Home > Khai Thị Niệm Phật
Người Niệm Phật Tốt Nhất Là Chẳng Vọng Cầu Khai Ngộ
Cư Sĩ Huỳnh Lão | Sa Môn Thích Viên Giáo, Việt Dịch


Khai ngộ - thật chẳng phải mỗi người tu hành đều có thể thu hoạch được. Người niệm Phật không được vọng cầu khai ngộ mà tăng nhiều thêm một việc ở nơi tâm đầu, thì tăng nhiều thêm một chướng ngại.

Khai ngộ chẳng phải là việc nói dễ dàng như thế, nếu lời dễ dàng như thế thì hàng ngũ Tăng Ni ở chùa đều đã khai ngộ cả rồi.

Người niệm Phật tập thiền tĩnh tọa, thì tĩnh tọa là “Niệm Phật”, chẳng phải là tham thiền, chỉ quán, cũng chẳng phải là luyện khí. Người niệm Phật tĩnh tọa (ngồi yên tĩnh), là niệm Phật (mặc niệm), niệm cho thuần thục danh hiệu Phật, trong tâm có Phật, nhất tâm bất loạn thì tốt, có thể được niệm Phật tam muội càng tốt. Chẳng nên đem vấn đề khai ngộ làm mục tiêu, coi đó là tâm tình thu hoạch ngoài ý muốn mà tĩnh tọa, ngộ không khai cũng chẳng thể thất vọng, nếu tâm tình và sự việc yên tĩnh mà còn mong cầu vấn đề khai ngộ, ngộ khai không được, Phật niệm cũng không xong, đến lúc cả hai đều rơi vào trống không!

Muốn khai ngộ, cần phải tự lượng mình là căn khí bực nào? Có thể khai ngộ hay không? nếu còn cái tâm muốn khai ngộ, thì trong tâm niệm cũng không thanh tịnh rồi, ngộ làm sao có thể khai?

Tưởng đến sự khai ngộ, thì khởi lên sắp xếp một sự nhận thức rất là cơ bản ứng đối vấn đề khai ngộ, như: tĩnh tọa phải ngồi làm sao? Quá trình điều thân, an tâm, khai ngộ cảnh giới như thế nào? v.v... đều cần có nhận thức, mới có thể lúc ngồi không xảy ra lầm lạc, hoặc được chút kiểu lạ hiển hiện, hoặc được chút huệ hiểu biết, linh cảm giống giống, hoặc như huyễn vọng tưởng, hoặc thấy ánh sáng thấy hình ảnh, hoặc người nói lời ra tức khắc ngộ được, hoặc bị ma dối gạt, lại gật gù đắc ý cho là ta đã khai ngộ rồi!

Khai ngộ chữ “ngộ” này là chỉ cho rất nhiều người muốn khai ngộ, cho là ngộ, căn bản không có NGỘ! ngay cả bên kia bức tường cũng nhìn chẳng thấy, khai làm sao ngộ!

Ta chẳng phải là người đã trải qua khai được ngộ, căn bản không có tư cách để làm việc “khai ngộ”, chỉ đem chỗ biết sơ sài nói ra một chút ít mà thôi.

“Khai ngộ” thật chẳng phải là ngồi miết mới có thể khai ngộ, đi đứng cũng có thể khai ngộ, nghiên cứu kinh điển hoặc nghe một câu nói, xem một động tác cũng có thể khai ngộ được, anh là người thượng thượng căn khí mới có khả năng, cũng chẳng phải mỗi lần ngồi hai ba tiếng đồng hồ như thế được khai ngộ, đơn giản dễ dàng như thế sao?

Khai ngộ chữ “Ngộ” này, dùng miệng để giảng, dùng văn tự viết đều rất khó mà biểu đạt rõ ràng, nay dùng chữ “mê” để nói ngược lại mà có thể khá hơn một chút; ví dụ như đối với một sự việc, một câu nói, hoặc xem hoặc tưởng, xem hoặc tưởng ở trong đó, đi cũng tưởng, đứng cũng tưởng, ngồi cũng tưởng, tưởng một cách chuyên tâm nhất ý, tưởng... tưởng... tưởng..., tưởng đến nỗi có người khác đến ở trước mặt cũng chẳng hay biết, đây gọi là MÊ, người đời gọi là “sinh si đần”, thậm chí người khác kêu réo anh, anh cũng không hay biết, đây gọi là TRƯỚC MÊ (mắc dính mê), người đời gọi là “thất thần”, mê đến cực điểm (nhập định), mười ngày hai mươi ngày, bèn tỉnh lại (xuất định), muôn cảnh tượng vũ trụ nhìn thấy hết, cũng biết cả, nhìn càng xa, biết càng nhiều, quả vị thì càng cao.

NGỘ, có đại tiểu ngộ. Tiểu ngộ là ra không khỏi ba cõi, vì sao? Vì ngoài ba cõi nhìn không thấy, cũng không biết! Ví như muốn đi nước khác, mà ngay cả việc mua vé máy bay cũng không biết, thì làm cách nào để đi?

Tĩnh tọa, đầu tiên cần phải điều hòa thích nghi qua lại, khí mới thuận nhẹ nhàng, không biết có sự hít thở, ăn ít cũng không đói (một ngày một bữa, hai ngày một bữa), ngủ ít cũng chẳng mỏi mệt, mới có thể ngồi được lâu (ngồi một hai ngày không đứng dậy). Thân người có ba cái quí: Tinh Khí Thần. Tinh đầy thì khí đủ, khí đủ thì thần thoải mái, thần thoải mái thì thân tâm nhẹ nhàng, thân tâm nhẹ nhàng thì khí mới thuận, mới tế nhiệm (tinh tế), mới có thể ngồi được lâu, mới có thể “nhập định”, sau nhập định giống người chết, như đất, còn có thể sống được trở lại (xuất định), ngộ được khai rồi, thật là chẳng thể nghĩ bàn.

Hành dâm, ăn nhiều, vận động kịch liệt, công tác nặng nề, có sự trở ngại cho sự thích ứng thân tâm, cần phải chú ý!

Ăn không cần no quá, tùy theo việc gặp mà an, mới có thể chuyên tâm tĩnh tọa, tập luyện thân tâm. Hàng ngày nghiên cứu vị ngon, ăn cần cho thỏa sự tham muốn cửa miệng, tâm địa như vậy làm sao thân tâm có thể điều hòa thích nghi qua lại.

Có những loại thực vật ăn vào khí sẽ không thuận, cần phải mỗi loại ăn thử mấy ngày, nếu sau khi ăn phát hiện thấy hiện tượng không thuận khí, thì không nên ăn nữa!

Tĩnh tọa cần phải tập thiền định, thống nhất tập trung tinh thần trở lại, yên tĩnh cái tâm là “Định”. Niệm Phật cũng là một phương pháp định, nhất tâm bất loạn tức là “Định”.

Tĩnh tọa cần: An tâm và điều thân.

An tâm: Thì quán không biết huyễn, tưởng mở nhìn suốt, buông rời chấp trước, bỏ lìa bận tâm, trấn nhiếp tinh thần, bài trừ nhiễu nhương, tâm bình khí hòa, an lành tự như. Cũng tức là khiến tâm chuyên chú một chỗ, thống nhất tập trung tinh thần trở lại, chẳng để tâm tán loạn, tâm niệm không khởi và tự tánh bất động đối với tất cả cảnh giới thiện ác, ngoài lìa tướng, trong chẳng loạn.

Điều thân: Là thuận thông thư thái khí mạch, là bài trừ khí do chất tạp trong cơ thể, đả thông khí mạch toàn thân, tiêu trừ bệnh chướng, thân thể thoải mái nhẹ nhàng. Điều thân, chẳng phải là luyện KHÍ điều chỉnh hơi thở. Lúc ban đầu ngồi thân thể có những tình huống không được thích hợp như đau tê hay ngứa ngáy, đây là quá trình bắt đầu, thể chất mỗi người không đồng, cảm thọ cũng khác nhau, lâu ngày có thể lần hồi dẫn đến tự như (như thường). Lúc ban đầu ngồi ngay khi thở ra hít vào (hít thở sâu) thì anh phải biết, biết thôi, không lý giải nó, nên thuận với tự nhiên, qua một thời gian, anh biết ngay nơi khí hít hoặc khí thở, thời gian ngồi ít lâu, lại trải qua một khoảng thời gian khí hít cảm thấy nhẹ thoảng rồi, lại trải qua một khoảng thời gian lúc ngồi giống như không có hít thở, lúc đó thân cũng được nhẹ nhàng, lại qua một khoảng thời gian cảm giác đã không có hít thở, lúc này thân anh không nên động. Nếu đã không hít thở rồi, tâm động lên lại biết có hít thở, lại phải đợi một khoảng thời gian nữa mới cảm giác được không có hít thở, lại phải trải qua một khoảng thời gian, gân chẳng động, tâm chẳng lăng xăng mà nhập định. Tĩnh tọa nói cách khác là nhẹ nhàng thoải mái, lại nữa, có người đã ngồi mười năm, hai mươi năm mà còn mỗi khi ngồi chẳng được ba tiếng đồng hồ thì đứng dậy, khí còn đình trệ ở nơi hít thở.

Lúc ban đầu ngồi tốt nhất là có thầy giỏi hướng dẫn, hay tìm mua quyển sách “tập tĩnh tọa” để tự tập luyện, giúp tăng thêm một nửa công việc.

Khai ngộ, thật ra không phải mỗi người tu hành đều có thể đạt được. Tư chất thiên phú của con người không đồng, tinh lực thể chất cũng khác, dùng tâm mà thể hội, chỗ ra công sức có cạn sâu lại là sự quyết định NGỘ và KHÔNG NGỘ! Như xem sách, có người xem hai mươi phút là xem xong một quyển sách, không những có thể rõ hiểu mà có thể tụng lại; có người đến hai tiếng đồng hồ vẫn xem chưa xong, xem mười lần trăm lần cũng không thể đọc lại được. Có người chạy, cũng bao nhiêu cây số, mà chỉ mất ba mươi phút, chạy xong như không có việc gì, có người cũng chạy bao nhiêu cây số ấy, mà ba mươi phút mới chỉ được nửa đường, thế mà mệt đừ thở dốc; Cũng như ăn quá no thì không tiêu vậy. Tuy là tĩnh tọa như nhau, nhưng do thiên tư bẩm sinh chẳng đồng, căn lành có cạn có sâu, sự ra công sức không đồng, khai ngộ cũng có trước – sau, lớn nhỏ sai biệt, hoặc là không ngộ. Cho nên bất tất vì mình hãy còn chưa khai ngộ mà buồn sầu thương tâm!

Chúng tại gia, vì việc nhà bận rộn, việc xã hội bận rộn, còn vì bận rộn tĩnh tọa, việc nhiều tâm phiền, chỉ lúc yên tĩnh tâm mới sơ sơ có chút ít bình ổn, muốn yên tĩnh cũng không yên tĩnh được, lại chẳng thể nói ĐỊNH, ngộ cách nào khai?

Chúng tại gia muốn khai ngộ thì cần phải chuyên tu! Nếu chẳng chuyên tu, thì việc nhiều tâm phiền, muốn yên tĩnh thì yên tĩnh không được, làm sao có thể nhập định!

Muốn khai ngộ, thì tranh thủ lúc tuổi còn trẻ, người tuổi trẻ thì khí huyết tràn đầy, có thể ngồi được lâu. Già rồi, khí suy huyết kém, xương cốt cứng đờ, tiến bộ có mức bị giới hạn.

Nếu tự cho là đã khai ngộ, cần phải ấn chứng chính ta, chẳng ngại làm việc kiểm tra như sau: Đối với nghĩa chơn thật chính ta đã rõ ràng không nghi hay chưa? Đối với ranh giới phải quấy, chánh tà hoàn toàn rõ ràng hay không? có thể viên dung giữa không và có hay không? Phiền não chấp trước thì có giảm ít cho đến không còn hay không? Mỗi việc đưa ra là tự ta khẳng định! Anh cũng sẽ khai ngộ chơn thật thôi. Nếu muốn hành dâm, uống rượu, ăn thịt, ham muốn nhiều, lời nói việc làm chẳng thống nhất v.v... những hành vi phá giới, tức là dính mắc nơi dấu hiệu của ma, cần nên đình chỉ việc tĩnh tọa, siêng năng hơn lên mà sám hối sửa đổi cho chơn chánh, tránh khỏi bị sự vây bủa của ma.

Lúc ngồi, nếu như thấy hào quang, thấy Phật và các cảnh tượng, tất cả đều chẳng nên khoe khoang, tự mình vui, để khỏi bị anh linh bên ngoài khống chế, mà đi vào đường tà; Nên chẳng khinh sợ, chẳng vui mừng, chẳng dính mắc, chẳng xử lý, chỉ là không tưởng đến, không lý giải, để khỏi chướng ngại. Lấy việc chẳng lý giải, chẳng khinh sợ, chẳng vui mừng, chẳng động tâm, anh có thể làm được không? Làm không được thì nên đình chỉ việc tĩnh tọa! Nếu anh vui mừng những việc đó, nghĩ tưởng đến, thế thì những an linh bên ngoài (ma) đó sẽ phụ gá trên thân của anh, anh cho là ngộ đã khai, thì tâm thần của anh bị an linh bên ngoài mê loạn và khống chế, nắm lấy chỗ đó, nó sẽ khiến anh biếng nhác, phá giới và tạo các ác nghiệp.