Kính thưa quí vị Tăng ni và Phật tử kính mến.
Hôm nay chia sẽ cùng quí vị một câu chuyện trong kinh Phật, câu chuyện này trích từ kinh “Tỳ kheo Na Tiên” từ trang 704a~ trang 711a trong “Đại chánh tạng” quyển thứ 32.
Ngày xưa, có một ngôi chùa trong núi tên là Ca La Hoàn ở đất nước kia. Trong chùa có năm trăm vị xuất gia và đều đã chứng quả A la hán. Mỗi tháng chùa có sáu ngày lễ tụng kinh đến sáng hôm sau.
Lúc đó, trên núi cũng có một con voi chúa ở gần chùa. Voi chúa biết chùa có sáu ngày lễ hội tụng kinh, nên mỗi khi tới ngày lễ, nó đều đến chùa nghe kinh. Chúng trong chùa đều biết voi thích nghe kinh nên chờ nó đến rồi mới bắt đầu tụng kinh. Con voi này rất chuyên tâm nghe kinh. Nó nghe cho đến sáng mà không ngủ gục, cũng không ngồi nằm cử động tùy tiện.
Do voi chúa thường nghe kinh và lễ bái Phật trong quá khứ ấy, sau khi chết tái sanh làm con trai của môt nhà bà la môn. Vì trong nhà không nghe được kinh Phật và không thấy tăng sĩ, nên anh ta rời nhà vô rừng sâu tu đạo bà la môn. Nơi cư trú của anh, gần đó còn có một vị bà la môn tu hành, hai người thường tới lui chào hỏi và trở thành bạn bè.
Trong hai người, một người nghĩ rằng: “Tôi rất ghét thế gian này, vì theo đuổi chức vị mà ưu sầu đau khổ, già nua, bịnh tật, sau khi chết sẽ bị đọa vào trong địa ngục, ngạ quỉ, súc sanh, nghèo nàn, nên tôi muốn cạo bỏ râu tóc, đắp y cà sa xuất gia thành sa môn tìm cầu giải thoát vô vi xuất thế gian.
Còn người kia thì nghĩ rằng: “Tôi muốn trở thành quốc vương, muốn gì được nấy, thần dân trong thiên hạ đều thuộc về ta, nghe lời dạy và mệnh lệnh của ta.” Hai người đều tự mình phát nguyện như vậy.
Hai người sau khi mạng chung, tái sanh trong cõi người. Trong đó có một vị hồi trước muốn làm vua thì sanh làm hoàng tử con vua bên cạnh bờ biển, được cha mẹ đặt tên là Di Lan. Còn một người trong quá khứ muốn tìm cầu đạo xuất thế vô vi Niết bàn, thì sanh ở huyện Qui Tân nước Thiên Trúc, cha mẹ đặt tên là Đà
Lạp. Đà Lạp khi sanh ra trên mình được đắp một tấm cà sa; do hồi trước phát nguyện muốn xuất gia nên khi ra đời như ý nguyện thế. Khi đó, cùng ngày trong nhà có một con voi chúa cũng ra đời, người Thiên Trúc gọi voi là “Na”, cha mẹ lại đặt tên cho con trai là “Na Tiên” .
Na Tiên sau đó xuất gia, ngày đêm tinh tấn tu hành, không hề giải đãi, sau cùng chứng được quả A la hán.
Tỳ kheo Na Tiên chuyển đến ở trong chùa Tiết Chỉ Ca nước Xá Kiệt ở Thiên Trúc, có một người bạn trong quá khứ đó là Thái tử Di Lan ở bên cạnh bờ biển.
Thái tử Di Lan lúc nhỏ rất thích đọc kinh điển ngoại đạo, thông thạo tất cả tư tưởng lý luận, những người đến vấn nạn chưa từng có ai thắng nổi, sau khi cha mẹ qua đời, Di Lan đăng quang làm quốc vương.
Vua Di Lan hỏi đại thần ở bên cạnh: “bậc tu hành và những người dân trong nước, có ai có thể cùng ta biện luận kinh pháp không?”
Đại thần bẩm báo rằng: “Có một vị tu tập Phật pháp, mọi người gọi ông ta là Sa môn. Vị này trí huệ quảng bác, thông đạt, có thể cùng quốc vương biện luận kinh pháp đạo lý.”
Vua Di Lan nghĩ: “Thật vậy sao?” Liền sai người thỉnh mời Tỳ kheo Na Tiên đến cùng đàm luận.
Nội dung biện luận rất dài, tôi chỉ trích trong đó một đoạn nhỏ như sau:
Vua Di Lan hỏi Tỳ kheo Na Tiên: “con người sau khi chết, chủ thể chuyển kiếp qua đời sau là gì?”
Tỳ kheo Na Tiên trả lời: “Chuyển kiếp qua đời sau gọi là “danh” (đó là tinh thần) và “thân” (nhục thể).” (Đó là danh và sắc, là tinh thần và nhục thể.)
Vua Di Lan lại hỏi: “là tinh thần và nhục thể của người đó trực tiếp chuyển kiếp qua đời sau hay sao?”
Tỳ kheo Na Tiên trả lời: “Thưa không phải vậy, không phải tinh thần trong quá khứ chuyển qua đời sau, mà nhục thể trong quá khứ cũng không phải trực tiếp chuyển qua đời sau; mà là những gì tinh thần và nhục thể đã tạo nghiệp thiện và ác trong đời này, do mối quan hệ nghiệp thiện và nghiệp ác này mà đầu thai ở đời sau.
Nhà vua nói: “Nếu đời này dùng “danh” và “thân” tạo nghiệp ác và nghiệp thiện, mà thân này sẽ không đầu thai ở đời sau, vậy bất cứ tạo nghiệp thiện hay ác ở đời này, sao không thể giải thoát trực tiếp để sau không còn phải chịu các thứ đau khổ?” Có lẽ vua Di Lan nghĩ rằng: “thân ta không chuyển qua đời sau, vậy ta đã tạo nghiệp thiện ác cùng với thân đời sau không có quan hệ gì cả! Như vậy không phải ta có thể làm bất cứ việc thiện ác hay sao?”
Na Tiên đáp: “Ngài cho rằng đời này tạo nghiệp thiện hay nghiệp ác, cái “thân” đời này không có chuyển qua đời sau, như vậy có thể đạt được giải thoát sao? Thật ra, nếu con người không ngừng tạo các nghiệp ác hoặc thiện, nếu phiền não không có đoạn trừ, nhất định sẽ cảm nhận một thân ngũ ấm khác thọ báo ở đời sau, do đó vẫn không thể đạt được giải thoát.”
Na Tiên nêu một ví dụ: “ Giả như có một người ăn trộm dưa của người khác, bị chủ nhân bắt được, chủ nhân dắt tên ăn trộm đến trước nhà vua và nói rằng: “Người này đã ăn trộm dưa của tôi.” Tên ăn trộm nói: “Tôi không có ăn trộm dưa của người này! Người này trồng là cây giống không phải trồng dưa. Tôi lấy là trái dưa, anh ta trồng là cây giống, sao lại nói tôi là ăn trộm?
Tôi không có lấy dưa của anh ta, tôi không có tội!”
Na Tiên hỏi nhà vua: “Giữa hai người tranh luận, ai có lý, ai không có lý?”
Nhà vua nói: “đương nhiên là người trồng cây có lý, vì cây dưa giống là do anh ta trồng, tên ăn trộm kia không có đạo lý, chính xác là có tội.”
Na Tiên hỏi: “Người ăn trộm vì sao có tội?”
Vua nói: “Đã nói là tên ăn trộm có tội, là vì nó không có trồng cây dưa giống, đương nhiên là không có trái dưa. Mà người trồng dưa đã gieo xuống hạt giống dưa, hạt giống ở trong đất nảy mầm, lớn lên mới thành trái dưa được chứ!”
Na Tiên nói: “Con người cũng như ví dụ này vậy. Đời này dùng “danh” và “thân” tạo nghiệp thiện ác, thực ra không phải “danh” và “thân” trực tiếp luân chuyển qua đời sau, mà là nghiệp thiện ác. Tạo nghiệp rồi nên cảm nhận có một thân ngũ ấm khác chịu quả báo. Đời này đã tạo các nghiệp thiện, ác là nguồn gốc căn bản để tái sanh trong tương lai (nghiệp thiện ác là cội gốc).”
Na Tiên nói tiếp: “Ví như có người ăn trộm lúa của người khác, bị chủ nhân bắt được và nắm áo trách: “Tại sao mày ăn trộm lúa của tao”, tên trộm nói: “Tôi mới không ăn trộm lúa của ông! Bởi vì thứ ông trồng là mầm lúa, cái tôi lấy là hạt lúa, sao lại nói tôi ăn trộm?” Hai người giằng co qua lại, sau đó đến trước vua thưa lại những lời như vậy.
Na Tiên hỏi nhà vua: “Hai người đó, người nào có lý, người nào không có lý?”
Nhà vua trả lời: “Người trồng lúa có lý, tên trộm không có lý.” Na Tiên hỏi: “Làm sao biết người ăn trộm không có lý?”
Nhà vua nói: “cây lúa là do người gieo mầm mới thành cây lúa, thì đương nhiên là của ông ấy rồi! Tên trộm không có gieo mầm, mà đã không có nhân duyên trồng cây thì làm sao mà gặt được lúa chứ?”
Na Tiên nói: “Con người cũng như ví dụ này vậy. Đời này dùng “danh” và “thân” tạo nghiệp thiện ác, thực ra không phải “danh” và “thân” trực tiếp luân chuyển qua đời sau, mà là nghiệp thiện ác. Tạo nghiệp rồi nên cảm nhận có một thân ngũ ấm khác chịu quả báo, đời này đã tạo các nghiệp thiện ác là nguồn gốc căn bản để tái sanh trong tương lai (nghiệp thiện ác là cội gốc).”
Na Tiên lại nêu tiếp một ví dụ: “Ví như mùa đông lạnh rét, có người muốn đốt lửa trong phòng để sưởi ấm, sau đó người này để lửa như vậy rồi bỏ đi, không ngờ rằng, lửa bén lên bức tường và cháy rụi cả căn nhà. Chủ nhà bắt được người đốt lửa, kéo đến trước mặt nhà vua thưa rằng: “Người này đã vứt lửa làm cháy toàn bộ căn nhà của tôi rồi!” Người đốt lửa nói: “Tôi chỉ đốt chút xíu lửa để sưởi ấm thôi, tôi không có đốt nhà của ông!” Na Tiên hỏi nhà vua: “Ai là người có lý?”
Nhà vua nói: “Người đốt lửa vô lý, vì lửa lớn là do hắn đốt từ lửa nhỏ mà thành.”
Na Tiên nói: “Đời người cũng như ví dụ này vậy. Đời này đã tạo các nghiệp thiện ác là nguồn gốc căn bản để tái sanh trong tương lai.”
Na Tiên lại nêu một ví dụ: “Giả như có người ban đêm đốt đèn sáp gắn lên trên tường, muốn để rọi sáng thấy đường ăn cơm. Nhưng đèn sáp cháy đến đụng vách tường gỗ và không bao lâu căn nhà đã bị cháy rụi, ngọn lửa rất mạnh, sau đó thì cháy lan ra, cả thành phố bị đốt tiêu tan. Dân trong thành phố rất giận dữ, trách anh ta rằng: “Tại sao ngươi lại đốt cháy cả thành phố chứ?”. Người đốt đèn nói: “Tôi chỉ thắp cây đèn sáp nhỏ để chiếu sáng thấy đường ăn cơm thôi, cháy cả thành phố là lửa lớn, không phải là lửa nhỏ do tôi đốt!”
Mọi người cứ tranh luận như vậy không ngừng, giằng co kéo nhau đến trước mặt nhà vua.”
Na Tiên hỏi nhà vua: “Suy cho cùng thì ai có lý và ai không có lý?”
Nhà vua nói: “Người thắp nến không có lý.”
Na Tiên hỏi: “Làm sao ngài biết như vậy?”
Nhà vua trả lời: “Người thắp nến là nguyên nhân tạo ra lửa lớn. Vì sao khi ăn cơm xong, anh ta không thuận tay tắt lửa đi? Kết quả đã để lửa lớn thiêu cháy cả thành phố!”
Na Tiên nói: “Con người cũng như ví dụ này vậy. Đời này dùng tinh thần và thể xác tạo nghiệp thiện ác, do đây mà nghiệp thiện ác cảm nhận có một thân ngũ ấm khác chịu quả báo, đời này đã tạo các nghiệp thiện ác là nguồn gốc căn bản để tái sanh trong tương lai. Con người do vô minh ngu xuẩn mà tạo các nghiệp thiện ác, nên mới có luân hồi trong ba cõi mà không thể giải thoát khỏi .”
Câu chuyện này đáng để chúng ta suy nghĩ:
Mọi người nghe qua câu nói “lửa nhỏ cháy rừng” rồi chứ! Đó là đốm lửa nhỏ chút xíu có thể đốt cháy cả cánh đồng. Lại có câu nói là “một niệm sân tâm khởi, năng thiêu công đức lâm (một đốm lửa vô minh, có thể thiêu cháy rừng công đức). Nếu như bình thường tâm không khéo điều phục, chỉ cần khởi một niệm sân, lửa nhỏ sẽ biến thành lửa lớn, thiêu cháy nguyên cả rừng công đức.
Chúng ta vừa mới khởi niệm ác cũng như đốm lửa nhỏ vậy, nếu không khéo điều phục nó, nó sẽ vô tình bốc cháy lên, không chỉ thiêu hủy rừng công đức của mình, mà còn khiến cho mọi người sinh phiền não.
Một hạt giống chút xíu, không nhất định là bảo trì nguyên trạng như vậy, tương lai có thể lớn thành cây đại thọ, ra hoa, kết trái. Hạt giống và sự trưởng thành của cây cối hay kết thành hạt, tuy hình dáng không giống nhau, nhưng cây đại thọ và trái cây đều từ hạt giống nhỏ xíu mà trưởng thành.
Đức Phật đã từng nói: “nếu như có một người lấy tâm thanh tịnh cúng dường Phật, tương lai sẽ có quả báo rất lớn.”
Có người nói: “Làm gì mà có chuyện ấy! Tôi bố thí có một chút xíu, làm sao tương lai có thể sanh lên cõi trời được quả đại phước báo chứ?”
Đức Phật bèn nói: “ngươi có thấy qua hột giống của cây chưa? Có một chút xíu nhưng cây phát triển rất lớn. Khi cây trưởng thành thì hình dáng của cây và hạt giống không giống nhau. Do vậy không nên cho rằng hạt giống vĩnh viễn chỉ là hạt giống.” Cũng vậy, đời này tạo các nghiệp thiện, ác cũng như hạt giống vậy, hạt giống sẽ vĩnh viễn không phải là hạt giống nhỏ xíu; Tạo nghiệp rồi, nếu như tràn đầy phiền não, nhân duyên hòa hợp, đời sau có thể sẽ có quả báo lớn. Hình trạng của người và súc sanh không đồng, nếu như tạo nghiệp ác tương lai sẽ cảm thọ quả báo súc sanh. Cũng như vậy, hình tướng của súc sanh cùng với người hiện tại chúng ta tuy không giống, nhưng là cái nhân cảm thọ quả báo súc sanh, thì cũng là do con người tạo nghiệp ác mà thành.
Do vậy, không nên nói hiện tại chỉ thấy hạt giống nhưng không thấy quả, cho là không có vấn đề gì. Thật ra, chỉ cần nhân duyên đầy đủ, hạt giống sẽ kết trái. Có câu nói “Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Phàm phu chưa thấy quan tài chưa đổ lệ; Nhưng Bồ tát tin sâu nhân quả, họ biết rằng một khi đã gieo nhân, nếu không hết lòng sám hối, không khéo tu tập, tương lai nhân duyên hòa hợp, quả sẽ hiện hành. Cho nên, nghiệp là nhân; báo là quả. Nhân quả đời đời không có dễ chịu gì.
Nghiệp lực không mất, quả báo không có thoải mái chút nào.
Mà cái nhân này, trừ nghiệp ra còn có phiền não. Phiền não có hai tác dụng: một là phát ra nghiệp (tạo nghiệp), ngoài ra còn là nuôi dưỡng nghiệp. Tuy đã tạo nghiệp, nhưng nếu phiền não không còn nuôi dưỡng, có thể duyên thiếu nên chưa sanh; Còn như đã tạo nghiệp, phiền não lại không dứt, trong tương lai có thể mắc quả báo.
Mọi người nghĩ rằng: “đã tạo nghiệp ác khi tái sanh sẽ mắc quả báo ác luân hồi trong ba cõi, vậy ta tạo nghiệp thiện có thể không cần đến ba cõi hay sao? Y theo Phật pháp đã nói, nếu đã tạo nghiệp thiện hữu lậu, còn mang ngã chấp phiền não tạo nghiệp thiện, cũng sẽ đắc được phước báo nhân thiên, nhưng không ra khỏi tam giới. Cho nên chúng ta nên cố gắng tu giới định huệ, tu nghiệp vô lậu, phiền não đoạn tận, không còn tạo nghiệp mới có thể ra khỏi tam giới được giải thoát. Khích lệ cùng đại chúng
Phúc Nghiêm, lớp giáo dục mở rộng, ngày 15 tháng 3 năm 2014