Kính chào quý thầy, quý cô và toàn thể quý Phật tử!
Hôm nay tôi muốn chia sẻ cùng quý vị một câu chuyện trong Kinh Phật. Câu chuyện này được trích từ Đại Trí Độ Luận quyển 12 trong Đại Chánh Tạng quyển 25, trang 145b9 26. Trong đó, luận nhắc đến kinh “Phật Thuyết Độc Xà Thí Dụ”. Bộ Kinh này vốn dĩ được trích từ Kinh “Tạp A Hàm” quyển 43 (kinh số 1172) trong Đại Chánh Tạng, quyển 2, trang 313 b 314a1.
Trong Kinh, Phật kể về một người bị phạm tội. Nhà vua muốn phạt anh ta, liền ra lệnh cho người này giữ một cái thùng nhỏ. Đây không phải là một cái thùng bình thường! Bên trong có nuôi bốn con rắn độc, nhà vua ra lệnh cho anh ta cần phải chăm sóc những con rắn độc này thật chu đáo, và còn đút thức ăn cho chúng, phải vuốt ve, tắm rửa chúng, có lúc phải dẫn cho chúng ra ngoài để thay đổi không khí, sau đó dẫn chúng vào lại trong thùng. Nhà vua nói rằng: Nếu mà anh làm cho chúng nó sanh lòng không vui, bốn con rắn này sẽ cắn anh, nếu không bị chết thì cũng phải bị thương.
Anh này kỳ thật rất có trí tuệ. Anh ta nghĩ: đối diện với một con rắn đã khó khăn rồi, huống chi phải tiếp xúc với bốn con đều là rắn độc! Nếu đến gần, chắc chắn sẽ thiệt mạng. Do đó, anh ta liền mang cái thùng này đi thủ tiêu và tìm đường trốn thoát.
Nhà vua biết tin liền sai năm người vác dao đuổi theo. Anh ta có tính cảnh giác rất cao, biết được năm tên lúc nãy mang dao sắp rượt đến nơi nên khéo ẩn nấp, nhờ thế tạm thời thoát nạn. Nhà vua lại cho một người khẩu Phật, tâm xà, miệng thì nói với tội nhân rằng, chúng tôi muốn tốt cho anh, nhưng trong tâm lại rất nham hiểm. Người này khuyên anh ta: Nếu anh ngoan ngoãn chịu khó làm theo lệnh nhà vua, nuôi mấy con rắn độc này thì có gì mà khó khăn. Anh ta thầm nghĩ: “Ông này thật thích nói đùa, vậy thì ông tới đó mà chăm sóc!” “Anh ta lại suy nghĩ: “Những con rắn độc này không dễ gì làm bạn với chúng được”, cho nên anh ta lại trốn đi.
Sau khi trốn đi, lại có sáu tên cướp âm mưu đuổi theo giết anh ta. Anh ta chạy đến một thôn hoang vắng để náu thân; Cảnh vật nơi này lạnh ngắt, vô cùng xơ xác điêu tàn, mọi vật đều có vẻ hư hoại. Có một người đến và nói với anh ta: Trong thôn u ám này cũng thường có bọn cướp hay lui tới, nếu bọn chúng xuất hiện, họ sẽ lấy mạng của anh. Anh này vừa nghe xong thì vô cùng hoảng sợ. Vì đã có bốn con rắn độc, năm người cầm dao rượt bắt, lại thêm gặp người có cái tâm nham hiểm, bây giờ trong thôn lại thường có bọn cướp. Tất cả đều đang muốn đuổi theo giết, cho nên anh ta lại càng cố sức chạy trốn. Đang lúc vội vàng chạy, anh ta thấy một dòng sông, nước đang chảy rất xiết, bèn nghĩ rằng: Bờ bên này có rất nhiều nguy hiểm đang rình rập; nhìn thấy bên kia bờ sông đẹp đẽ, trong lành, thật không gì có thể so sánh, nhưng không có cầu bắt ngang thì làm sao mà qua sông được. Anh ta lại tính tiếp: “Biết làm sao đây?”. Thế là anh ta bèn nhanh tay chặt một ít cây, bện thành chiếc bè gỗ rồi nằm phục lên trên, dùng tay và chân khua nước đưa bè qua sông, qua đến bờ bên kia được thoát nạn.
Đức Phật dạy rằng: Cái thùng nhỏ là thí dụ cho cái gì? Chính là thí dụ cho cái thân của con người.Thân thể của chúng ta là do tứ đại: đất, nước, gió và lửa tạo thành sắc thân giả hợp. Với tấm thân này, mỗi ngày chúng ta đều cho nó ăn uống, tắm rửa, săn sóc, vuốt ve. Chúng ta đã cho nó hưởng thụ quá nhiều thứ. Nhưng đút thức ăn hoặc chăm sóc nó, cũng chính là chúng ta đang tận tụy chăm sóc cho bốn con rắn độc! Những con rắn độc này được ví cho tứ đại. Nếu tứ đại không hòa hợp, thân thể sẽ sanh bệnh hoặc tử vong.
Năm người vác dao rượt bắt, được ví cho ngũ uẩn, mà chúng sanh thì chấp trước ngũ uẩn.
Những tên cướp bên trong, được ví như sáu món mà chúng sanh ham thích.
Thôn vắng được thí dụ cho sáu căn. Thôn vắng này là dựa theo kinh mà nói. Bởi vì nó quá cũ, chỉ cần đụng đến là nó sẽ hư hoại. Chính vì thế mà sáu căn cũng là pháp vô thường giả tạm.
Trong thôn vắng cũng có những tên cướp ẩn hiện, đây chính là dụ cho sáu trần ở bên ngoài. Sáu trần tức chỉ cho: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp.
Dòng sông mà anh ta nhìn thấy được thí dụ cho tam ái, gồm: dục ái, sắc ái và vô sắc ái. Đây chính là sông phiền não.
Bờ bên này có nhiều sự sợ hãi, ví như chúng ta đang ở trong thế gian chịu sự luân hồi; bờ bên kia thật tươi mát, ví như vô dư Niết bàn.
Làm chiếc bè, nương vào chiếc bè mà qua được sông được ví như thực tập bát chánh đạo.
Dùng tay và chân khua nước đưa bè qua sông, được ví cho sự tinh tấn dũng mãnh đến bờ bên kia.
Qua bờ bên kia là đến với cứu cánh Niết bàn.
Câu chuyện này cũng được nhắc đến trong kinh Tạp A Hàm số 1172 và trong Đại Trí Độ Luận quyển số 12.
Trong Đại Trí Độ Luận, ví dụ này được giải thích thêm rằng: vị vua chính là ma vương, ma vương sai tội nhân đến chăm sóc rắn. Cái thùng nhỏ được ví cho con người, con người khẩu Phật tâm xà là chỉ cho nhiễm trước.
Câu chuyện trong kinh Tạp A Hàm (kinh số 4, thuộc Đại Chánh Tạng quyển 4, trang 503a6 a) cũng có nét tương đồng với câu chuyện này. Chuyện kể rằng, trong quá khứ có một vị thầy ở trong núi tu hành. Trong núi đó có rất nhiều loại rắn độc, mà vị này sợ nhất là rắn! Cho nên thầy ở dưới gốc cây dựng chỗ ngồi thiền rất cao, mong được an toàn, không bị rắn đến quấy nhiễu. Nhưng trong lúc đang ngồi tĩnh tâm, điều làm thầy khổ tâm nhất là rất dễ bị hôn trầm và ngủ gục, hễ ngồi xuống là gục không thể kiềm chế được, không hay biết cơn buồn ngủ đến từ lúc nào.
Lúc đó, có một vị trời thương xót thầy, vì muốn giúp cho thầy tinh tấn tu tập, liền cười rất lớn để đánh thức Thầy. Thầy nghe tiếng ồn liền giật mình tỉnh dậy, nhưng trong thoáng chốc lại ngáy như cũ. Vị trời không còn cách nào hơn nữa, nên đợi lúc trời tối, hét thật lớn: "Đạo nhân! Đạo nhân! Rắn độc đến rồi! Rắn độc đã đến rồi! Thầy rất sợ rắn độc, nên lập tức vùng dậy đốt đuốc lên, tìm xem rắn độc đang ở đâu, để tìm cách đuổi chúng đi.
Tìm hoài không thấy đâu, thầy tiếp tục ngồi thiền, sau đó lại không ngừng ngủ gục!
Vị trời này lại hô lớn: “Rắn độc đến rồi! Rắn độc đến!”.
Ba lần bảy lượt như vậy, không chịu được sự quấy nhiễu nên Thầy bực bội lớn tiếng: Vị trời kia! Ông tại sao lại nói dối vậy? Làm gì có rắn độc, tại sao ông cứ làm cho người khác giật mình sợ hãi thế hả?
Vị trời liền đáp: Sao không quán sát những con rắn độc ở bên trong mà chỉ biết sợ hãi những con rắn độc ở bên ngoài? Trên thân có bốn con rắn độc, thầy không diệt trừ, mà cứ muốn đi diệt trừ những con rắn độc bên ngoài. (Câu chuyện này nhắc đến bốn con rắn độc, còn câu chuyện trong Kinh Tạp A Hàm (kinh số 1172) nói về tứ đại. Chúng ta thì chấp trước vào bốn đại này.)
Nghe vị trời nói xong, thầy suy nghĩ: Mình nếu quán sát thật sâu sắc, thì cái thân này cũng chỉ là sự giả hợp của tứ đại, nhưng mình lại vô cùng yêu quý nó, không ngừng giúp nó trau chuốt, ăn những món ngon, mặc những thứ đẹp đẽ lại còn chăm sóc nó.
Mình cứ mãi làm nô lệ cho nó, cuối cùng cũng chính nó dẫn mình đi vào trong ba đường ác để chịu khổ. Nó không những không biết báo ơn mà còn là thứ vô ơn bạc nghĩa đệ nhất. Mình cứ chăm sóc cái thân này, cũng như đút thức ăn để nuôi dưỡng những con rắn độc, để rồi bị chúng nó quay đầu lại cắn, cũng như bị ngũ uẩn (sắc, thọ, tưởng, hành, thức), lục suy (Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) làm lu mờ, làm tổn thương (ngũ uẩn tức chỉ cho năm tên giặc vác dao). Con người muốn cầu sắc, thọ, tưởng, hành, thức muốn được hưởng lạc thọ, nhưng ngày ngày lại tiếp xúc toàn là khổ đau.
Lục suy bao gồm: sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Chúng sanh muốn được an lạc, nhưng lại bị lục trần làm thiện căn bị tổn thương, nên chúng còn có tên gọi là lục suy. Vì không hiểu biết tấm thân này là sự vay mượn của tứ đại, bị bốn con rắn độc cắn, lại bị dao của bọn cướp chém, khiến cho thiện tâm bị tổn thương trầm trọng, nên chúng sanh đã bị trôi lăn trong luân hồi từ vô thỉ cho đến hôm nay, không thể giải thoát được.
Thầy này lại suy nghĩ: Lời dạy của vị trời rất có lý. Mình không nên chỉ biết sợ những con rắn độc ở bên ngoài, chính những con rắn ở bên trong mới đáng ghê sợ. Vậy nên thầy đã hiểu rõ được pháp tứ đế: khổ, tập, diệt, đạo, thể ngộ được: Vô thường, không, vô ngã. Trước lúc trời sáng, thầy đã đoạn được phiền não, chứng đắc sáu loại thần thông và được giải thoát.
Câu chuyện này muốn dạy cho chúng ta: Cái độc bên ngoài, chỉ hại đến cái sắc thân giả tạm, chính cái độc tiềm ẩn ở bên trong mới có đủ khả năng làm tổn hại đến huệ mạng của chúng ta; thứ độc bên trong mới là độc hại nhất, chúng ta cần phải tiêu diệt gấp.
Chúng ta cùng nhau tinh tấn.
Lớp giáo dục Phật Pháp Phước Nghiêm, ngày 10 tháng 03 năm 2012