăn phi thời. Tất cả hành vi đều không đi ngược lại với giới luật, và chẳng hề khởi tâm tham dục cùng mong cầu.
Ngài Đạo An đã từng đến thành Nghiệp Đô học giới luật dưới tòa của ngài Phật Đồ Trừng. Tuy nhiên, ngài Đạo An chỉ học được một phần ít, chứ chẳng hoàn toàn. Do gặp thời cuộc loạn ly, nên ngài Đạo An cứ chạy lánh nạn mãi. Đến năm 370, ngài Đạo An từ Tương Dương đến Trường An, tới tu học với đạo nhân ngoại quốc là Đàm Ma, vị thường trì tụng bộ giới luật Tiểu Thừa, nên bổ sung thêm kiến thức về giới luật. Sau này, ngài Đạo An lại thỉnh sa môn Trúc Pháp Niệm ở Lương Châu sao viết bản giới luật bằng chữ Phạn, và thỉnh ngài Đạo Hiền phiên dịch, và được Huệ Thường ghi chép. Dịch từ mùa hạ đến mùa đông thì hoàn tất, nên mới có nguyên bộ luật tỳ kheo giới bổn. Từ khi quyển giới luật này được phiên dịch xong, Ngài nhận thấy đó là những quyển giới luật đã được trước kia đa số đều sai lầm. Ngài Đạo An xem giới luật Phật giáo cùng lễ tiết ở Trung Thổ đều đồng quan trọng, nên nghiêm chỉnh thực tiển hành trì. Vì vậy, lúc hoằng dương chánh pháp, ngài Đạo An đặc biệt chú trọng về giới luật. Kỳ thật đó là ngài Đạo An tiếp thừa đạo phong của ngài Phật Đồ Trừng.
Ngài Phật Đồ Trừng tự bảo rằng đồ chúng có trăm ngàn người, và lập tám trăm chín mươi ba ngôi chùa. Công cuộc hoằng dương Phật pháp của ngài Phật Đồ Trừng tại Trung Thổ thật vĩ đại, hiếm có. Nhờ tận mắt chứng kiến những năng lực thần kỳ dị thường kiệt xuất của ngài Phật Đồ Trừng mà tín chúng đua nhau cúng dường tịnh tài để xây cất chùa chiền. Vì Ngài không có tham dục, lại chẳng mong cầu, nên chưa hề cất giữ tiền bạc riêng tư, mà chỉ dùng hết những tịnh tài được cúng dường dành vào việc xây chùa dựng tháp, hoằng dương Phật pháp, khiến Phật giáo hưng long khắp miền Trung Thổ.
Không những kiến tạo chùa chiền, mà Ngài còn thực hành những lễ nghi của Phật giáo như hành lễ Phật đản. Theo Cao Tăng Truyện thì cứ vào dịp lễ Phật đản, Thạch Lặc thường tự thân đến chùa dự lễ tắm Phật. Vì Ngài đã từng dùng thần lực để cứu sống Thạch Bân, nên Thạch Lặc thường gởi gắm con cháu tại chùa, khiến cho những đứa bé kia được thọ sự cảm hóa của Phật pháp, để sau này tín thọ phụng hành.
Vào thời của Thạch Lặc, Trung Thổ đã từng khởi xướng đại lễ diễn hành tượng Phật vào ngày lễ Phật đản. Quyển Đông Tấn Lăng Hội, Nghiệp Trung Ký viết: "Thạch Lặc thường cho làm xe bốn bánh bằng gỗ chiên đàn, rộng hơn mười thước, dài hơn hai trăm thước; làm tượng Phật bằng vàng, đặt để trên xe đó; trên có hình chín con rồng đang phun nước. Làm đạo nhân bằng gỗ, dùng tay xoa bụng Phật; làm hơn mười đạo nhân bằng gỗ, cao hơn hai thước; tất cả đều mặc y ca sa, đi kinh hành, vây nhiễu, lễ Phật, rồi lại tự tay cắm hương vào lư hương, giống như người thật không khác. Xe thì người gỗ đi theo, cùng rồng phun nước. Xe ngưng thì tất cả đều ngừng".
Thạch Lặc cho người chế tạo xe bằng gỗ chiên đàn, rồi lại làm chín con rồng phun nước và đạo nhân bằng gỗ xoa bụng Phật để biểu thị động tác tắm Phật. Làm hơn mười đạo nhân bằng gỗ, đắp y ca sa, đi kinh hành quanh bốn bên, và dâng hương lễ bái, để biểu thị sự cầu mong quốc gia thái bình, nhân gian an lạc.
Kế thừa phong tục làm lễ hành tượng của Ngũ Hồ mười sáu nước tại Hoa Bắc, vua Bắc Ngụy Thái Võ Đế, niên hiệu Định Đô Đại Đồng, trong những năm vừa lên ngôi, cũng làm lễ hành tượng như thế vào ngày Phật đản. Quyển Ngụy Thư Thích Lão Chí viết: "Thế Tổ vừa lên ngôi bèn tôn theo nghiệp của Thái Tổ và Thái Tông, thường cùng các vị sa môn cao đức luận đàm Phật pháp. Đến mồng tám tháng tư, làm lễ diễn hành tượng Phật, đi khắp đường lộ. Vua đích thân lễ bái, ngự trên cửa thành, rải hoa cúng dường".
Đời Đông Hán, Phật giáo được tiếp nạp vào nước Tàu từ vua Sở Vương Anh, Tạc Dung, Hán Hoàng Đế, v.v... Họ xem Phật giáo giống như một hình thức của đạo Thần Tiên hay Đạo giáo. Họ thường hành những việc được xem là quan trọng như cầu mưa hay cầu chữa bịnh tật. Đời Tam Quốc, các ngài Trúc Pháp Hộ, Chi Khiêm phiên dịch rất nhiều kinh điển, nhưng đối với quần chúng thì thật rất khó thấm nhuần vì chưa hiểu rõ nghĩa lý Phật pháp. Họ chỉ tôn sùng triết lý thanh tịnh, không tham dục. Do đó, họ chỉ cầu mong đạo Phật ban cho những điều như cầu mưa, chữa bịnh, hoặc hiển hiện những điềm linh ứng kỳ dị. Đáp ứng lòng mong cầu ngưỡng mộ các thuật thần bí kỳ dị của quần chúng, ngài Phật Đồ Trừng đến vùng Hoa Bắc, dùng năng lực thần thông để cảm hóa họ. Nếu ngài Phật Đồ Trừng chỉ chuyên ròng phiên dịch kinh điển, thì e rằng công cuộc hoằng dương Phật pháp ít có hiệu quả.
Những vị đại đệ tử của ngài Phật Đồ Trừng [^]
A/ Ngài Phật Điều [^]
Ngài Phật Điều từ Thiên Trúc sang học đạo với ngài Phật Đồ Trừng, và thường cư trú nơi chùa Thường Sơn. Ngài Phật Điều cũng có những năng lực thần dị, và đã từng hiển hiện bao loại thần biến như ngài Phật Đồ Trừng, lại cũng từng vào hang hổ trên núi, dự biết giờ phút lâm chung. Sau này Ngài đột nhiên mà thị tịch. Qua vài năm sau, khi tám người đệ tử cư sĩ vào Sơn Tây để đốn củi, họ thấy ngài Phật Điều đang ngồi trên tảng đá cao. Với sự kinh hoàng, họ hỏi:
- Bạch Hòa Thượng. Ngài vẫn còn sống sao!
Ngài đáp:
- Ta vẫn đang sống!
Trở về, họ tìm đến nơi chôn cất của Ngài, rồi mở quan tài ra, mà chẳng thấy thi thể. (Ngài Phật Điều và Nghiêm Phật Điều hoàn toàn khác nhau. Ngài Phật Điều là người Thiên Trúc, và là đệ tử của ngài Phật Đồ Trừng. Ngài Nghiêm Phật Điều là người Tàu, vị đã từng dịch kinh Pháp Kính cùng Sa Di Thập Huệ Chương Cú vào thời Hán Linh Đế.)
Trong các vị đại đệ tử của ngài Phật Đồ Trừng, nổi bậc nhất là ngài Đạo An, Trúc Pháp Nhã, và Tăng Lãng.
B/ Ngài Đạo An, lập nền tảng vững chắc cho Phật giáo Trung Quốc [^]
Vào thời Đông Hán, giữa những nhà dịch giả Thiên Trúc, bắt đầu phiên dịch kinh điển từ tiếng Phạn sang tiếng Tàu là ngài An Thế Cao và Chi Lâu Ca Sấm. Nhìn về phương diện truyền bá và phiên dịch kinh điển Tiểu Thừa thì ngài An Thế Cao là vị kiệt xuất nhất, nên được hàng Phật tử xưa nay mãi mãi tôn sùng kính ngưỡng.
Tuyển thuật viết lời tựa, và liệt kê sao lục cho các bộ kinh do ngài An Thế Cao cùng các nhà dịch giả khác vào buổi sơ thời của Phật giáo là ngài Đạo An. Địa vị của ngài Đạo An trong sơ kỳ Phật giáo rất quan trọng. Thật vậy, ba vĩ nhân của Phật giáo thời sơ kỳ là ngài Phật Đồ Trừng, Cưu Ma La Thập, và Đạo An.
Ngài Đạo An sanh vào niên hiệu Vĩnh Gia, cuối đời Tây Tấn (312), người Phù Liễu ở Thường Sơn (gần huyện Chánh Định, tỉnh Hà Bắc), tên tục là Vệ, gia thế thuộc hàng nho gia sĩ thứ. Đương thời, vì Ngũ Hồ mười sáu nước chiếm cứ vùng Hoa Bắc, nên các cao tăng danh sĩ đều từ từ di cư vào nam, đến lưu vực sông Trường Giang ở Kiến Nghiệp (Nam Kinh). Nền văn hóa ở phương bắc cũng được di chuyển vào phương nam, nên nền văn hóa tại vùng Hoa Bắc dần dần suy đồi.
Thời ấy, Phật giáo đã phát triển tại vùng Thường Sơn. Y cứ theo 'Tỳ Kheo Ny Truyện', quyển một có viết về tỳ kheo ny Trí Hiền. Sư cô vốn là người Thường Sơn, họ Triệu; cha tên là Trân. Thái thú Đỗ Bá vốn tin đạo Hoàng Lão mà ghét đạo Phật. Đương thời vua Phù Kiên ra lịnh tra xét tự viện. Đỗ Bá nhân dịp đến khám xét chùa chiền, thấy sư cô Trí Hiền dung nhan kiều diễm, tiếng nói trong trẻo, nên phát khởi tà tâm. Do đó, Đỗ Bá ra lịnh cho sư cô Trí Hiền cư trú một mình, rồi bức bách giao tình. Sư cô Trí Hiền cự tuyệt, thà chết chứ không phá giới. Đỗ Bá tức giận cầm đao hành hung, chém sư cô Trí Hiền hơn hai mươi nhát, khiến không thể đi nổi. Bỏ đi một hồi, Đỗ Bá chợt tỉnh ngộ sám hối. Từ đó, Đỗ Bá chuyên cần tinh tấn ăn chay, giữ giới hạnh, khiến cho vua Phù Kiên cũng tôn trọng. Đỗ Bá cũng thường may y ca sa cúng dường tăng chúng.
Qua câu chuyện này chứng minh rằng tại Thường Sơn vào thời ngài Đạo An xuất sanh, Phật giáo đã được phát triển rộng rãi, nên mới có tăng ni tu đạo.
Vì cha mẹ mất sớm, nên ngài Đạo An được nghĩa huynh Khổng Để nuôi dưỡng đến lúc trưởng thành.
Năm bảy tuổi, ngài Đạo An đã thông suốt văn nghĩa của ngũ kinh. Đối với các thư tịch, chỉ xem qua một hai lần là Ngài liền nhớ rõ, khiến cho dân chúng trong vùng rất kính phục. Tuy thiên tánh minh mẫn, nhưng dung mạo lại rất xấu xí. Trên bắp tay của Ngài nổi một cục thịt lớn tròn cả tấc, có thể kéo lên hay xuống. Người đời sau nhân đó mà gọi Ngài là Bồ Tát Ấn Thủ.
Khi Ngài xuất gia vào năm mười hai tuổi, vì khinh chê nên thầy bổn sư thường sai Ngài ra đồng làm ruộng. Suốt ba năm liền, Ngài cần cù lao động, không có chút oán hờn phẫn uất. Trong thời gian đó, Ngài nghiêm trì giới luật, không phạm chút tơ hào. Vài năm sau, Ngài mới cầu thỉnh vị thầy bổn sư chỉ dạy kinh điển. Vị thầy bổn sư bèn đưa cho quyển kinh Biện Ý Trưởng Giả, có hơn năm ngàn lời. Ngài mang bộ kinh ra ngoài đồng. Lợi dụng giờ nghỉ giải lao, Ngài xem qua bộ kinh này, rồi chiều tối trở về chùa đưa lại cho thầy bổn sư, và cầu thỉnh thêm một bộ kinh khác. Thầy bổn sư trách cứ:
- Hôm qua Ta đã đưa cho con bộ kinh này. Chưa kịp xem tường tận, vội trả lại cho Ta, sao lại cầu thêm quyển khác?
Ngài thưa:
- Con đã học thuộc bộ kinh đó rồi, và có thể tự đọc tụng lại được!
Thầy bổn sư nửa tin nửa ngờ khi nghe lời này, nhưng vẫn đưa thêm quyển kinh Thành Cụ Quang Minh Định Ý, có khoảng một trăm ngàn lời. (Quyển kinh này do ngài Chi Lâu Ca Sấm và Chi Diệu dịch, với hai bản khác nhau. Đây là bộ kinh thuộc hệ Đại Thừa, nên nghĩa lý thâm sâu, khó lòng hiểu rõ. Hiện nay được ghi trong Đại Tạng Tân Tu, Đại Tạng Kinh, quyển thứ mười lăm. Bộ kinh này cũng được gọi là Thành Cụ Quang Minh Tam Muội.)
Giống như lúc trước, trong vòng một ngày, ngài Đạo An đã học thuộc xong bộ kinh Thành Cụ Quang Minh Định Ý, nên trở về chùa hoàn lại quyển kinh cho thầy bổn sư. Việc này khiến cho thầy bổn sư lại càng thêm nghi hoặc, nên bảo ngài Đạo An đọc lại xem sao. Ngài bèn đọc thuộc làu, không sót một chữ. Thầy bổn sư thấy vậy, bèn rất kinh ngạc và nhận rõ tài năng của ngài Đạo An. Sau này, ngài Đạo An y theo thầy bổn sư mà thọ giới cụ túc. Trước khi thọ giới cụ túc, Ngài đã từng gặp thầy Tăng Tiên. Y cứ theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thứ năm, thì thầy Tăng Tiên là người Ký Châu, đệ tử của Thường Sơn Nhuận. Ngài và thầy Tăng Tiên rất tâm đầu ý hợp, nên trước lúc chia tay đã từng hẹn nhau:
- Khi về già, chớ quên đồng học!
Thọ giới cụ túc xong, thầy bổn sư của Ngài bảo hãy đi tham vấn học đạo nơi ngài Phật Đồ Trừng. Đương thời, gặp lúc Ngũ Hồ mười sáu nước đang giao chiến, chiến loạn khắp nơi, nên Ngài chạy lánh nạn qua vùng Sơn Tây. Trong bài tựa về kinh Đạo Địa, Ngài có viết rằng vốn sanh vào cuối thời Tây Tấn, lúc Hung nô kéo quân xâm lược vùng Hoa Bắc, thì vị thầy bổn sư đã viên tịch, và phải xa rời các pháp hữu, rồi đến tị nạn ở núi Tấn Sơn, Sơn Tây. Lúc ấy, sa môn Chi Đàm Giảng tại Nhạn Môn, sa môn Trúc Tăng Phụ (người Thiên Trúc, trì giới luật tinh nghiêm, học các luận, thông suốt kinh điển) ở Nghiệp Đô, sa môn Trúc Pháp Tể ở Thái Dương (Trúc Pháp Tể là vị viết quyển 'Cao Dật Sa Môn Truyện', và là đệ tử lớn của Trúc Pháp Tiềm), cùng với Ngài nghiên cứu kinh Đạo Địa và kinh Âm Trì Nhập. Kế đến, Ngài tới chùa Thượng Minh ở Kinh Châu, phát tâm tín ngưỡng Bồ Tát Di Lặc, rồi lại qua núi Phi Long gặp thầy Tăng Tiên (pháp hữu khi xưa ở Thường Sơn) đang ẩn cư nơi đó.
Vào năm 335, Ngài tìm đến để thân cận và học đạo dướI tòa của ngài Phật Đồ Trừng tại một ngôi chùa trong thành Nghiệp Đô. Lúc đó, Ngài được hai mươi lăm tuổi, và Phật Đồ Trừng đã được một trăm lẻ bốn tuổi. Đương thời, Thạch Hổ đã dời đô về Nghiệp Đô. Vừa thấy ngài Đạo An, ngài Phật Đồ Trừng bèn tán thán không ngừng, và đàm luận suốt cả ngày. Thấy dung mạo của Ngài xấu xí, nên đại chúng khởi tâm khinh khi. Ngài Phật Đồ Trừng bèn bảo họ:
- Người này có kiến thức thâm sâu, bác học xa vời mà các ngươi chẳng hề bì kịp!
Ngài tín phụng tôn ngài Phật Đồ Trừng làm thầy. Mỗi lần giảng kinh xong, ngài Phật Đồ Trừng đều bảo Ngài giảng lại, nhưng đại chúng không tín phục. Lần nọ, đại chúng cùng nhau bảo:
- Đợi gã Côn Lôn (chỉ cho ngài Đạo An có sắc mặt đen thui) luận nghị, chúng ta quyết định sẽ chất vấn cho thua mới được.
Ngài vừa giảng lại những lời của ngài Phật Đồ Trừng xong thì đại chúng liên tiếp chất vấn. Đối với những nghi vấn xâu xa của đại chúng đồng học, mỗi mỗi Ngài đều đối đáp và giải thích rành rẽ, khiến ai ai cũng đều tâm phục khẩu phục, bảo:
- Lời của Tất đạo nhân làm kinh hoàng bốn làng.
Ngài theo hầu thầy mình suốt mười bốn năm, mãi cho đến khi ngài Phật Đồ Trừng nhập tịch vào năm 348. Được ngài Phật Đồ Trừng giảng giải những điểm trọng yếu của kinh điển, nên Ngài lãnh hội thâm sâu. Lại nữa, nhờ học theo đạo phong oai đức nghiêm trì giới luật cẩn mật của ngài Phật Đồ Trừng mà sau này trong công nghiệp hoằng dương chánh pháp, Ngài luôn chú trọng về phần giới luật. Theo bài tựa về giới luật của Tỳ Kheo, ngài Đạo An viết về giáo pháp tổng quát của đức Thế Tôn trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' như sau: "Ba pháp giới luật, thiền định, trí huệ được gọi là cửa ngõ vào đạo, và là pháp nhập Niết Bàn trọng yếu. Giới luật là pháp đoạn trừ ba việc ácẠ. Thiền định phòng ngừa và ngăn chặn vọng tưởng phân tán. Trí huệ là thang thuốc vi diệu cứu chữa tất cả bịnh trạng. Đầy đủ ba pháp này thì mới có thể đắc đạo. Dùng ba pháp này cũng là tùy thuận với đạo. Bất luận tại gia hay xuất gia, việc trước nhất là phải giữ giớI; nghĩa là lấy giới làm nền tảng căn bản cho sự tu học. Bên cạnh việc dùng giớI luật để tôi luyện, phải thận trọng thúc liễm thân và khẩu, vì chúng vốn là thuyền bè của muôn hạnh. Nếu không giữ oai nghi nghiêm túc, thì trong cuộc sống tu tập hằng ngày dễ làm ô uế giới luật. Nếu phá giới luật tất phải đọa vào ba đường ácẠ. Do đó, trong ba tạng giáo điển, đức Như Lai luôn nhấn mạnh tầm quan trọng của giới luật. Ở xứ Thiên Trúc và các nước Phật giáo, nơi nơi đều tôn sùng giới luật. Mỗi ngôi chùa thường có các vị nghiêm trì giớI luật cẩn mật. Vị nhậm chức giám đốc trì luật, vào mỗi nửa tháng thuyết giới trước đại chúng. Ngày thuyết giới, từ tối đến sáng chư tăng tụng niệm kinh điển, và khuyến tấn lẫn nhau nghiêm trì giới luật. Nếu có ai phạm giới, sẽ bị đuổi ngay".
Ngài lại viết: "Phật pháp sơ truyền vào Đông Độ đến nay chưa lâu cho lắm. Chư sư đã từng thọ giới từ đời Tần Thủy Hoàng, mà các vị dịch giả về giới luật lại rất hiếm, nên người trước chỉ kế tục truyền cho người sau. Đến đời Đồ Hòa ThượngẠ, đa phần giới luật đã được chấn chỉnh! Xưa kia, tại Nghiệp Đô, tôi đã từng theo Đồ Hòa Thượng học ít phần, nhưng cũng chưa đủ hoàn toàn, rồi gặp đời loạn lạc, thật tiếc lắm thay!"
Đương thời, Ngài đã từng trú tại núi Hằng Sơn, nhưng cũng thường qua lại Nghiệp Đô. Khi đến núi Hằng Sơn ở Thái Hành, Ngài xây chùa viện và sửa đổi y phục thế tục, trở thành y phục người xuất gia. Từ đó, chùa viện trên núi Hằng Sơn là trung tâm hoằng dương Phật pháp của Ngài. Thái thú Lô Hâm ở Võ Ba, nghe danh tiếng giới hạnh thanh cao của Ngài, nên nhờ sa môn Mẫn Kiến thỉnh Ngài khai giảng kinh điển. Dẫu Ngài từ chối, nhưng Lô Hâm cứ cầu thỉnh, nên cuối cùng Ngài phải đăng đàn giảng kinh. Vì Ngài là vị đã từng thực lực nghiên cứu kinh điển, cùng thanh danh giới hạnh cao thâm, nên chư tăng kẻ tục kéo đến nghe giảng kinh rất đông. Mỗi lần Ngài giảng kinh, ai ai cũng đều tán thán. Lúc ấy, Ngài Huệ Viễn được hai mươi mốt tuổi, cùng ngài Huệ Trì mười tám tuổi, đồng đến Hằng Sơn, làm môn đệ của ngài Đạo An. Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thứ sáu thì ngài Huệ Viễn vốn muốn đến Giang Đông để theo ông Phạm Tuyên Tử học pháp thuật ẩn độn. Ngặt vì chiến loạn lan tràn khắp nơi, nên ngài Huệ Viễn không thể vào nam được. May mắn thay, ngài Huệ Viễn gặp được ngài Đạo An tại Quan Tả. Vừa gặp được ngài Đạo An thì ngài Huệ Viễn bèn vui mừng nói:
- Vị này chính là Thầy của Ta!
Sau khi Thạch Hổ mất, Thạch Đạo kế vị, rồi phái sa môn Trú Xương Bồ đến đón Ngài về trú tại Hoa Lâm Viên, và cho xây dựng phòng xá nơi đó. Trú nơi đó qua một thời gian, Ngài cảm thấy hậu vận của triều Hậu Triệu sắp đến hồi nguy nan, nên dẫn đồ chúng rời Hoa Lâm Viên, tới núi Khiên Khẩu. Quả nhiên, Nhiễm Mẫn nổi loạn vào năm 350, khiến Hậu Triệu diệt vong. Ngài bảo đồ chúng:
- Hiện thời có thiên tai, sâu bọ hoành hành, trộm cướp bốn bề nổi dậy. Chúng ta cùng tu tập nơi đây, nhưng cuộc sống quá khó khăn chật vật. Đâu có ai muốn giáo đoàn bị phân tán. Những việc này thật là nan giải!
Sau đó, Ngài lại dẫn đồ chúng đến Vương ốc ở núi Nữ Lâm, rồi làm ruộng sinh sống. Tuy vậy, vì nơi đó cũng không an toàn, nên chẳng bao lâu, Ngài lại dẫn đồ chúng qua sông Hoàng Hà, đến Lục Hồn, cư trú trong hang động. Dẫu phải dùng rau quả dại để sống qua ngày, nhưng đại chúng vẫn không lơ là việc tu học. Tuy nhiên, những nạn khổ vẫn chưa hết. Lúc ấy, Yến Đích Mộ Dung Tuấn dẫn quân tiến đánh Nhiễm Mẫn. Đại quân vây hãm Lục Hồn, nên một mình Ngài lánh nạn xuống miền nam tại Tương Dương. Khi cùng đồ chúng kéo đến vùng chiến loạn Tân Dã, Ngài bảo:
- Hiện tại, chúng ta đang gặp thời vận xấu, chiến tranh loạn lạc khắp nơi. Nếu không có một quốc vương nào hộ trì, thì công nghiệp hoằng dương Phật pháp thật khó hoàn thành. Chúng ta giáo hóa chúng sanh càng nhiều càng tốt. Nếu được quốc vương hộ trì thì việc này sẽ dễ dàng.
Đồ chúng đều thưa:
- Chúng con hoàn toàn nghe lời Ngài dạy.
Sở dĩ Ngài nói ra lời này vì trong hoàn cảnh loạn lạc, muốn duy trì tăng đoàn, phải cần nhờ sự hộ trì của một vị đại thí chủ. Thế nên, ngay sau đó, Ngài dẫn đồ chúng đến Tương Dương.
Lần nọ, Ngài bảo Trúc Pháp Thái đến Dương Châu, và nói:
- Nơi đó có rất nhiều hiền nhân quân tử đang tôn sùng Phật pháp. Văy ông hãy đến đó.
Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thứ năm thì Trúc Pháp Thái vốn là pháp hữu đồng học với Ngài vào thuở thiếu niên. Đương thời, Trúc Pháp Thái cùng Ngài chạy lánh nạn đến Tân Dã. Sau này, Ngài bảo Trúc Pháp Thái xuống kinh đô. Lúc chia tay, Trúc Pháp Thái nói:
- Pháp Sư hoằng dương giáo nghĩa ở tại miền Tây Bắc. Tôi phải về lại miền đông nam để hoằng dương Phật pháp. Mỗi chúng ta có mỗi nơi hoằng pháp khác nhau. Hôm nay, trịnh trọng chia tay. Hẹn tương lai sẽ gặp nơi cõi Tịnh Độ.
Sau đó, Trúc Pháp Thái cùng với hơn bốn mươi đồ đệ như Đàm Nhất, Đàm Nhị, v.v... xuống vùng Dương Châu. Tại Dương Khẩu ở phía đông sông Trường Giang, trên đường đến Dương Châu, Trúc Pháp Thái bị bịnh nặng, nên đành phải trú lại nơi đó. Chánh Trị Hoàn Ôn đang thống trị Kinh Châu, nên sai người mang đồ đến cúng dường cho Trúc Pháp Thái. Ngài Đạo An cũng phái đệ tử là Huệ Viễn đến thăm hỏi bịnh tình của Trúc Pháp Thái. Ngài lại bảo Trúc Pháp Hòa vào Tứ Xuyên để tu thiền:
- Nơi đó núi non hùng vĩ nguy nga, chính là chỗ tu hành rất tốt.
Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thì thầy Trúc Pháp Hòa là pháp hữu đồng học của ngài Đạo An vào lúc nhỏ. Thầy Trúc Pháp Hòa là vị nổi tiếng về đức hạnh khiêm cung. Thầy y theo lời dạy của ngài Đạo An, và vì muốn bảo toàn giáo đoàn khỏi bị phân tán, nên dẫn chư đồ đệ vào vùng Tứ Xuyên. Nơi đó, danh đức của thầy Trúc Pháp Hòa lại càng vang lừng. Sau này, nghe tin Tương Dương bị chiến loạn, Thầy rời Tứ Xuyên, đến Trường An, trụ tại chùa Dương Bình. Thứ đến, Trúc Pháp Hòa lại cùng với ngài Đạo An qua cốc Kim Dư của ngài Tăng Lãng.
Vừa chia tay với thầy Trúc Pháp Thái và Trúc Pháp Hòa, Ngài lại dẫn hơn năm trăm đồ chúng như Huệ Viễn, v.v... thẳng đến Tương Dương, hầu mong tìm đạo tràng rộng rãi để có thể dung chứa hàng trăm đồ chúng. Năm đó, Ngài đã trên năm mươi tuổi.
Lần nọ, vừa qua sông Bạch Hà thì trời sẩm tối, rồi một cơn mưa to đổ xuống. Ngài và đồ chúng không có nơi trú ẩn, nên chỉ cứ tiếp tục dầm mưa. Trên đường, họ đi ngang qua một căn nhà. Trước cửa nhà có hai cây cột; chính giữa có treo một bồn cỏ, dung lượng khoảng một đấu. Thấy như thế, Ngài bèn gọi to:
- Lâm Bách Thăng!
Chủ nhân kinh hoàng chạy ra, vì tên của ông ta chính là Lâm Bách Thăng. Chưa từng gặp nhau mà được gọi đúng tên, nên chủ nhà rất thán phục thần lực của Ngài. Do đó, ông ta tiếp đãi Ngài và các đồ đệ rất nồng hậu. Đồ chúng sau này hỏi:
- Sao Thầy lại biết được danh tánh của người chủ nhân kia?
Ngài nói:
- Hai cây cột trụ hợp lại thành 'Lâm'. Chính giữa có treo một bồn cỏ, dung lượng khoảng một đấu, tức là 'Bách Thăng' (một đấu bằng một trăm thặng lúa). Hợp lại thành Lâm Bách Thăng!
Đến Tương Dương, Ngài bắt tay ngay vào công cuộc hoằng dương Phật pháp. Đương thời, tướng quân chinh tây Hoàn Lãng Tử đang trấn nhậm tại Giang Lăng, phái người đến mời Ngài qua tạm trú tại Giang Lăng. Kế đến, quan trấn thủ Tương Dương là Châu Tự thỉnh Ngài trở về Tương Dương. Thấy chùa Bạch Mã quá chật hẹp, không thể dung chứa hết tăng chúng, nên Châu Tự giúp Ngài xây chùa Đàn Khê. Sau này, có rất nhiều danh sĩ hỗ trợ giúp đỡ việc xây chùa. Ngoài ra, Ngài còn cho xây tháp Phật năm tầng, và tạo hơn bốn trăm tăng phòng. Quan thứ sử ở Lương Châu gởi vạn cân đồng đến cho Ngài tạo tượng Phật cao mười sáu thước vớI uy nghi và thần thái sáng ngời. Vua Tiền Tần là Phù Kiên cũng phái quan đem vàng bạc đến cúng dường tạo một tôn tượng Phật nằm dáng sư tử tọa, cao bảy thước. Ngoài ra, Ngài còn an trí một tôn tượng Phật bằng vàng, một tôn tượng Phật Di Lặc bằng châu ngọc, một tôn tượng Phật bằng vải kim tuyến, một tôn tượng Phật bằng gấm. Mỗi lần có pháp hội giảng kinh, Ngài giăng treo tràng phan bảo cái và đặt các tôn tượng Phật trong hội trường; những hạt châu chung quanh tượng Phật chiếu soi ánh sáng kim quang lóng lánh. Tín chúng đến tham dự pháp hội giảng kinh, không thể chẳng khởi tâm thành cung kính, lễ bái. Tuy nhiên, có một tượng đồng từ nước ngoài đem về, nhưng hình tượng rất kỳ quái lạ thường, khiến đại chúng không thể kham nhẫn lễ bái. Ngài bảo:
- Tôn tượng này thật trang nghiêm, nhưng trên đầu lại có búi tóc không tương xứng.
Nói xong, Ngài bảo các đệ tử mang tôn tượng này đến lò rèn, sửa lại búi tóc. Rèn một hồi, đột nhiên có ánh sáng phát lòa ra khắp bốn bề, khiến cho cả gian phòng sáng rực. Xem xét nhìn kỹ trong búi tóc, thấy có một viên xá lợi nằm trong đó. Đại chúng chứng kiến tận mắt việc này, nên cùng nhau sám hối và khởi tâm cung kính. Ngài bảo đại chúng:
- Mỗi tôn tượng Phật có hình tướng khác nhau, nhưng đều có đầy đủ bao điềm linh ứng. Do đó, không cần phải nhọc phiền mà sửa đổi.
Ngài vốn đã biết trong búi tóc sẽ có hạt xá lợi, nên cố ý bảo các đệ tử thui rèn búi tóc của Phật lại, hầu mong chỉ dạy họ. Câu truyện này được truyền mãi bao đời. Thế nên, biết rõ rằng tại chùa Đàn Khê, ngoài tôn tượng Phật Thích Ca ra, còn có nhiều tôn tượng Phật khác, và cũng có hạt xá lợi.
Tương Dương không những là con đường giao thông nối mạch giữa Hoa Bắc và Hoa Trung, mà còn là nơi quan trọng về chiến lược. Các danh sĩ đương thời thường hội tụ về đó. Vì vậy, các đệ tử của Ngài trú tại nơi đó rất đông. Tính ra, Ngài trú tại Tương Dương khoảng mười lăm năm. Nơi đó, Ngài giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã rất nhiều lần. Bộ kinh này do đệ tử của Châu Sĩ Hành là Phất Như Đàn từ nước Vu Điền mang về Lạc Dương, rồi được sa môn Vô Xoa La và Trúc Thúc Lan dịch. Ngài cũng chú thích và lược giải quyển kinh Quang Tán Bát Nhã do sa môn Trúc Pháp Hộ dịch.
Một vị hào tộc tên là Tập Tạc Sĩ ở tại Tương Dương, có khả năng biện tài vô ngại, danh vang lừng vào đương thời. Ông cũng đã từng nghe về danh đức của Ngài. Biết Ngài đã đến Tương Dương, ông bèn đến bái kiến. Vừa ngồi xuống, ông bèn tự xưng là 'Tứ Hải Tập Tạc Sĩ'; nghĩa là biện tài của ông, bốn bể không ai đối địch nổi. Ngài bèn đối đáp 'Di Thiên Thích Đạo An'; nghĩa là khắp thiên hạ, chỉ có một Đạo An. Bút tích văn phong của Ngài và ông ta rất tương xứng. Người đương thời xưng tán là cặp danh sĩ và tăng sĩ đối xứng. Tập Tạc Sĩ vừa đến chùa lại gặp nhằm ngày hội trai, nên mang đến rất nhiều quả lê. Ngài lấy những quả lê đó, cắt nhỏ ra, rồi chia cho đại chúng dùng. Nhận thấy học vấn và đạo hạnh thâm sâu của Ngài, cùng giáo đoàn phụng trì giới luật theo quy củ, ông rất kính phục và tán thán không ngừng, nên gọi Ngài là 'Tăng sĩ phi thường'. Trong bức thư gởi đến tể tướng Kiện Khang, ông viết: "Nơi đây có pháp sư Đạo An, là một tăng sĩ kiệt xuất phi thường. Ngài lãnh đạo hằng trăm đồ chúng, lên đàn giảng kinh, hoặc hành hội tế trai. Chăm chỉ mà hành, chứ không dùng lực thần thông hay pháp thuật để làm mê hoặc khủng bố tai mắt người khác. Ngài cũng chưa từng biểu dương oai đức hay dùng thế lực để trị những kẻ nhỏ, mà các đệ tử từ trên xuống dướI nhất tề tương thân tương kính; họ luôn tôn thủ giới luật quy củ trong cuộc sống tu học. Tôi chưa từng thấy giáo đoàn nào như thế! Pháp sư Đạo An thông đạt kinh thư nội ngoại, lại thông hiểu toán số âm dương; nơi diệu lý Phật giáo, Ngài ung dung tự tại giảng thuyết; về phương diện pháp nghĩa cùng đồng với ngài Pháp Lan, Pháp Đạo, v.v... Thật tiếc cho Tể Tướng chưa hội ngộ được vị pháp sư này".
Hiền danh cao đức của Ngài vang lừng khắp nơi, khiến Đông Tấn Hiếu Võ Đế cũng hạ chiếu thư xưng tán: "Pháp sư Đạo An nhân đức siêu quần thù thắng, có công giáo hóa đạo tục, không những hiện thời cứu tế quần sanh mà cũng làm gương sáng cho hậu thế".
Hiếu Võ Đế lại cung phụng, cúng dường rất nhiều phẩm vật, và đối xử Ngài như các bậc vương công. Không những Đông Tấn Hiếu Võ Đế ở phương nam tôn sùng Ngài, mà Tiền Tần Phù Kiên ở phương bắc cũng từng bảo:
- Tương Dương có Thích Đạo An, được xưng tán là bậc thần khí của bản triều. Ta muốn triệu hồi Pháp Sư về đây để giúp việc trị nước. Sau này Phù Kiên phái quân đánh chiếm Tương Dương, bắt được ngài Đạo An và Châu Tự. Phù Kiên bảo tướng bộc xạ Quyền Dực:
- Trẫm dùng một trăm ngàn đại quân để đánh chiếm Tương Dương, nhưng chỉ được một nửa người!
Quyền Dực hỏi:
- Đó là ai?
- Pháp sư Đạo An là một người, và Tập Tạc Sĩ là nửa người.
Do đó, thấy rõ vua chúa và quần chúng đương thời kính trọng Ngài đến bậc nào!
Phù Kiên bèn thỉnh mời Ngài đến trụ trì chùa Ngũ Trọng ở Trường An. Lúc rời Tương Dương, Ngài bảo các đệ tử như Huệ Viễn, v.v... hãy vào miền Giang Nam, còn một mình đi đến Trường An. Tuy bảo rằng phân tán đồ chúng, nhưng khi Ngài đến Trường An, hàng ngàn tăng đồ kéo đến chùa Ngũ Trọng để học đạo dưới tòa của Ngài. Do đó, công nghiệp hoằng dương Phật pháp của Ngài lan rộng khắp nơi. Nhờ đức hạnh thâm cao mà Ngài mới làm việc Phật sự rộng lớn như thế.
Phù Kiên vừa lập quốc, trong nước vẫn còn loạn lạc, nhưng dần dần bốn phương đều được bình định, như những vùng biên cương, phía đông tới tận Thương Hải, phía tây giáp nước Quy Từ, phía nam bao hàm Tương Dương, phía bắc đến Hàn Hán; chỉ còn lại Kiến Nghiệp (kinh đô của Đông Tấn) là chưa thần phục. Mỗi lần đàm luận với triều thần, Phù Kiên đều nói rõ ý đồ thống nhất vùng Giang Tả. Dẫu Phù Dung (em của Phù Kiên) cùng các triều thần như Thạch Việt, Nguyên Thiệu, v.v... đều thống thiết ngăn cản việc khởi binh, nhưng Phù Kiên không hề thay đổi ý chí. Thế nên, họ đến cầu Ngài khuyên nhủ Phù Kiên:
- Chúa Thượng muốn thân chinh Đông Tấn. Sao Ngài (Đạo An) không vì quần sanh mà khuyến nhủ!
Ngài lập tức đến khuyên lơn nhưng Phù Kiên vẫn không nghe.
Lần nọ, lúc đi ra ngoài vườn Đông Uyển, Phù Kiên thỉnh Ngài đồng lên xa giá. Quan bộc xạ Quyền Dực thưa:
- Thần nghe rằng khi Thiên Tử xa giá, chỉ quan hầu mới được đi theo. Ngài Đạo An xuống tóc xuất gia, sao lại cùng Thiên Tử đồng lên xa giá?
Phù Kiên nổi giận bảo:
- Đạo đức của pháp sư Đạo An thật khả kính tôn quý. Cả thiên hạ cùng Trẫm cũng chưa bằng Pháp Sư, huống hồ gì việc lên xa giá có xứng đáng gì với oai đức của Pháp Sư!
Khi nghe danh của ngài Cưu Ma La Thập ở Tây Vức, Ngài ân cần khuyên Phù Kiên hãy mau cầu thỉnh vị thánh tăng đó qua Trung Thổ để phiên dịch kinh điển. Ngược lại, ngài Cưu Ma La Thập cũng đã từng nghe qua thanh danh oai đức của ngài Đạo An, nên thường nói rằng ngài Đạo An chính là bậc thánh nhân ở phương đông. Hai mươi năm sau, khi ngài Đạo An đã nhập tịch, ngài Cưu Ma La Thập mới sang Trung Thổ.
Ngài chẳng những tinh thông thơ văn, mà còn thông đạt nội ngoại điển tích, âm dương toán số, cùng những học vấn khác. Vì vậy, giai cấp quý tộc tại Trường An cũng từng thân cận Ngài để học hỏi, và thường bảo:
- Không học với ngài Đạo An thì nghĩa khó mà thông đạt!
Bốn năm trú tại Trường An, Ngài giảng kinh Phóng Quang Bát Nhã hai lần trong mỗi năm. Tháng tám năm 382, Ngài đến Nghiệp Đô, làm lễ húy kỵ cho thầy bổn sư, tức là ngài Phật Đồ Trừng. Tại chùa Nghiệp Đô, Ngài cung thỉnh pháp sư Cưu Ma La Phật Đề tuyên đọc kinh Tứ A Hàm bằng tiếng Phạn, rồi thỉnh ngài Trúc Phật Niệm và Trúc Phật Hộ phiên dịch. Ngài lại thỉnh hai ngài Trúc Phật Niệm và Trúc Phật Hộ phiên dịch kinh Tỳ Nại Da, rồi tự viết lời tựa cho bản kinh đó. Năm 383, ngài Tăng Già Bạt Trừng dịch quyển luận Bình Bà Sa, luận A Tỳ Đàm Bát Kiền Độ, cùng kinh Bà Tu Mật Tập; ngài Đàm Ma Nan Đề dịch kinh Tăng Nhất A Hàm; ngài Đạo An viết bài tựa cho các quyển kinh luận đó. A Tỳ Đàm Bát Kiền Độ là bộ luận hoàn chỉnh nhất của tạng luận Tiểu Thừa. Thế nên, đối với ba tạng giáo điển, Ngài đều thông suốt hết.
Phật giáo Trung Quốc tôn sùng tôn giả Tân Đầu LôẠ khởi đầu từ ngài Đạo An. Do vì chú thích rất nhiều kinh điển, nên mỗi lần chú giải xong quyển kinh nào, ngài Đạo An đều cầu nguyện Tam Bảo gia hộ. Tuy nhiên, vì trọng trách chú giải kinh điển thật nặng nề, và sợ rằng không hợp với ý của Phật, nên Ngài phát nguyện:
- Nếu những lời chú thích của con không tương phản với ý chỉ của Phật đà, thì xin hãy hiển hiện điềm lành để ấn chứng.
Đêm nọ, Ngài mộng thấy một vị Phạm tăng, tóc trắng lông mi dài, bảo:
- Những lời chú thích kinh điển của ông đều hợp với ý của Phật. Ta vốn là hòa thượng chưa nhập Niết Bàn ở miền Tây Vực. Ta sẽ hỗ trợ cho ông trong việc hoằng dương Phật pháp. Ông hãy vì Ta mà chuẩn bị cúng dường.
Vụa tỉnh dậy, ngài Đạo An thiết lễ trai tăng cúng dường tôn giả Tân Đầu Lô.
Hai mươi năm sau khi ngài Đạo An nhập tịch, ngài Phất Nhã Đa La và ngài Cưu Ma La Thập phiên dịch quyển Thập Tụng Luật. Lúc đó, đệ tử của Ngài là Huệ Viễn mới biết vị tăng mà thầy bổn sư của mình mộng thấy khi xưa, chính là tôn giả Tân Đầu Lô. Từ đó, mới có thông lệ cúng dường phẩm vật lên tôn giả Tân Đầu Lô.
Sau này, Tần Phù Kiên chẳng chịu nghe lời khuyên nhủ của Ngài, nên phái Bình Dương Công Phù Dung thống lãnh hai trăm năm mươi ngàn quân tiền phong, còn ông ta tự thân dẫn sáu trăm ngàn quân đi nam chinh. Vua Tấn phái Chinh Lỗ tướng quân Tạ Thạch, thái sử Tạ Huyền ở Từ Châu dẫn quân ra chống cự. Kết quả, quân của Phù Kiên đại bại tại núi Bát Công. Sử gọi là trận chiến Phì Thủy. Quân Đông Tấn truy đuổi chém giết quân Phù Kiên la liệt. Phù Dung cũng bị tử thương. Cuối cùng, một mình Phù Kiên cỡi ngựa chạy về Trường An, nhưng lại bị Mộ Dung Sung phục kích giết chết, khiến nhà Tiền Tấn bị diệt vong. Do không chịu nghe lời khuyên nhủ của Ngài về việc nam chinh nên Phù Kiên mới bị mất nước vong thân.
Đương thời, ở tại chùa Ngài cùng các đệ tử như Pháp Ngộ, v.v... quỳ trước tượng Phật Di Lặc, đồng phát nguyện vãng sanh lên cõi trời Đâu Suất. Vào ngày hai mươi bảy tháng giêng năm 384, niên hiệu Kiến Nguyên thứ hai mươi mốt, đột nhiên có một dị tăng hình tướng xấu xa dơ bẩn, đến chùa xin ngủ qua đêm. Vì trong chùa không còn dư phòng, nên thầy tri sự sắp đặt cho vị tăng đó nghỉ ngơi tại giảng đường. Đêm hôm đó, thầy Duy Na thấy vị dị tăng kia bay ngang qua lại cửa sổ, nên kinh hoàng vội đến báo cho Ngài hay tin. Ngài lập tức bước ra giảng đường lễ bái cùng thỉnh vấn mục đích đến chùa của vị dị tăng kia. Dị tăng đáp:
- Vì muốn độ Thầy nên mới tới đây!
Ngài thưa:
- Nghiệp chướng của con nặng nề, thì làm sao được cứu độ?
- Đương nhiên là Ta độ được! Tuy nhiên, phải mộc dục (tắm gội) tượng thánh tăng, thì mới có thể được như ý nguyện!
Nói xong, dị tăng bèn chỉ Ngài cách thức mộc dục. Ngài tiếp thọ và lại hỏi nơi trú của vị dị tăng. Dị tăng bèn lấy tay chỉ lên trời, về hướng tây bắc, rồi đột nhiên mây mù nơi đó tan mất, và thắng cảnh trang nghiêm vi diệu của cung trời Đâu Suất hoàn toàn hiện ra trước mắt. Đến khuya, vài mươi người trong chùa cũng đồng thấy thắng cảnh cung trời Đâu Suất rõ ràng. Ngài y theo lời dạy, chuẩn bị đầy đủ pháp cụ để làm lễ mộc dục. Lúc đó, chợt có vài mươi chú tiểu đồng dị thường, chạy vào chùa nô đùa, rồi trong phút chốc, tự làm lễ mộc dục. Đó chính là điềm linh ứng của Phật Di Lặc.
Vào mồng tám tháng hai năm 385, dẫu thân không bịnh, Ngài bảo đồ chúng:
- Ta phải đi đây!
Nói xong, Ngài bèn ngồi kiết già rồi thị tịch. Linh cữu được quàn tại chùa Ngũ Cấp ở Trường An.
Trước khi Ngài thị tịch, ẩn sĩ Vương Gia thường qua lại vấn an. Ngài bảo Vương Gia:
- Thế sự loạn ly, bao điềm tai họa thường giáng xuống thân! Hãy cùng Ta rời khỏi thế gian này!
Vương Gia đáp:
- Thật đúng như lời của Ngài dạy bảo. Tuy nhiên, con còn chút nợ chưa trả xong. Xin Ngài hãy đi trước.
Đương thời, lúc dẫn quân đi công phá Trường An, đại quân của Dao Trường cùng vớI đại quân trong thành của Phù Đăng tranh hùng với nhau nhưng chưa phân thắng bại. Bấy giờ, Dao Trường cho vời Vương Gia đến hỏi:
- Ta có chiếm được ngai vàng không?
Vương Gia nói:
- Lược đắc được.
Nghe lời này Dao Trường nổi giận lôi đình, bảo:
- Được thì nói là được. Sao lại bảo rằng lược đắc được?
Nói xong, Dao Trường ra lịnh chém đầu Vương Gia. Đó là món nợ mà Vương Gia phải trả. Dao Trường vừa chết, con là Dao Hưng đánh bại Phù Đăng, và lên ngôi hoàng đế. Tên tự của vua Dao Hưng là 'Lược'. Đó là ý nghĩa mà Vương Gia bảo rằng lược đắc lên ngôi.
Trong quyển 'Cao Tăng Truyện' thứ năm có ghi rằng đệ tử của ngài Đạo An là Đàm GiớI, vào lúc tuổi già bịnh hoạn, thường trì tụng danh hiệu Phật Di Lặc. Đệ tử của ngài Đàm Giới là Trí Chánh hỏi:
- Sao Sư Phụ không phát nguyện vãng sanh qua cõi Tây Phương Cực Lạc?
Ngài Đàm Giới bảo:
- Xưa kia, Ta đã từng cùng với Hòa Thượng (ngài Đạo An) và tám huynh đệ khác phát nguyện vãng sanh lên cung trời Đâu Suất. Hòa thượng Đạo An và các sư huynh đệ của Ta đã vãng sanh rồi, chỉ còn Ta ở lại nơi đây. Hiện tại, chính là lúc Ta phải gấp rút cầu vãng sanh lên cung trời Đâu Suất.
Nói vừa dứt lời thì một luồng hào quang chiếu khắp toàn thân, khiến dung mạo của ngài Đàm Giới an hòa tươi tỉnh, rồi an tường nhập tịch. Mộ của ngài Đàm Giới cũng được xây ngay bên phải của phần mộ ngài Đạo An.
Ngoài ra, pháp hữu khi xưa của Ngài là Trúc Pháp Phụ, tại chùa Thượng Minh ở Kinh Châu, cũng thường lễ sám phát nguyện vãng sanh lên cõi trời Đâu Suất, cầu mong ngưỡng kiến đức Từ Thị.
Đối với giới luật, ngài Đạo An từng bảo:
- Giới luật là nền tảng căn bản cho sự đắc đạo. Trong ba tạng kinh điển, giới luật chiếm địa vị trọng yếu nhất.
Vào đời Tam Quốc, thời Tào Ngụy, ngài Đàm Ma Ca La dịch bộ Tăng Kỳ Luật, rồi cùng với ngài Đàm Đế dịch Tứ Phần Luật. Kế đến, hai ngài thiết pháp Yết Ma, đăng đàn truyền giới. Đến đời của ngài Đạo An, giớI luật vẫn chưa được hoàn chỉnh. Lúc trú tại Nghiệp Đô, ngài Đạo An tận lực học giới luật, nhưng vì chiến loạn nên nguyện chưa thành. Khi tới Tương Dương rồi qua Trường An, ngài Đạo An gặp được sa môn Đàm Ma Thị, vị chuyên tu giới học, nên rất vui mừng. Vì vậy, Ngài cầu thỉnh sa môn Đàm Ma Thị truyền đọc 'Thập Tụng Đại Tỳ Kheo Giới Bổn', và thỉnh sa môn Trúc Phật Niệm cùng Trúc Đạo Hiền phiên dịch. Lại nữa, khi sa môn Tăng Thống từ nước Câu Di mang quyển 'Thập Tụng Tỳ Kheo Ny Giới Bổn' trở về thì ngài Đạo An cũng thỉnh hai sa môn Trúc Phật Niệm và Trúc Đạo Hiền dịch quyển đó. Theo quyển 'Cao Tăng Truyện' thì ngài Đạo An viết những điều luật cho tăng ni tu hành như sau: "Chế độ quy thức của tăng ni, tức nghi thức tu hành, có ba điều lệ: Thứ nhất là pháp hành hương tọa thiền, thượng kinh thượng giảng. Thứ hai là pháp sáu thời hành đạo ẩm thực xướng thời. Thứ ba là hành các pháp Bố Tát, sai sử, hối quá, v.v... Các chùa chiền tịnh xá trong thiên hạ phải chấp hành theo phương thức này".
Nội dung của lời này không được rõ ràng, nên quyển 'Tăng Sử Lược Giản Thuật' vào đời Tống giải thích như sau: "Thứ nhất là hành hương, định những vị thượng tọa đăng đàn giảng kinh. Thứ hai là phải sám hối trong sáu thời. Thứ ba là hành các pháp Bố Tát".
Đối với pháp hành hương, có hai loại: Thứ nhất, hành hương cũng là hành sự bố thí pháp; trong pháp hộI, người ngồi nơi vị trí caoẠ phải nghiêm túc hành pháp này; nghĩa là đăng đàn giảng kinh. Thứ hai, hành hương đơn thuần là chỉ việc dâng hương cúng Phật để biểu lộ lòng thành triệt để. Kế đến, 'định thượng tọa' nghĩa là tăng lạp ít thì ngồi tu thiền định, còn tăng lạp cao thì lên tòa giảng kinh. Đăng đàn giảng kinh là nghi thức của Phật giáo được ngài Đạo An phát khởi. Trước khi lên đàn giảng kinh phải dâng hương cúng Phật. 'Kinh Thượng Giảng' nghĩa là phải giảng chi tiết, từng câu từng lời. Khi giảng kinh, phải hoạch định phân rõ ba phần: Phần tựa, phần chánh tông, và phần lưu thông. Mỗi mỗi phải y theo thứ tự mà giảng giải rõ ràng. Lại nữa, tại đàn tràng giảng kinh phải thiết đặt tôn tượng Phật, và treo tràng phan bảo cái.
Thứ hai, sáu thời lễ sám, tức là trong sáu thờiẠ phải đi hành thiền và lễ bái chư Phật. Phải đi từ bên phải mà kinh hành nhiễu Phật. Đây là lễ nghi của người Thiên Trúc. Ngoài ra, ngài Đạo An còn tự viết văn lễ sám trong sáu thời cho chư tăng ni tu hành.
Về phương diện ăn uống, mỗi ngày chỉ dùng một buổi vào giờ ngọ. 'Xướng Thời Pháp' tức là tùy thời mà xưng niệm danh hiệu Phật.
Thứ ba, hành Bố Tát, tức là chư tăng vào mỗi nửa tháng vân tập tại giới đường, thi hành nghi thức sám hối trước khi tụng giới. Nếu có vị tăng nào phạm giới, phải ra trước tăng chúng mà cáo bạch, cầu xin sám hối. Chư tăng tùy theo giới kinh trọng (nhẹ hay nặng) mà phân lường xử lý. Kế tiếp, một vị tăng bước lên tòa tuyên đọc giới pháp, còn những vị khác phải ngồi lắng nghe. Đây là pháp của đức Thế Tôn truyền dạy. Tại Trung Thổ, do ngài Đạo An phát khởi, pháp Bố Tát mới thực sự được thi hành. Về sau, pháp Bố Tát này ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển của tăng đoàn Phật giáo.
Trước đời ngài Đạo An, các sa môn người Tàu thường được vị thầy thế độ ban cho pháp danh, nên hỗn tạp vô chừng mực. Ngài chủ trương rằng vị bổn sư của các Phật tử xuất gia là Phật Thích Ca, nên các sa môn phải lấy danh tánh họ Thích. Ngài nói:
- Không dòng họ nào tôn quý bằng dòng họ Thích Ca của đức Bổn Sư.
Mới đầu, không ai màng đến lời này của Ngài. Sau này, khi kinh Tăng Nhất A Hàm vừa được dịch ra tiếng Tàu thì mọi người mới biết rõ rằng Phật dạy:
- Các sông ngòi chảy vào biển cả, thì không còn danh tự của sông ngòi. Cũng vậy, tuy tên tục khác nhau, nhưng các sa môn đều phải xưng là 'Thích' chủng.
Điều này thấy rõ lời của Ngài hợp với kinh điển, nên kể từ đó, chư tăng đều lấy họ Thích làm đầu.
Chia tay với ngài Đạo An tại Tân Dã, thầy Trúc Pháp Thái đến Dương Châu, trụ trì chùa Ngõa Quan tại thành Kiến Nghiệp, rồi được các vua Đông Tấn cung kính tôn trọng, và tụ hội hơn một ngàn đồ chúng, nên công nghiệp hoằng pháp được hưng thịnh.
(Thầy Trúc Pháp Hòa chia tay với ngài Đạo An tại Tân Dã xong, bèn qua đất Thục, rồi trở lại Trường An cùng với ngài Đạo An tích cực hiệu đính những quyển kinh luật đã được phiên dịch.)
Ngài Đạo An sanh nhằm thời chiến tranh loạn lạc khắp nơi. Không những thức ăn hiếm hoi, mà ngay cả sinh mạng luôn bị đe dọa. Sống trong thời loạn ly ấy, tuy đã bao lần chạy lánh nạn đó đây, nhưng ngài Đạo An vẫn quyết chí tu hành không gián đoạn, và tận tâm tận lực hoằng dương Phật pháp, đào tạo các vị cao tăng như ngài Huệ Viễn, Đàm Dực, v.v..., cùng giáo hóa tín đồ, xây dựng chùa chiền như chùa tháp ở Hằng Sơn, bảy gian thiền đường ở phía đông chùa Thượng Minh, chùa Đàn Khê ở Tương Dương với năm mươi tự viện. Bên cạnh những sự nghiệp này, ngài Đạo An còn chuyên cần chú giải kinh điển, khiến cho người nghiên cứu nắm rõ nghĩa lý chân chánh của kinh điển. Ngoài ra, Ngài lại y cứ theo giới luật mà lập ra nền tảng tu trì căn bản cho tăng đoàn.
Trước thời ngài Đạo An, Phật giáo Trung Quốc còn non nớt, chỉ nằm trong thời sơ kỳ. Công cuộc phiên dịch kinh điển được ngài An Thế Cao và Chi Lâu Ca Sấm phát khởi, rồi liên tiếp có nhiều nhà dịch giả khác tham gia. Tuy nhiên, đối với những người có tâm nghiên cứu tu học, khi đọc những quyển kinh điển được phiên dịch vào buổi sơ thời thì đa phần khó lãnh hội ý chỉ, còn nói chi đạt được nghĩa lý thâm sâu. Thế nên, quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' ghi lại lời của ngài Đạo An như sau: "Kinh điển được dịch đã lâu, mà văn kinh lại cổ điển và đôi khi sai lạc, khiến cho nghĩa lý thâm sâu bị mai một ẩn mất, cùng thông bế tắt. Mỗi lần đăng đàn giảng kinh, các vị pháp sư chỉ bàn về ý nghĩa một cách đại khái".
Y cứ theo lời này, thời kỳ ban đầu của Phật giáo Trung Quốc, về phương diện phiên dịch kinh điển, gần như đã thành thục. Tuy nhiên, các bản dịch cổ xưa thường có nhiều chỗ sai lầm, nên khiến lý lẽ thâm sâu bị mất đi, và ý nghĩa cũng chưa được thông suốt rõ ràng. Do đó, người diễn thuyết kinh điển được phiên dịch theo lối cổ xưa, thường giảng giải đại ý hoặc chỉ tụng đọc. Thế nên, đối vớI nghĩa lý của kinh điển, hàng Phật tử vào đương thờI khó lòng hiểu rõ chính xác.
Để hiểu rõ chân nghĩa của kinh điển, Châu Sĩ Hành phải qua tận nước Vu Điền thỉnh cầu bản văn kinh Phóng Quang Bát Nhã bằng tiếng Phạn. Tuy nhiên, bản dịch về bộ kinh này cũng chưa lột trần được nghĩa lý thâm sâu, nên lúc diễn giảng, ngài Đạo An chỉ thuyết về đại ý mà thôi. Vì vậy, đối với các học giả Phật giáo, ngài Đạo An rất thông cảm cho nỗi khó khăn này, nên lập chí nghiên cứu nghĩa lý chân thật, rồi đề xướng những yếu điểm thâm sâu vi diệu của kinh điển, bằng cách chú thích. Theo quyển 'Xuất Tam Tạng Thống Ký', ngài Đạo An chú thích và lược giải những bộ kinh như sau: Quang Tán Bát Nhã sao giải (1 quyển), Quang Tán Bát Nhã chiết trung giải (1 Quyển), Phóng Quang Bát Nhã chiết nghi chuẩn (1 quyển), Phóng Quang Bát Nhã chiết nghi lược (2 quyển), Phóng Quang Bát Nhã khởi tận giải (1 quyển), Đạo Hạnh Kinh tập dị chú (1 quyển), Đại Thập Nhị Môn chú (2 quyển), Tiểu Thập Nhị Môn chú (1 quyển), Liễu Bổn Sanh Tử Kinh chú (1 quyển), Mật Tích Kim Cang Kinh chân giải (1 quyển), Trì Tâm Phạm Thiên Kinh chân giải (1 quyển), Hiền Kiếp Bá Vạn Tứ Thiên Độ Vô Cực kinh giải (1 quyển), Nhân Bổn Dục Sanh Kinh chú toát giải (1 quyển), An Ban Thủ Ý Kinh giải (1 quyển), Âm Trì Nhập Kinh chú (2 quyển), Đại Đạo Địa Kinh chú (1 quyển), Thập Pháp Cú nghĩa (1 quyển), Nghĩa Chỉ chú (1 quyển), A Tỳ Đàm Cửu Thập Bá Kết Kinh giải (1 quyển), Tam Thập Nhị Tướng giải (1 quyển).
Ngài Đạo An trước tác những quyển như sau: Tam Giới Chư Thiên Hỗn Nhiên Hào Tạp Lục (1 quyển), Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục (1 quyển), Đáp Sa Thái Nạn (1 quyển), Đáp Pháp Tương Nạn (2 quyển), Tây Vực Chí (1 quyển).
Thật sự, trong sử Phật giáo Trung Quốc, ngài Đạo An được xưng tán là vị Sơ Tổ chú giải kinh điển. Thế nên, trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' viết: "Làm sáng nghĩa kinh điển cổ xưa, khởi đầu từ ngài Đạo An".
Không những chú giải kinh điển, ngài Đạo An còn trước tác, soạn viết rất nhiều bài tựa, để thuật lại kinh điển được dịch qua quá trình như thế nào, kinh điển này từ đâu có, tiêu đề của kinh điển là gì, v.v... Mỗi mỗi kinh luật luận, ngài Đạo An đều tự phát biểu kiến giải của mình. Những phần tựa của Ngài, được viết lại trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' như sau: An Ban Chú tự, Âm Trì Nhập Kinh tự, Nhân Bổn Dục Sanh Kinh tự, Liễu Bổn Sanh Tử Kinh tự, Thập Nhị Môn Kinh tự, Đại Thập Nhị Môn Kinh tự, Đạo Hạnh Kinh tự, Hợp Phóng Quang Quang Tán lược giải, Ma Ha Bát La Nhã Ba La Mật Kinh sao tự, Tăng Nhất A Hàm Kinh tự, Đạo Địa Kinh tự, Thập Pháp Cú Nghĩa Kinh tự, A Tỳ Đàm tự, Bính Bà Sa tự, Tỳ Kheo Đại Giới tự.
Quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' viết: "Ngài Đạo An ghi chép lại kinh điển, vì muốn tuyên dương giáo pháp. Ngài Đạo An lại thỉnh các sa môn ngoại quốc như Tăng Già Bạt Trừng, Đàm Ma Nan Đề, Tăng Già Đề Bà, v.v... phiên dịch rất nhiều kinh điển, rồi cùng với sư đệ Trúc Pháp Hòa chọn định văn tự, xem xét tinh tường về chỉ thú của lời kinh. Các kinh điển vừa được dịch, đều được hiệu đính, nhuận sắc theo cách đó".
Điều này cho thấy rằng ngài Đạo An thường thỉnh chư tăng ngoại quốc phiên dịch kinh điển và cùng với sư đệ là Trúc Pháp Hòa hiệu đính, nhuận sắc lại lời văn, để xác định ý nghĩa chân thật của kinh điển.
Có ba việc khó khi phiên dịch: Thứ nhất, lúc Phật còn tại thế, Ngài ứng theo căn cơ và tâm tánh của quần chúng mà thuyết pháp. Phong tục của thời đại tùy theo thời gian mà chuyển biến thay đổi. Vì vậy, trau chuốt lại lời văn cổ xưa để hợp với lời văn hiện tại thật là khó. Thứ hai, phàm phu khó suy lường cảnh giới của chư thánh hiền. Thánh giáo của Phật thuyết ra đã trải qua ngàn năm và trăm đời, nên dịch cho hợp ý với đức Phật và khiến phàm phu đời mạt pháp được dễ hiểu lời của Phật thì thật là khó. Thứ ba, cuộc kết tập kinh điển lần thứ nhất ngay sau khi Phật nhập Niết Bàn do tôn giả Đại Ca Diếp triệu tập năm trăm vị đại A La Hán, và tôn giả A Nan cùng tôn giả Ưu Ba Ly trùng tuyên lại kinh luật của Phật dạy, đã qua ngàn năm. Thế nên, hiện đời thật khó mà kiểm thảo lại văn kinh thay đổi, thêm bớt.
Do đó, theo lập trường của ngài Đạo An thì khi phiên dịch kinh điển, phải giữ nguyên ý chỉ của văn kinh tiếng Phạn.
Ngoài ra, ngài Đạo An còn có công trong việc soạn viết mục lục cho các kinh điển đã được phiên dịch, khiến cho học giả dễ dàng tra cứu về người dịch, niên đại, v.v..., như quyển Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục. Thầy Huệ Kiểu sau này y theo đó mà viết thêm: "Từ đời Hán, Ngụy đến Đông Tấn, kinh điển được dịch không ít, nhưng tên của người dịch, niên đại, danh tự của kinh không được kể rõ, khiến cho người sau khó lòng tra cứu. Vì vậy, ngài Đạo An gom góp lại hết danh mục, viết niên biểu, người dịch, thời đại, chương phẩm, mới cũ, và soạn thành kinh lục. Kinh điển từ đó có nơi y cứ, thật do công của ngài Đạo An. Các học sĩ ở bốn phương đều đua nhau tìm đến học hỏi nơi ngài Đạo An".
Theo lời này, trải qua các triều đại, sa môn và cư sĩ từ Tây Vực qua nước Tàu, tùy tiện thuận tay mà phiên dịch, nên các bản dịch lắm khi tạp loạn. Không những đôi khi bản dịch chưa đủ thể tiết, mà người dịch và thời đại đều không được ghi lại rõ ràng. Thế nên, để hoàn bị công tác biên tập mục lục, ngài Đạo An kiểm thảo lại những kinh điển mới được phiên dịch, viết rõ danh tánh dịch giả, thời đại, nơi chốn, và phán xét phân biệt kinh điển chân chánh hay tà ngụy.
Tuy nhiên, quyển 'Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục' đã bị thất lạc, không thể tìm được. Hiện nay trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' của thầy Tăng Hữu, từ quyển hai đến quyển năm có viết lược lại nội dung và thể tiết của quyển 'Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục'. Do đó, mục lục của các kinh điển cổ xưa hiện vẫn còn nằm trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' của thầy Tăng Hữu. Giả như không có quyển 'Tổng Lý Chúng Kinh Mục Lục' của ngài Đạo An, thì e rằng thầy Tăng Hữu khó lòng mà soạn ra quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập'.
Ngoài ra, ngài Đạo An còn viết quyển 'Tịnh Độ Luận', nhưng tiếc rằng đến nay đã bị thất lạc. Tuy chưa từng qua Tây Vực, nhưng nhờ tài trí bác học, ngài Đạo An ghi lại địa lý, sản vật, dân tình, hiện tình Phật giáo tại Tây Vực, do các sa môn cư sĩ Tây Vực khẩu truyền lại, mà viết thành quyển ký lục 'Tây Vực Chí', rất là chính xác.
I. Ngài Huệ Viễn, sơ tổ tông Tịnh Độ [^]
Đại đệ tử của ngài Đạo An đương nhiên là Huệ Viễn. Ngài Huệ Viễn vốn là đệ tử thượng thủ, và là cánh tay phải đắc lực nhất của ngài Đạo An. Khi loạn lạc ở Tương Dương phát khởi, ngài Huệ Viễn cùng vài mươi đệ tử đến núi Lô Sơn tu hành. Nhờ chuyên tâm nỗ lực, ngài Huệ Viễn thành công trong việc nghiên cứu và tu học ba môn giới định huệ. Về những phương diện thiết lập nền tảng căn bản khiến các Phật tử phát khởi tín tâm mà tu hành, đa phần đều nhờ công lao của ngài Huệ Viễn, điển hình là việc sáng lập tông Tịnh Độ, niệm Phật cầu vãng sanh qua cõi Tây Phương Cực Lạc.
Năm 401, ngài Cưu Ma La Thập vào Trường An, phiên dịch kinh điển và truyền bá tư tưởng Không Quán Bát Nhã của ngài Long Thọ và Đề Bà.
Đương thời, tại Lô Sơn, ngài Huệ Viễn, nghiêm trì giới luật, tu hành thiền định, lại âm thầm bồi dưỡng các bậc danh tăng tài đức. Ngài tiếp thừa pháp thiền quán và lý Bác Nhã do ngài Đạo An sáng lập.
Ngài sanh năm 334, vốn là người Lâu Phiền ở Nhạn Môn, tục tánh họ Cổ, xuất từ dòng dõi sĩ phu. Khi Ngài xuất sanh, chính nhằm vào lúc ngài Phật Đồ Trừng đang được Thạch Lặc và Thạch Hổ của Hậu Triệu tôn sùng, cùng làm cố vấn cho họ. Sau này, Ngài theo Đạo An, đệ tử của ngài Phật Đồ Trừng, mà học đạo. Bấy giờ, Thạch Hổ đã cho phép người Tàu xuất gia chính thức. Đương thời, tuy dưới mắt người Tàu, Thạch Hổ là một kẻ quân vương vô đạo, nhưng ông lại rất trọng văn chương, nên tại Nghiệp Đô sáng lập ngũ kinh bác học, mà mạnh nhất là Nho giáo.
Thời niên thiếu, Ngài không những thừa thọ sự giáo hóa của Nho giáo, mà còn chịu ảnh hưởng sâu sắc về tư tưởng Phật giáo. Tuy tuổi nhỏ, nhưng Ngài miệt mài học tập không ngừng; thiên tánh của Ngài thật vượt phàm nhân. Năm mười ba tuổi, Ngài theo người cậu là Linh Cô đến Hứa Xương, Lạc Dương cầu học. Thế nên, Ngài được học lục kinh cổ điển cùng tư tưởng Lão Trang. Thâm ý của người cậu là muốn Ngài theo đuổi quan trường, làm rạng rỡ tông môn. Từ năm mười ba tuổi đến năm hai mươi mốt tuổi là thời kỳ mà Ngài chuyên học cổ điển thư tịch. Phong thái và kiến thức của Ngài thật cao tột, và là bậc nho gia anh tài, khiến người đương thời thường khâm phục.
Trước năm 350, ngài Phật Đồ Trừng đã viên tịch, và Tăng Lãng đã vào núi Thái Sơn. Thạch Hổ vừa mất, Trung Thổ rối loạn tơi bời, giặc giã nổi lên như châu chấu, khiến dân chúng lầm than đói khát, thậm chí ăn thịt lẫn nhau. Thế nên, đa số các danh sĩ cùng các sa môn thường di cư về miền Giang Nam. Năm hai mươi mốt tuổi, Ngài cũng quyết định xuôi vào Giang Nam, theo Phạm Tuyên Tử, học phép thuật ẩn độn. Tuy nhiên, thế cuộc lúc bấy giờ đang hỗn loạn, khiến đường vào nam bị cắt đứt, nên Ngài không thể thực hiện được ý nguyện. Trên đường đi, nghe thanh danh của ngài Đạo An đang tuyên dương Phật pháp tại núi Thái Hành, nên Ngài lại đổi ý, đến đó tham vấn tu học. Bấy giờ, đi cùng với Ngài là người em Huệ Trì. Vừa mới gặp mặt ngài Đạo An thì Ngài liền khởi tâm cung kính, hoan hỷ nói:
- Đây chính là thầy của Ta!
Lúc nghe ngài Đạo An giảng kinh Bát Nhã, ngài Huệ Viễn bèn chợt khai ngộ, nên bảo:
- Học thuyết của Nho giáo, Đạo giáo, và bách gia đều là tấm cám!
Vì vậy, cùng vớI bào đệ Huệ Trì, Ngài quyết định ném phứt tất cả sở học Lão Trang, Nho Giáo, theo ngài Đạo An xuống tóc xuất gia, tu học Phật pháp. Từ đó, ngài Huệ Viễn luôn luôn theo hầu cận ngài Đạo An suốt hai mươi lăm năm trường. Xuất gia xong, Ngài chuyên cần tinh tấn tu hành, tinh tường nghiên cứu và tụng đọc kinh điển, khiến trở nên bậc thông thái, hiểu rõ hết Phật pháp, và tự nhận lấy trọng trách hoằng dương chánh pháp. Đối với một người tinh thông tư tưởng Lão Trang cùng các cổ kinh điển tích như ngài Huệ Viễn, mà xả tục xuất gia, thì thật phải có tâm dõng mãnh mới làm được.
Xưa kia, nhờ người chú cấp dưỡng, Ngài mới được học hành an ổn. Trở thành tăng sĩ, không được ai chu cấp nên nghèo cùng túng quẩn, đến độ không có tiền để mua vải may y ca sa, hay y phục mặc vào mùa đông giá lạnh. Song, đối với sự tu hành, huynh đệ ngài Huệ Viễn không bao giờ biếng nhác. Đồng đạo là Đàm Dực, biết được việc này, bèn trợ giúp cho họ tịnh tài. Biết Huệ Viễn vốn là phi phàm, tương lai sẽ trở thành bậc long tượng, và biết việc Đàm Dực hỗ trợ tiền tài, nên ngài Đạo An khen ngợi:
- Đàm Dực thật là người biết rõ kẻ khác!
(Đàm Dực xuất gia vào năm mười sáu tuổi, và sau này theo ngài Đạo An đến chùa Đàn Khê, rồi lại tới trùng hưng chùa Trường Sa ở Giang Lăng.)
Khác với phàm nhân, tinh thần của ngài Huệ Viễn cao tột, trí huệ thâm sâu, ý chí hằng cầu đạo Bồ Đề. Vì vậy ngài Đạo An tán thán:
- Đạo pháp được lưu truyền nơi Đông Độ, chính là nhờ nơi Huệ Viễn này đây!
Thật đúng như lời nhận định này, đối với lịch sử Phật giáo Trung Quốc, ngài Huệ Viễn để lại một sự nghiệp vĩ đại, khiến nền móng căn bản mà ngài Đạo An đã định đặt, được khai triển rộng rãi.
Nhờ nghe ngài Đạo An giảng kinh Bát Nhã, ngài Huệ Viễn mới quyết chí ném bỏ học thức Lão Trang để xuất gia tu học Phật pháp. Trong lá thư đáp lời ẩn sĩ Lưu Di Dân, Ngài viết rằng hồi tưởng lại lúc xưa hướng tâm về học thuật thế tục của Nho giáo, lầm nhận là chân lý tối cao trên thế gian, nhưng sau khi xem qua tư tưởng Lão Trang, thì mới biết Nho giáo bất quá chỉ là nghị luận hư vọng biến chuyển theo thế tình. Lại nữa, khi vừa nghiên cứu Phật pháp, thì tự phán xét rằng giáo lý của Phật pháp lại càng u huyền thâm sâu triệt để hơn tư tưởng của Lão Trang.
Lần nọ, vào năm hai mươi bốn tuổi, Ngài đăng đàn giảng kinh Bát Nhã. Một đạo sĩ nọ, vì chưa hiểu rõ nghĩa của 'Thật tướng', nên đến vấn hỏi. Ngài dẫn dụng văn cú của Lão Trang để thuyết minh về những điểm thiết yếu, cùng giải thích những điều nghi vấn, khiến người kia được lãnh hội yếu chỉ. Từ đó, ngài Đạo An đặc biệt cho phép Ngài dẫn dụng những câu cú cổ điển để diễn giảng Phật pháp. Các sư huynh đệ như Pháp Ngộ, Đàm Huy, v.v... cũng tham dự buổi giảng kinh đó, rất là thán phục Ngài.
(Pháp Ngộ, đệ tử của ngài Đạo An, 'ngộ giải phi thường', năng lực cao tuyệt. Năm 377, tại chùa Trường Sa ở Giang Lăng, Pháp Ngộ giáo hóa hơn bốn trăm đồ chúng.
Đàm Huy xuất gia vào năm mười sáu tuổi. Tuy chưa trưởng thành mà đã từng đăng đàn giảng kinh. Sau này, Đàm Huy là người đệ tử kiệt xuất của ngài Đạo An tại chùa Thượng Minh ở Kinh Châu.)
Những vị đệ tử kiệt xuất của ngài Đạo An như Pháp Ngộ và Đàm Huy, v.v... thường rất kính phục tài năng của ngài Huệ Viễn. Điều này hiển thị tài năng xuất chúng của ngài Huệ Viễn cao tột đến bậc nào.
Lúc trú tại núi Hằng Sơn, vì loạn Nhiễm Mẫn (340), xã hội bất an, nên ngài Đạo An phải đến Vương ốc ở núi Nữ Ngột. Nơi đó, trú ẩn chẳng bao lâu, lại vượt sông Hoàng Hà đến Lục Hồn. Gặp thiên tai hỏa nạn, thiếu thốn thức ăn, cùng lúc Mộ Dung Tuấn đang vây hãm Lục Hồn, nên ngài Đạo An phải chuyển hướng đến Tân Dã. Nơi đó cũng bất an, nên ngài Đạo An bảo sư đệ là Trúc Pháp Thái hãy qua Dương Châu, và Trúc Pháp Hòa hãy vào đất Thục, rồi tự dẫn đồ đệ đến Tương Dương. Đương thời, ngài Đạo An được năm mươi bốn tuổi, còn ngài Huệ Viễn được ba mươi hai tuổi. Trong hai mươi lăm năm trường, Huệ Viễn luôn theo sát ngài Đạo An để tu học kinh Bát Nhã, kinh An Ban Thủ Ý, kinh Âm Trì Nhập, v.v... để làm nền tảng tu hành cùng tu tập thiền quán Tiểu Thừa. Đối với ngài Đạo An, kinh Bát Nhã của Đại Thừa cùng thiền quán Tiểu Thừa, đều là giáo pháp của Phật Thích Ca truyền lại, chẳng có chút mâu thuẫn. Giáo lý thì căn cứ trên kinh điển Đại Thừa. Về phương diện thực tiễn, dùng kinh điển Tiểu Thừa làm quy thức căn bản.
Thời gian trú tại Tương Dương, kiến giải của Huệ Viễn cũng tương đồng với ngài Đạo An.
Năm 378, lúc Tần Vương Phù Kiên sai quân đánh chiếm Tương Dương, thái sử Lương Châu là Châu Tự phòng vệ cẩn mật, nhưng qua năm sau Tương Dương thất thủ. Châu Tự bị giải về Trường An. Vì tâm cung kính, nên Phù Kiên cũng cho vời ngài Đạo An đến Trường An. Do đó, giáo đoàn của ngài Đạo An bắt buộc phải bị phân tán. Trong lúc chia tay, ngài Đạo An ân cần khuyến nhủ tất cả đệ tử lâu năm, nhưng chẳng hề nói lời gì đến ngài Huệ Viễn. Vì vậy, ngài Huệ Viễn quỳ xuống, thưa:
- Chỉ có một mình con là chưa được Thầy dạy bảo. Tại sao con lại khác với các sư huynh đệ kia?
Ngài Đạo An cười đáp:
- Người tài trí như con, thì Thầy còn gì để lo lắng cho nữa? Vì vậy Thầy chẳng cần dặn dò điều chi.
Từ đó, đối với ngài Huệ Viễn, ngài Đạo An không còn dạy dỗ điều gì. Sau đó, ngài Huệ Viễn và Huệ Trì, cùng với vài mươi người đệ tử, đồng đến trú tại chùa Thượng Minh ở Kinh Châu. Đương thời, đệ tử của ngài Đạo An là Tăng Phụ đang giữ chức trụ trì chùa Thượng Minh. Ngôi chùa này, đối với chư đệ tử của ngài Đạo An, thật là một tự viện phát khởi pháp duyên thù thắng. Nơi đó, Đàm Dực được thái thú Trường Sa là Thắng Hàm cúng dường chùa Trường Sa.
Trú tại chùa Thượng Minh ở Kinh Châu chẳng bao lâu, ngài Huệ Viễn bèn qua núi La Phù. Trước kia, núi La Phù là nơi mà ngài Đạo An chỉ định cho ngài Huệ Viễn cùng sư huynh đệ là Huệ Vĩnh đồng cư trú tu hành. Trên đường xuôi vào nam, tại Tầm Dương ở Giang Tây, ngài Huệ Viễn thấy núi Lô Sơn tịch tĩnh lạ thường và thật là thắng cảnh tu hành tuyệt vời, có thể giúp an tâm thiền quán. Do đó, ngài Huệ Viễn chọn tịnh xá Long Tuyền làm nơi cư trú và tu hành. Vì ngôi tịnh xá cách xa nguồn suối, nên thiếu nước. Ngài Huệ Viễn bèn ra ngoài tịnh xá, chống cây tích trượng trên đất, bảo:
- Nếu Ta có duyên với ngọn núi này, thì nơi đây hãy vụt ra dòng suối.
Nói vừa dứt lời, từ dưới đất đột nhiên vụt ra dòng suối trong vắt. Chẳng bao lâu, vùng Tầm Dương bị nạn hạn hán. Ngài Huệ Viễn bèn ra gần bờ ao, tụng kinh Hải Long Vương. Đang lúc tụng kinh, đột nhiên một con thuồng luồng từ giữa hồ bay thẳng lên hư không, rồi mưa xuống tràn đầy, khiến dân chúng thu hoạch trúng mùa. Từ đó, tịnh xá Long Tuyền được đổi tên thành chùa Long Tuyền.
Khi ấy, thấy tịnh xá chật hẹp, nên đồng môn là Huệ Vĩnh, thỉnh mời ngài Huệ Viễn sang cùng chung trú ở tại chùa Tâm Lâm. Quan thứ sử Hoàn Y cũng nói:
- Ngài Huệ Viễn vào nam vốn là hoằng dương chánh pháp. Tăng chúng theo Ngài, ngày càng đông đảo. Tuy tôi muốn cúng dường tăng chúng, nhưng khổ nổi, tịnh xá kia lại quá chật hẹp.
Do đó, ông kiến lập thêm một ngôi chùa bên phía đông của núi Lô Sơn, mà sử gọi là chùa Đông Lâm, để làm nơi cư trú cho ngài Huệ Viễn.
Lần nọ, một ngư dân bẩm tấu với thứ sử Quảng Châu là Đào Khản rằng thường thấy trên mặt biển có một ánh sáng thần dị phóng ánh hào quang liên tiếp cả mười ngày. Đào Khản nghe thế bèn đích thân đến nơi đó mà xem xét. Ông ta nhìn thấy tượng Phật do vua A Dục tạo đang nổi trên mặt biển và tỏa ánh hào quang. Vì vậy, ông cung thỉnh về chùa Hàn Khê ở Võ Xương. Ngày nọ, thầy Tăng Trân, vị trụ trì của chùa Hàn Khê, rời chùa đến Hạ Khẩu. Vào lúc ngủ, Thầy mơ thấy chùa Hàn Khê bị cháy rụi, mà chỉ có gian thất thờ tượng Phật, nhờ long thần vây nhiễu hộ trì, mà vẫn còn nguyên vẹn. Tỉnh dậy, thầy Tăng Trân vội trở về chùa, thì thấy nơi nơi đều bị cháy rụi, mà chỉ còn gian thất thờ tượng Phật là y nguyên. Sau này, Đào Khản qua Giang Châu nhận chức thứ sử, nên ông ta sai người đến thỉnh về. Tượng Phật vừa được đặt lên thì thuyền bèn bị chìm. Đào Khản từ lúc trẻ đã nổi danh là một võ tướng tài ba. Tuy nhiên, vì thiếu tâm tín thành, và chỉ thỉnh tượng bằng sức lực, nên không được như ý nguyện. Sau này, con của Đào Khản là Đào Phạm, nghe ngài Huệ Viễn sáng lập chùa Đông Lâm, bèn nhất tâm phụng thỉnh tượng Phật đến chùa đó mà phụng thờ. Trước kia, tượng Phật nặng nề khiến thuyền phải chìm, mà nay nhờ lòng chân thành, tượng Phật lại nhẹ bẵng, nên được thỉnh về chùa. Câu chuyện này hiển thị lực thần thông và đức hạnh thâm cao của ngài Huệ Viễn.
Tại chùa Đông Lâm, ngài Huệ Viễn cũng lập ra một thiền đường, để cùng các hành giả tu thiền quán.
Năm 383, sa môn Tăng Già Đề Bà đến Trường An, phiên dịch quyển A Tỳ Bát Kiền Độ Luận. Năm 385, ngài Đạo An nhập tịch tại Trường An. Năm 386, ngài Huệ Viễn xây xong chùa Đông Lâm. Sau khi Hậu Tần Phù Kiên diệt vong, sa môn Tăng Già Đề Bà cùng với Pháp Hòa đến Lạc Dương. Kiểm thảo những bản dịch xưa thấy có nhiều chỗ sai lầm, nên Pháp Hòa thỉnh sa môn Tăng Già Đề Bà hiệu đính lại. Đến đời Dao Hưng, Pháp Hòa trở về Trường An.
Trước đời ngài Đạo An, đã có các dịch giả phiên dịch những bộ luận của phái Nhất Thiết Hữu Bộ, nhưng chưa hoàn bị. Vì đã từng nghiên cứu kinh tạng, nên ngài Huệ Viễn luôn muốn cầu thỉnh sa môn ngoại quốc dịch lại những bộ kinh luận đó. Nghe tin sa môn Tăng Già Đề Bà đã đến Lạc Dương ngài Huệ Viễn bèn thỉnh mời về Lô Sơn vào năm 391. Nơi đó, sa môn Tăng Già Đề Bà dịch luận A Tỳ Đàm của ngài Pháp Thắng và quyển Tam Pháp Độ Kinh của ngài Thế Hiền. Hai bộ luận này thuộc về phái Nhất Thiết Hữu Bộ. Tuy nhiên, kinh văn của sa môn Tăng Già Đề Bà thật đơn sơ, chưa được trau chuốt, chỉ chuyên ròng giữ nguyên ý. Vì đã từng học tập luận A Tỳ Đàm của Tiểu Thừa dưới tòa của ngài Đạo An, ngài Huệ Viễn xem hai quyển kinh luận này như bảo vật, mà gia công nhuận sắc trau chuốt lời văn.
Ngài Huệ Viễn tuy thích tu thiền quán, nhưng pháp thiền ở vùng Giang Nam chưa được thịnh hành, nên phái đệ tử là Pháp Tịnh, Pháp Lãnh sang Tây Vực cầu kinh điển thiền pháp. Sau này, thiền pháp được truyền sang Trung Thổ, do sa môn Phật Đà Bạt Đà La (đệ tử của đại thiền sư Phật Đại Tiên) mang qua.
Trí Nghiêm vốn là người Tàu. Thầy sang nước Kế Tân, theo học thiền quán với sa môn Phật Đại Tiên ba năm, và tu đạo chứng quả trong mười năm. Thiền định của Trí Nghiêm được đại thiền sư Phật Đại Tiên thường tán thán. Chư tăng xứ Kế Tân thấy lòng chân thành cầu pháp của Trí Nghiêm nên rất khen ngợi. Đương thời, đại thiền sư Phật Đại Tiên là vị tu trì rất nhiều kinh điển về thiền quán. Do lòng thành cầu khẩn của Trí Nghiêm, đệ tử của đại thiền sư Phật Đại Tiên là ngài Phật Đà Bạt Đà La đồng ý sang Đông Độ để truyền pháp thiền.
Đối với kinh điển thiền quán Tiểu Thừa, vào đời Hán có ngài An Thế Cao dịch kinh Thập Nhị Môn, An Ban Thủ Ý. Tuy nhiên, kinh điển thiền quán của Đại Thừa vẫn chưa hoàn toàn được phiên dịch hết. Sau này, do Tăng Duệ thỉnh cầu, ngài Cưu Ma La Thập dịch quyển Tọa Thiền Tam Muội. Quyển kinh này có bốn mươi ba bài kệ, do ngài Cưu Ma La Đà tạo. Hai mươi bài kệ cuối cùng do ngài Mã Minh tạo. Đối với bộ kinh thiền chánh thống này, ngài Huệ Viễn gia công thực tập tu hành.
Sau này, tại Trung Thổ, kinh điển thiền quán mà đại thiền sư Phật Đại Tiên thường hành trì, được sa môn Phật Đà Bạt Đà La phiên dịch. Vượt biển từ nước Kế Tân đến Thanh Châu ở bán đảo Sơn Đông, Phật Đà Bạt Đà La lại qua Trường An. Tuy nhiên, đệ tử của ngài Cưu Ma La Thập là Đạo Hằng dâng biểu lên triều đình, bảo rằng ngôn hạnh của Phật Đà Bạt Đà La thô thiển, chỉ mê hoặc chúng dân, đi ngược lại giới luật của Phật, v.v..., nên không thể ở lại Trường An. Nghe những lời này, Phật Đà Bạt Đà La bảo rằng thân mình nhỏ như loài bọt bèo, nhưng đến đi tự do. Tuy vậy, vì nguyện chưa hoàn thành, nên cảm thấy nuối tiếc. Sau này, Phật Đà Bạt Đà La cùng với Huệ Quán và hơn bốn mươi người khác đến Lô Sơn vào năm 411. Đối với sự kiện tại Trường An, lỗi nơi môn đệ chứ chẳng phải lỗi ở Phật Đà Bạt Đà La. Đã lâu nghe qua thanh danh của Phật Đà Bạt Đà La, lại nghe tin vị sa môn này đến núi Lô Sơn, nên ngài Huệ Viễn rất hoan hỷ ra nghinh đón. Kế đến, ngài Huệ Viễn viết thơ nhờ đệ tử là Đàm Ung đưa cho vua Dao Hưng cùng tăng chúng tại Trường An, để giải oan cho Phật Đà Bạt Đà La. Ngoài ra, Huệ Viễn còn thỉnh Phật Đà Bạt Đà La dịch kinh Tu Hành Phương Tiện Thiền.
Kinh điển thiền quán do Phật Đà Bạt Đà La phiên dịch làm nền tảng căn bản cho sự hưng thịnh của pháp thiền tại vùng Giang Nam. Xưa kia, những kinh điển thiền quán do ngài An Thế Cao và Trúc Pháp Hộ dịch, được Tăng Tiên và Đàm Du khởi xướng tu hành thực tiễn. Lúc Trí Nghiêm qua Tây Vực cầu pháp, Thầy thỉnh mời được Phật Đà Bạt Đà La qua đến Trung Thổ. Từ đó, ở Trung Thổ, kinh điển thiền quán mới được dịch, rồi do Huyền Cao và Huyền Thiệu tương tục kế thừa tu hành.
Tại Giang Nam, do ngài Huệ Viễn tu hành thiền pháp thành thục, nên pháp thiền cũng được hưng thịnh. Các kinh điển thiền quán do Phật Đà Bạt Đà La phiên dịch, ảnh hưởng rất lớn đến sự tu hành thiền quán của ngài Huệ Viễn. Lại nữa, Bát Nhã Đài và Phật Ảnh Quật được xây dựng trước lúc thành lập chùa Đông Lâm, đều do ảnh hưởng tư tưởng của Phật Đà Bạt Đà La.
Theo truyền thuyết, tại núi Nam Sơn ở nước Na Gia Ha La (Nagarahara) có bóng ảnh của Phật đà xưa kia đã từng chế phục rồng độc. Tin này do sa môn Phật Đà Bạt Đà La và Tăng Già Đề Bà khẩu truyền, cùng ngài Pháp Hiển viết lại sau chuyến hành hương sang Thiên Trúc. Tin tưởng vào lời của những vị này, ngài Huệ Viễn thể hội thâm sâu rằng sự cảm ứng giữa Phật và chúng sanh vượt ngoài không gian và thời gian. Ngài xác tín rằng nếu vẽ được bóng ảnh Phật đà thì sẽ khiến cho người xem khởi tâm quán tưởng tượng Phật tức thấy được Phật mà sanh tâm chánh tín. Do đó, Ngài ra sau lưng núi, chọn một địa điểm kế bên dòng suốt để xây ngôi Phật Ảnh Quật (hang có bóng hình Phật, được xây theo lối kiến trúc của Thiên Trúc và Tây Vực), rồi theo lờI diễn tả mà tưởng tượng, vẽ ra một bức tranh Phật. Nhìn xa xa, bức tranh đó có lúc ẩn có lúc hiện trong làn sương khói.
Sáng lập Niệm Phật Xã (cũng được gọi là Bạch Liên Xã vì ở hai bên phía đông và tây gần Bát Nhã Đài có hai hồ sen trắng, nên mới có danh hiệu đó. Đồng thời, hoa sen cũng tượng trưng cho thân tâm của người tu hành; khi đạt được giải thoát tức là vượt khỏi bùn nhơ phiền não;) ngài Huệ Viễn được hậu thế tôn sùng là sơ tổ tông Tịnh Độ. Vào tháng bảy năm 402, ngài Huệ Viễn và một trăm hai mươi ba người như Lưu Di Dân, Trương Dã, Điều Tích Chi, v.v... (đa số là cư sĩ tại gia), đồng hội tụ trước tượng Phật A Di Đà tại tịnh xá Bát Nhã Đài, phát nguyện tu niệm Phật tam muội (y theo kinh Ban Chu Tam Muội) để cầu vãng sanh qua cõi Tây Phương Cực Lạc. Tín chúng vân tập tại nơi đó, tin tưởng rằng nghiệp báo thiện ác liên hệ cả ba đời. Vì vậy, ngày đêm họ chuyên cần tu tịnh nghiệp, nhất tâm niệm danh hiệu Phật A Di Đà, để cầu được vãng sanh. Đầu tiên, mỗi người đều tự tu hành riêng. Sau này, ngài Huệ Viễn nhóm tụ tất cả mọi người trong Niệm Phật Xã, mà đồng chuyên tu niệm Phật với nhau để sớm có hiệu quả. Ngài Huệ Viễn cũng viết bài Pháp Xã Tiết Độ Tự (hiện nay không còn) để quy định pháp thức tu hành niệm Phật cho tăng chúng và cư sĩ.
Trong bài 'Niệm Phật Tam Muội Thi Tập Tự', ngài Huệ Viễn viết rằng gọi là tam muội vì mọi tư tưởng và tâm niệm đều tập trung chuyên nhất, nên dẹp trừ được hết mọi vọng tưởng. Tư tưởng chuyên nhất thì ý niệm không phân tán, nên vọng tưởng được tiêu trừ, và hơi thở cũng nhẹ nhàng, tinh thần cũng lắng đọng, khiến tự tâm thấu suốt muôn việc. Công đức niệm Phật tam muội thật vô lượng, mà hành trì lại dễ dàng. Niệm Phật tam muội lại rất thích hợp với bi nguyện ứng hóa cứu độ chúng sanh của chư Phật. Niệm Phật rời tâm phân biệt, tức là nhập vào tam muội. Nếu nhập vào niệm Phật tam muội và thấy được Phật, thì phiền não tự tiêu trừ, và các sự mê hoặc cùng nghiệp lực thâm sâu cũng bị cắt đứt. So sánh niệm Phật tam muội với những tam muội khác thì pháp này thù thắng hơn hết. Chủ trương của ngài Huệ Viễn là niệm Phật phải thấy được Phật trong định tam muội.
Trong quyển 'Đại Thừa Đại Nghĩa Chương' có ghi lại các lời đàm luận và vấn đáp về niệm Phật tam muội giữa ngài Cưu Ma La Thập và Huệ Viễn. Thật ra, pháp niệm Phật tam muội của ngài Huệ Viễn vốn y cứ theo chương Niệm Phật trong quyển kinh Ban Chu Tam Muội. Hạnh Phẩm trong kinh Ban Chu Tam Muội bàn về pháp niệm Phật tam muội. Trong đó có nói rõ niệm Phật tam muội giống như trong mộng thấy Phật, và thỉnh vấn nơi Phật, khiến dẹp trừ những sự nghi hoặc. Nghĩa là Phật hiện trong định do đạt được niệm Phật tam muội, tương đồng với trong mộng thấy Phật. Tất cả đều xuất phát từ tâm tưởng mà ra. Kinh Ban Chu Tam Muội thuyết rằng nếu y theo giới mà tu trì không hủy phạm, thì nhờ năng lực của hành giả và thần thông oai lực của chư Phật, sẽ đắc được định.
Đối với việc thấy được chư Phật khi chứng được niệm Phật tam muội, ngài Cưu Ma La Thập bảo rằng có ba trường hợp: Thứ nhất, sau khi đã đắc được thiên nhãn thông và thiên nhĩ thông, chư Bồ Tát có thể đi khắp mười phương, thỉnh cầu chư Phật thuyết pháp mà đoạn trừ nghi vấn. Thứ hai, người chưa có năng lực thần thông, nhưng nhờ thường niệm Phật A Di Đà mà tâm chuyên chú một nơi, thì sẽ thấy được Phật và dẹp trừ nghi hoặc. Thứ ba, lúc tu pháp niệm Phật, dầu đã xa lìa tham dục hay chưa, ngay trong mộng tự thấy được chư Phật vào đời quá khứ, hiện tại, vị lai. Ba điều đó được gọi là niệm Phật tam muội.
Ban Chu Tam Muội là phương pháp tu hành rất hiệu nghiệm cho chư Bồ Tát chưa xả tham dục. Đây là pháp tu hành căn bản, khiến chuyên chú niệm Phật, đắc được tam muội, mà thấy được Phật. Kinh Ban Chu Tam Muội thuyết rằng người tu niệm Phật tam muội, quyết rời ngôn ngữ, chỉ chuyên tâm nhất ý, thường nhớ niệm Phật A Di Đà tại cõi Tây Phương, phóng ánh hào quang sáng soi khắp cả mười phương. Trong kinh thường nói rằng thân của chư Phật không do các duyên mà sanh, chẳng có tự tánh, nên rốt ráo tịch tĩnh, như huyễn như hóa. Hiểu được như thế thì niệm Phật để đắc được tam muội tức sẽ thấy Phật, thật không hư dối.
Đương thời, vì kinh Vô Lượng Thọ chưa được dịch, nên ngài Huệ Viễn chỉ y cứ vào kinh Ban Chu Tam Muội do ngài Chi Lâu Ca Sấm dịch, mà tu hành niệm Phật tam muội.
Năm 402, ngài Huệ Viễn sáng lập Niệm Phật Kết Xã, khiến thu hút rất nhiều ẩn sĩ. Đương thời, các vương quốc Hồ tộc tại vùng Hoa Bắc cứ tiếp nối nhau hưng thạnh rồi suy vong. Triều Đông Tấn tại Giang Nam cũng bị suy vi cùng tột: Tôn Ân phản loạn; Hoàn Huyền mưu phản. Đó là điềm diệt vong của một triều đại. Những người chán chường thế cuộc tao loạn, thích tìm nơi ẩn cư trong chốn rừng núi, ngày một đông. Ngoài ra, vào lúc sơ thời triều Đông Tấn, phong trào thanh đàm chí hướng ẩn dật rất thạnh hành, mà tại Hội Kê ở Giang Nam, người khởi xướng là Chi Độn. Cuối đời Đông Tấn, do Tôn Ân phản loạn, nên khiến xã hội rối loạn bất an. Vì vậy, Lô Sơn, ngọn núi nằm trong lưu vực sông Trường Giang, là nơi các ẩn sĩ thường để tâm đến. Không những có phong cảnh tao nhã tịch tĩnh u huyền, mà Lô Sơn lại là nơi không khuất phục quyền thế của triều đình, cùng có ngài Huệ Viễn thường cư trú. Hoàn Huyền tuy ra lịnh chỉnh lý các tăng đoàn Phật giáo ở những nơi khác, nhưng không dám chạm tới Lô Sơn. Vì thế, người có chí sống ẩn dật thường đua nhau đến Lô Sơn tu hành dưới tòa của ngài Huệ Viễn.
Lưu Di Dân vốn là quan huyện. Mến mộ thanh danh oai đức của ngài Huệ Viễn nên sau khi người mẹ qua đời, ông ta bèn cáo chức từ quan, rồi lên núi Lô Sơn tu đạo. Ông là người đã cùng với các pháp hữu khác phát nguyện niệm Phật cầu vãng sanh. Nửa năm sau, nhờ luôn chuyên cần niệm Phật, Lưu Di Dân đắc được niệm Phật tam muội, nên lúc đi trên đường, thấy Phật hiện tướng trên hư không, phóng ánh hào quang sáng, chiếu rạng trời đất. Ông lại thấy chính thân mình tỏa ánh sáng màu vàng, và được y ca sa đắp, cùng tắm trong ao sen báu.
Về sau, Lưu Di Dân có viết quyển Bạch Liên Xã Thệ Văn. Trong đó, Lưu Di Dân bảo rằng nếu thường quán tưởng tượng Phật và niệm Phật thì rất dễ dàng được oai thần lực, tam muội lực, công đức bổn nguyện lực của Phật gia trì, khiến mau chóng thành tựu đạo nghiệp.
Sau này, ngài Huệ Viễn cùng vua Hoàn Huyền đàm luận về việc chỉnh lý tăng đoàn Phật giáo và việc sa môn không cần cung kính quốc vương. Nhờ có Ngài mà tăng đoàn tại Lô Sơn giữ giới rất nghiêm túc, và công hạnh thực tiễn tu trì niệm Phật, ngày một vững chắc. Ngoài ra, với sáu mươi tám tuổi đời, thấy sanh mạng vô thường, nên ngài Huệ Viễn chuyển việc nghiên cứu lý Bát Nhã sang sự niệm Phật tam muội, để mong được vãng sanh vào lúc lâm chung. Do đó, vì mến mộ hạnh tu niệm Phật của ngài Huệ Viễn, nên rất nhiều người kéo nhau đến Lô Sơn.
Người đương thời thường xưng tán mười tám vị hiền giả tại Lô Sơn như: Ngài Huệ Viễn, tôn giả Phật Đà Bạt Đà La, tôn giả Phật Đà Da Xá, Đạo Sanh, Huệ Vĩnh, Huệ Trì, Tăng Duệ, Đàm Thuận, Đàm Hằng, Đạo Bính, Đạo Kính, Đàm Thân, Lưu Di Dân, Lôi Thứ Tông, Chu Tích Chi, Nam Dương Tông Bỉnh, Nam Dương Trương Dã, Nam Dương Trương Thuyên.
Ngài Huệ Viễn cùng ngài Cưu Ma La Thập vấn đáp lẫn nhau, mà hậu thế viết thành 'Đại Thừa Đại Nghĩa Chương', hay vấn đáp về yếu nghĩa Đại Thừa giữa hai ngài Huệ Viễn và Cưu Ma La Thập.
1/ Vấn đáp về pháp thân chân thật.
Ngài Huệ Viễn hỏi: Kinh thuyết rằng pháp thân là không đến không đi, bất sanh bất diệt, cùng Niết Bàn tương đồng, mà pháp thân Bồ TátẠ có thể thấy. Nếu như thế thì sao pháp thân khác với sắc thân?
Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Pháp thân của Phật tức do pháp tánh mà sanh. Sắc thân là thân biến hóa của Phật, khác biệt với pháp thân. Thật tướng của pháp thân đồng với Niết Bàn, là không làm và không tạo tác.
Nghe qua lời này, ngài Huệ Viễn xác nhận: a/ Thật tướng của pháp thân là không đến không đi, và đồng với niết bàn tịch tĩnh. b/ Pháp thân không phải là thân bốn đạiẠ, năm cănẠ, mà chỉ như ánh trăng soi đáy nước, như gương chiếu bóng hình. c/ Pháp thân tức là Phật tánh hằng thường bất biến.
2/ Ngài Huệ Viễn lại vấn hỏi về pháp thân chân thật.
Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Tiểu Thừa dùng ba mươi bảy phẩm trợ đạoẠ, mười lựcẠ, mười tám pháp bất cộngẠ, cùng các công đức vô lậu của đức Phật mà cho rằng đấy chính là pháp thân. Pháp thân của Đại Thừa là không sanh không diệt, tuyệt đường ngôn ngữ, đồng tướng Niết Bàn tịch tĩnh, công đức vô lậu, v.v... Hai loại kiết sửẠ, hai loại chướng ngạiẠ, và tất cả pháp hữu viẠ, đều là hư vọng không thật. Pháp thân của Bồ Tát, tuy bảo rằng có bốn đạiẠ và năm cănẠ, nhưng không đồng với sắc thân biến hóa, và chẳng có sanh tử, cùng biến hiện khắp nơi.
3/ Vấn đáp về loại pháp thân chân thật.
Ngài Huệ Viễn hỏi: Rất nhiều kinh điển thuyết rằng Phật có đủ 32 tướng tốt, 80 vẻ đẹp, sáng soi rực rỡ, đoan chánh không ai sánh bằng. Vậy thì pháp thân chân thật có giống như thế chăng?
Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Kinh Mật Tích thuyết rằng thân của Phật không có cố định, tự do tự tại, ứng theo cơ duyên của chúng sanh mà biến hiện; nghĩa là mỗi chúng sanh đều thấy hình sắc của Phật có khác nhau.
4/ Vấn đáp về thọ lượng của pháp thân chân thật.
Huệ Viễn hỏi: Thọ mạng của chúng sanh phàm phu đều do nghiệp lực chủ định. Pháp thân của Bồ Tát y cứ vào đâu mà chủ định?
Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Pháp thân có hai loại. Thứ nhất, pháp tánh thường trụ bất biến, giống như hư không, và lìa tất cả hý luận hữu vi và vô vi. Thứ hai, lúc Bồ Tát chưa thành Phật, nhưng đắc được lục thông, mà gọi đó là pháp thân. Dẫu có Phật hay không có Phật ra đời, pháp tánh vẫn thường trụ bất hoại.
5/ Vấn đáp về sự tu hành để đạt ba mươi hai tướng tốt.
Huệ Viễn hỏi: Người muốn đạt được ba mươi hai tướng, là dùng thân thể phiền não và nghiệp lực mà tu, hay dùng pháp thân mà tu? Nếu dùng thân thể phiền não đầy nghiệp lực mà tu, thì thân vốn đã đầy phiền não cùng nghiệp lực, sao có thể tu thành tựu ba mươi hai tướng tốt được? Nếu dùng pháp thân mà tu, nhưng pháp thân không đủ khẩu nghiệp, sao tu hành được? Mục đích tu hành là phải thành Phật. Vậy thì Phật là pháp thân chân thật hay thân biến hóa?
Ngài Cưu Ma La Thập đáp: Tuy có thể dùng giả thuyết mà gọi pháp thân, nhưng không thể tìm cầu trên sắc tướng. Tâm và mắt có thanh tịnh mới thấy được Phật. Ngay cả Bồ Tát Thập địa cũng chưa thấy được pháp thân chân thật. Chỉ có chư Phật đầy đủ Phật nhãn mới thấy được thôi.
Ở Trung Thổ vào đương thời, vẫn chưa có thuyết Niết Bàn thường trụ, chỉ thường đàm luận thọ mạng dài ngắn. Về lý này, ngài Huệ Viễn nói:
- Phật tánh rộng lớn cùng cực, bao trùm khắp hư không pháp giớI, nên thường hằng bất biến. Làm sao còn hạn cuộc nơi sanh mạng dài ngắn!
Do đó, Ngài trước tác quyển 'Pháp Tánh Luận'. Vua Dao Tần rất khâm phục oai phong, đạo đức, tài trí của Ngài, nên thường viết thơ thỉnh vấn, cúng dường không ngừng, cùng sai Dao Sùng đem tặng tượng Phật bằng châu ngọc. Quyển Đại Trí Độ Luận vừa phiên dịch xong, vua Dao Tần đặc biệt phái người đem quyển luận này đến núi Lô Sơn, thỉnh Ngài viết lời tựa. Thấy lời văn của quyển luận này rất dài dòng, nhưng ý nghĩa thâm sâu, khiến bất tiện cho người sơ học nghiên cứu tu tập, nên Ngài viết thêm mục tiết, lược viết về yếu nghĩa, phân thành hai mươi quyển. Ngài cũng viết bài tựa, để hiển bày tông chỉ, giúp học giả bớt chút ít phiền toái.
Lúc đi ngang qua Lô Sơn, trên đường dẫn quân đánh dẹp quân của Ân Trung Kham, Hoàn Huyền phái người mời Ngài xuống núi. Ngài bèn bảo vì bịnh, nên từ chối không xuống núi. Hoàn Huyền phải tự thân lên núi. Đương thời, các quan tả hữu của Hoàn Huyền tâu:
- Trước kia, Ân Trung Kham đã từng vào núi lễ kính Huệ Viễn. Hy vọng sau khi vào núi, Đại Vương chớ có lễ bái Huệ Viễn.
Hoàn Huyền đáp:
- Ân Trung Kham sắp chết rồi, sao lại so sánh với Ta!
Vừa lên núi, Hoàn Huyền liền nghiêm túc cung kính lễ bái, rồi hỏi Ngài:
- Nho giáo bảo rằng thân thể lông tóc thọ nơi cha mẹ, nên bậc trượng phu không dám làm tổn hoại. Sao Đại Sư lại cắt bỏ râu tóc?
Ngài đáp:
- Nhà nho vì lập thân, nên phải bảo toàn hình tướng. Hành đạo trong nhà Phật chỉ bảo toàn tâm tánh. Lý lập thân và hành đạo không đồng nhau.
Hoàn Huyền nghe lời này, khen ngợi không ngừng. Tuy muốn hỏi han nhiều, nhưng không biết nói gì. Chốc lát sau, Hoàn Huyền hỏi:
- Đại Sư có lời chúc phước nào không?
Ngài nói:
- Càu nguyện cho Đại Vương được an ổn, và kẻ thù của Ngài cũng như thế!
Hoàn Huyền khen ngợi:
- Thật trong đời chưa từng gặp người như Đại Sư!
Củng cố được quyền thế xong, Hoàn Huyền muốn kéo Ngài vào để thêm vây cánh, nên viết thư chiêu dụ, khuyên Ngài hãy ra làm quan, phò vua giúp nước. Tuy nhiên, Ngài viết thư từ chối. Chẳng bao lâu, thấy trong tăng đoàn Phật giáo có những điều tệ hại, Hoàn Huyền hạ lịnh bắt một số tăng nhân hoàn tục, bảo:
- Trừ những vị sa môn thường hoằng dương Phật pháp, hoặc nghiêm trì giới luật, còn những người khác phải nên hoàn tục. Tuy nhiên, Lô Sơn vốn là nơi cư trú của các bậc tu hành, nên không cần phải kiểm soát.
Biết Hoàn Huyền bức ép tăng chúng hoàn tục, Ngài bèn viết thơ gởi cho ông ta: "Phật giáo suy đồi, bị ô uế đã lâu. Mỗi lần nghĩ đến việc này khiến tâm tôi bứt rứt muôn phần. Tôi tự nghĩ đây chẳng phải là ý trời, mà do con người tạo thành việc trầm luân. Hiện nay thấy việc thanh trừ sa môn tạp nhạp, thật là thuận theo ý trời, chỉ cần thiết là mọi việc phải rõ ràng phân minh. Hoàng Thượng phải lấy tâm chánh trực để uốn nắn những kẻ tà ngụy gian trá, hầu mong họ quay về nẻo chánh. Nếu được như thế thì mạng lịnh đào thải tăng sĩ bê tha sẽ có hiệu lực. Những tăng sĩ chân thật cũng không còn bị thế tục hiềm nghi. Từ đó, đạo Phật cùng gia phong của thế tục được hưng thạnh, và ngôi Tam Bảo cũng được hưng long!"
Vì văn thể của pháp lịnh chưa được hoàn chỉnh, nên Hoàn Huyền vui mừng tiếp thọ ý kiến của Ngài.
Tấn Thành Đế lên ngôi lúc còn nhỏ tuổi, nên Dựu Băng phụ chánh. Dựu Băng cho rằng sa môn phải lễ bái nhà vua, mà quan thượng thư Linh Hà Sung, quan bộc xạ Trử Dực, v.v... đều không đồng ý. Đương thời, các quan sử trong triều đều tán thành ý kiến của Linh Hà Sung, Trử Dực, v.v... Đương thời, do nền chánh trị bất ổn, dân chúng không biết nương vào nơi đâu. Lúc còn làm Sở Vương và trấn thủ tại Cô Thục, Hoàn Huyền viết thơ gởi cho Ngài, bảo rằng sa môn phải lễ kính hoàng đế: "Sa môn không cung kính bậc vương giả, thì chẳng hợp với thế tình".
Ngài Huệ Viễn viết thơ đáp: "Tại sao xưng là sa môn? Vì sa môn khai mở cho người ngu muội con đường giải thoát. Phải quên đi nhân ngã, thì sẽ cùng người trong thiên hạ đồng đạt đạo giải thoát. Các bậc cao minh cùng người phàm phu cũng mong muốn được lợi lạc ấy. Lại nữa, y ca sa vốn không phải y phục của triều đình. Bình bát cũng không phải vật của triều nội. Sa môn là người thoát ngoài thế tục, nên không thể cung kính vương gia".
Hoàn Huyền tuy kiên trì giữ ý kiến của mình, nhưng sau khi xem qua thơ của Ngài, bèn phải nhượng bộ. Lên ngôi xong, Hoàn Huyền lập tức hạ lịnh:
- Phật pháp rộng sâu vi diệu, chẳng phải người phàm phu dự biết được. Hôm nay Ta đã lên ngôi hoàng đế. Để biểu thị sự tôn sùng Phật giáo, Ta ban lịnh là từ nay về sau, các sa môn không cần phải lễ kính nhà vua.
Hơn ba mươi năm, thân Ngài không rời núi, và chân không vào nhà người thế tục. Mỗi lần tiễn khách, lấy Hổ Khê làm giới hạn, rồi quay trở về. Mồng sáu tháng tám năm 416, ngài Huệ Viễn cảm bịnh, không uống ăn mà thị tịch, thọ tám mươi ba tuổi. Đạo tục xa gần đều thương tiếc.
Những trước tác của ngài Huệ Viễn như luận, tự, khắc, tán, thi, thư, có mười quyển và hơn năm mươi thiên, được ghi trong quyển 'Xuất Tam Tạng Ký Tập' như sau: Lô Sơn Tu Hành Phương Tiện Thiền Kinh Thống Tự, A Tỳ Đàm Tâm Tự, Tam Pháp Độ Tự, Đại Trí Sao Luận Tự, Pháp Luận, Vấn Như Pháp Tánh Chân Tế, Vấn Thật Pháp Hữu, Vấn Phân phá Không, Bát Nhã Kinh Vấn Luận Tự, Vấn Pháp Thân, Trùng Vấn Pháp Thân, Vấn Chân Pháp Thân Tướng Loại, Vấn Chân Pháp Thân Thọ, Vấn Pháp Thân Ứng Cảm, Vấn Pháp Thân Phi Sắc, Vấn Tu Tam Thập Nhị Tướng, Vấn Pháp Thân Phật Tận Bổn Tập, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Tự, Vô Tam Thừa Thống Lược, Tam Pháp Độ Kinh Tự, Pháp Xã Tiết Độ Tự, Ngoại Tự Tăng Tiết Độ Tự, Tiết Độ Tự, Tỳ Kheo Ny Tiết Độ Tự, Sa Môn Bất Kính Vương Giả Luận, Sa Môn Đản Phục Luận, Thiền Kinh Tự, Thích Thần Túc, Vấn Niệm Phật Tam Muội, A Tỳ Đàm Tâm Tự, Vấn Biến Học, Trùng Vấn Biến Học, Vấn La Hán Thọ, Vấn Trụ Thọ, Thích Tam Báo Luận, Minh Báo Ứng Luận, Biện Tâm Ý Thức, Thích Thần Danh, Nghiệm Kỳ Danh, Vấn Luận Than, Vấn Hậu Thức Truy Ức Tiền Thức, Vấn Tứ Tướng, Đại Trí Luận Yếu Lược, Vấn Đại Thừa Trung Thâm Nghĩa Thập Bát Liệu Hợp, Vấn A Tỳ Đàm Tâm Tự, Diệu Pháp Liên Hoa Kinh Tự, Tu Hành Phương Tiện Kinh Tự, Tam Pháp Độ Tự, Pháp Tánh Luận, Niệm Phật Tam Muội Thi Tập Tự, Tương Duơng Trượng Lục Kim Tượng Tụng, Vạn Phật Ảnh Minh.
Công cuộc hoằng pháp ở Lô Sơn, bắt đầu là ngài Huệ Viễn, và lại có thêm ba vị sư huynh đệ đến đó hỗ trợ là: Huệ Trì, Huệ Vĩnh, và Đàm Ung.
II. Ngài Huệ Trì [^]
Đã cũng từng trú và cực lực hoằng dương chánh pháp tại Lô Sơn hơn năm mươi năm. Về sau, ngài Huệ Trì qua đất Thục, trụ trì chùa Long Uyên, hoằng dương Phật pháp rộng lớn.
III. Ngài Huệ Vinh [^]
Đã từng trú tại chùa Tây Lâm ở Lô Sơn, giáo hóa rất nhiều đệ tử.
IV. Ngài Huệ Sung [^]
Sau khi ngài Đạo An nhập tịch, ngài Huệ Sung sang Lô Sơn, hỗ trợ ngài Huệ Viễn hoằng dương chánh pháp.
Ngoài ra, còn có ba vị đệ tử của ngài Đạo An như: Đàm Dực, Pháp Ngộ, Đàm Huy, thường hoằng pháp tại Kinh Châu. Do sự nỗ lực và cống hiến công sức của ba vị đệ tử này mà Phật giáo tại vùng Kinh Châu phát triển hưng thạnh.
V. Đàm Dực [^]
Lúc ngài Đạo An còn ở tại Tương Dương, thái thú Đằng Xá ở Trường Sa lập chùa nơi đó, rồi thỉnh cầu ngài Đạo An phái đệ tử đến đó để trụ trì, Ngài Đạo An bảo thầy Đàm Dực:
- Sĩ thứ ở Kinh Sở muốn cầu tông sư để giáo hóa dân chúng nơi đó. Ngoài con ra, thì còn có ai!
Thế nên, thầy Đàm Dực vâng mạng mà vào nam, rồi trụ trì tại chùa Trường Sa. Khi bọn cuồng khấu vào cướp phá Giang Lăng, thầy Đàm Dực chạy lánh nạn qua vùng Thượng Minh, rồi kiến lập chùa Thượng Minh nơi đó. Vùng Giang Lăng được bình yên, thì thầy Đàm Dực trở lại chùa Trường Sa. Thầy Đàm Dực theo ngài Đạo An, xuất gia từ năm mười sáu tuổi. Thầy nghiêm trì giới luật cẩn mật, học thông 3 tạng kinh điển. Lúc đến đất Thục, thầy Đàm Dực được thái sử Mao Cừ cung kính tôn trọng, cùng cúng dường thức ăn. Lần nọ, vì trong cơm có trứng gà, nên thầy Đàm Cừ gạt ra rồi mới dùng. Thấy cử chỉ nghiêm trì giới luật cẩn mật, Mao Cừ lại càng thêm cung kính, cúng dường cả hàng ngàn đấu gạo cho thầy Đàm Dực. Chùa Trường Sa sau này trở thành trung tâm quan trọng của Phật giáo tại vùng Giang Lăng.
VI. Pháp Ngộ [^]
Cũng thường đến chùa Trường Sa giảng kinh thuyết pháp. Dưới tòa của thầy Pháp Ngộ có hơn bốn trăm đồ chúng.
VII. Đàm Huy [^]
Chiến loạn ở Tương Dương phát khởi thì thầy Đàm Huy cùng với ngài Đạo An rời vùng đó. Trên đường đi, thầy Đàm Huy lưu trú lại chùa Thượng Minh (do thầy Đàm Dực xây cất) ở Kinh Châu. Nơi đó, thầy Đàm Huy vẽ một tấm ảnh về dung mạo của ngài Đạo An để lễ bái. Từ đó, chư tín đồ vùng Giang Lăng thường hướng về phía tây (tức Trường An) để lễ bái Bồ Tát Ấn Thủ (tức ngài Đạo An).
VIII. Thầy Đạo Lập [^]
Vốn là đệ tử của ngài Đạo An tại Trường An. Thầy Đạo Lập thường ẩn cư tọa thiền một mình trong hang núi. Thầy thường ngồi suốt bảy ngày mà không đứng dậy. Sau này, thầy Đạo Lập đột nhiên xuống núi, vân tập tăng chúng, khai giảng kinh Đại Phẩm Bát Nhã. Qua vài ngày sau, không bịnh mà thị tịch.
Đó là các vị đại đệ tử xuất chúng tiêu biểu giữa hàng ngàn đệ tử xuất gia của ngài Đạo An. Họ nghiêm trì giới luật cẩn mật, cùng tu thiền khiến trí huệ cao vời, và thừa thọ đạo phong của ngài Đạo An, rồi tận tâm tận sức hoằng dương Phật pháp tại Trường An, Lô Sơn, Kinh Châu, Thục Xuyên, v.v...
C. Ngài Trúc Pháp Nhã [^]
Ngài là người Hà Gian, oai nghi đoan chánh, lại có phong độ khí khái, tâm tánh thanh thoát, tự tại, không câu nệ, chấp nê. Lúc nhỏ thường học Thiện Trường Kinh, sử Bách Gia, cùng các ngoại điển khác. Lúc trưởng thành, thông đạt giáo nghĩa Phật pháp. Nhờ thừa thọ sự giáo huấn của ngài Phật Đồ Trừng, nên ngài Trúc Pháp Nhã thâm đạt nghĩa lý Phật pháp dễ dàng. Vì thuở nhỏ đã từng thông suốt tư tưởng Lão Trang, nên một số sĩ phu, quần thần, danh sĩ rất tôn kính Ngài và thường theo học đạo. Những đệ tử của Ngài đều là những người đã từng thành công trong việc nghiên cứu ngoại điển, nhưng đối với giáo nghĩa Phật pháp cũng còn nhiều chỗ nghi ngại mù mờ. Do đó, Ngài cùng với thầy Khương Pháp Lãng, v.v... dung hòa giáo nghĩa Phật pháp với kinh sử bách gia, Lão Trang thuật ngữ, để giảng giải Phật pháp, mà gọi phương pháp đó là 'Cách Nghĩa'. Ví dụ, Ngài thường dùng chữ 'vô' của Lão Trang để giải thích chữ 'không' của đạo Phật. Dùng ngôn ngữ của cổ thư để diễn đạt ý nghĩa Phật pháp. Sau này, ngài Tỳ Phù, Đàm Tướng, v.v... vận dụng phương thức 'Cách Nghĩa' này để dạy dỗ đồ chúng.
Vì đã liễu giải nghĩa lý thâm huyền, nên không luận là ngoại điển hay nội kinh, Ngài có khả năng đàm luận giảng thuyết. Đương thời, Ngài thường cùng với Đạo An, Trúc Pháp Thái đồng thảo luận những nghĩa lý huyền hoặc và nơi thâm áo của kinh điển, để hiển minh yếu nghĩa Phật pháp. Sau này, Ngài lập chùa viện tại Cao Ba, vân tập hàng trăm đồ chúng.
Phật giáo lúc sơ thời được hoằng truyền rộng rãi vào tầng lớp sĩ phu ở Trung Thổ phần lớn là nhờ phương pháp 'Cách Nghĩa'. Do đó, người đại biểu cho 'Phật Giáo Cách Nghĩa' chính là ngài Trúc Pháp Nhã vào thời Đông Tấn.
Đàm Tập, đệ tử của Trúc Pháp Nhã, dùng giáo nghĩa của thầy mình làm nền tảng cho sự hoằng dương Phật pháp, nên được Thạch Tuyên của Hậu Triệu rất tôn kính.
D. Ngài Tăng Lãng, núi Thái Sơn, hưng khởi Phật giáo ở Sơn Đông [^]
Ngài Tăng Lãng vốn là người Kinh Triệu. Lúc nhỏ đã từng đi khắp nơi tham học vấn đạo nơi các bậc cao đức, và thân cận tu học theo sự giáo huấn của ngài Phật Đồ Trừng. Lần nọ, đang trò chuyện với các vị pháp hữu trên đường, Ngài bèn bảo họ:
- Trong chùa của các vị dường như có người vào trộm cắp đồ vật.
Nghe như thế, họ vội trở về chùa, bắt được kẻ trộm, mà chưa bị mất gì cả. Ngài cũng có năng lực thần dị giống như ngài Phật Đồ Trừng. Lúc trưởng thành, Ngài trở về Quan Trung, chuyên ròng giảng kinh, chủ yếu là kinh Phóng Quang Bát Nhã (do Trúc Thúc Lan dịch vào năm 291). Ngài thủ trì trai giới, thân mặc vải bố, chí hướng vượt ngoài thế tục, bác học uyên thâm, chiêm nghiệm được những việc lành dữ.
Đời Tiền Tần Phù Kiên, niên hiệu Hoàng Thủy nguyên niên (351), Ngài qua trú tại núi Thái Sơn. Thấy phong cảnh hùng vĩ thanh vắng của rừng nội suối ngòi, Ngài lập am Kim Dư nơi đó. Nghe thanh danh của Ngài, hơn một trăm người, lũ lượt kéo nhau đến cầu đạo. Do lòng cầu đạo chân thành của họ, Ngài đối đáp không màng mỏi mệt. Trên núi Thái Sơn, cũng có một đạo sĩ ẩn tu là Trương Trung. Ông cũng có đồ đệ, nhưng thường dùng thân mà giáo hóa.
Ngài Đạo An và Trúc Pháp Hòa đã từng đến thăm Ngài tại cốc Kim Dư. Lần đó, trên đường leo lên đỉnh núi Thái Sơn để đến cốc Kim Dư, thấy ngọn núi cao chót vót, thầy Trúc Pháp Hòa than thở:
- Ngọn núi này cao quá đỗi, mà người du hành lên đây lại rất nhiều. Nếu chẳng may bị trượt chân, thì sẽ rời thế gian, rồi không biết đi về đâu!
Ngài Đạo An nói:
- Nầy Pháp Sư! Chỉ cần thiết là đạo tâm phải kiên cố vững bền, thì lo gì vào đời sau sẽ đi đâu? Nếu tâm không có đạo, thì mới bi thương như thế!
Vua Tiền Tần là Phù Kiên, phái sứ giả đến Thái Sơn, thỉnh mời ẩn sĩ Trương Trung về triều. Sau khi tiếp kiến, Phù Kiên tặng y áo, nhưng Trương Trung không thọ nhận, chỉ thuật lại sự tích và hành tung dị thường của ngài Tăng Lãng cho nhà vua nghe. Phù Kiên bèn sai sứ đem thơ đến cầu thỉnh Ngài về kinh đô. Thơ viết: "Hoàng Đế cung kính thăm vấn Tăng Hòa Thượng. Đại Thánh thần thái cao siêu, che chở giáo hóa muôn loài chúng sanh, ví như biển cả núi cao trưởng dưỡng quần sinh, trời đất sanh thành vạn vật, dưỡng tồn sự sinh tử. Tinh thần này được gọi là Trừng Tịch. Trẫm ước mong được hội ngộ Thánh Tăng. Ngặt vì núi non cách trở muôn trùng, không thể xa giá. Nay sai quan sử đem xe cung nghinh, thỉnh Ngài hãy giá lâm đô thành Kinh Ba. Trẫm cũng cúng dường vài cân vàng để phết sơn tôn tượng Phật, và ba mươi sấp lụa mỏng, cùng ba người nô bộc, để cung phụng quét dọn hầu hạ. Ngưỡng vọng Ngài nạp thọ cho..."
Cùng đem theo lá thơ đó, sứ giả triều đình cũng mang theo phẩm vật, nô tỳ đến để cúng dường cung phụng cho Ngài. Ngài bèn từ chối nhận lễ vật, và viết thơ gởi Phù Kiên: "... Bần đạo vốn đã xuất gia, tâm khô kiệt nơi rừng sâu núi lạnh, tinh thần suy nhược, chưa từng có khả năng hoằng dương Phật pháp. Bần đạo nào hay biết Điện Hạ từ phương xa gởi thơ đến vấn hỏi Sơn Tăng, rồi ân cần triệu về kinh đô. Bần đạo thật cảm kích từ ân của Thánh Thượng. Tuy nhiên, vì khí lực suy nhược, không thể kham nổi đường xa và thọ nhận những lễ vật này".
Đây là biểu hiện thái độ không phan duyên thọ hưởng ân sủng của vua chúa, mà chỉ thích cư trú nơi núi rừng để giữ đạo tu hành thanh khiết của Ngài.
Khi muốn chỉnh lý tăng đoàn Phật giáo, Phù Kiên lại ban sắc lịnh: "Tăng Pháp Sư giới đức cao tột; đồ chúng cũng nghiêm trì giới luật thanh tịnh. Vì vậy, đối với giáo đoàn tại núi Côn Lôn (tức núi Thái Sơn), không cần phải tra xét".
Cũng như thầy bổn sư, tức ngài Phật Đồ Trừng, ngài Tăng Lãng nghiêm trì giới luật cẩn mật, nên được Phù Kiên tôn kính trọng vọng. Sau này, Phù Kiên công phá Tương Dương, rồi thỉnh ngài Đạo An về Trường An (như đã kể ở phần trên).
Ngài cũng được vua Thác Bạt Khuê (386 409) của Hồ tộc tôn kính, sai sứ đem lễ vật cúng dường đến núi Thái Sơn như lụa tơ, bình bát bằng bạc, v.v...
Vua Dao Hưng (393 415) đời Hậu Tần cũng sai sứ đem ba cấp kim phù đàn, một bộ kinh, và một bảo đài đến núi Thái Sơn, cúng dường Ngài.
Vua Đông Tấn, Hiếu Võ Đế, cũng từng gởi thơ đến thăm hỏi Ngài. Sau khi nước Tiền Tần của Phù Kiên diệt vong, vùng Hà Bắc do Hậu Yến Mộ Dung Thùy, và vùng Hà Nam do Hậu Yến Mộ Dung Đức cai quản. Hai vị vua này cũng từng gởi thơ và lễ vật đến cho Ngài. Mộ Dung Thùy sai sứ đem thơ và lễ vật đến cúng dường. Thơ viết: "Nguyện cầu quân binh không còn chém giết lẫn nhau để bốn bể đều được thái bình. Nay Ta đem tâm thành kính, sai sứ giả mang một trăm xấp lụa, năm mươi cân bông vải, ba bộ y ca sa, để cầu mong Ngài chú nguyện cho thiên hạ thái bình".
Hậu Yến Mộ Dung Đức viết thơ: "Trẫm vốn vô đức, sanh làm dị dân, vào nhằm thời loạn, chợt được kế thừa vương vị, đều nhờ Hòa Thượng và chư thần đại ân gia hộ. Vì vậy, không những sai sứ mang tơ lụa đến cúng dường, mà phong cho Ngài danh hiệu là Đông Tề Vương, cấp cho hai huyện Thái An và Trường Thanh ở Sơn Đông. Thư chưa viết hết ý. Xin hiểu tâm của Trẫm!"
Qua lời này, thấy rõ ngài Tăng Lãng được Mộ Dung Đức ban hiệu là Đông Tề Vương, và ban cho hai huyện để xây chùa viện tháp tự, cùng được miễn thuế để tạo công đức.
Lúc đến cốc Kim Dư lập am tranh tịnh xá, Ngài thường tu thiền và hiển hiện những thần lực để trị loài hổ, cứu dân trong vùng. Thông thường loài hổ là hóa thân của của các vị thần núi. Ngài hàng phục được loài hổ, tức là đã khiến thần núi tín phụng Phật pháp. Vì có danh tiếng phục hổ, nên người đương thời thường gọi Ngài là 'Tăng Công Cốc'.
Ngài Tăng Lãng tuy không để lại những trước tác gì, nhưng lại dùng thân giáo hóa đồ chúng, và dùng năng lực thần kỳ cùng tài trí cơ phong để hóa độ vua chúa. Am tranh nơi cốc Kim Dư của Ngài, sau này được xây cất thành chùa Thần Thông, và là nơi hội tụ của các bậc thiền gia, cùng học giả đến tu hành, điển hình là ngài Tăng Ý (vị chứng quả Tu Đà Hoàn), thiền sư Hàng Ma Tạng (đệ tử của ngài Thần Tú), v.v... Thiền sư Hàng Ma Tạng cũng dùng hình thức không y theo văn tự mà giáo hóa đồ chúng như ngài Tăng Lãng tại đó. Thiền Sư cũng xưng tán ngài Tăng Lãng là 'Á Lưu Thiền Giả'.