Chư vị đồng tu!
Hôm nay chúng tôi có nhân duyên thù thắng phi thường được báo cáo cùng quý vị những lời khải thị trong phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện của kinh Hoa Nghiêm. Tuy vậy, do thời gian không đủ, chẳng thể giảng chi tiết, nhưng bằng phương thức nghiên cứu, học tập rồi báo cáo này, tôi tin tưởng các đồng tu nhất định sẽ thâu hoạch nhiều hơn là nghe giảng kinh bình thường. Hiện tại, con người bận rộn công việc, dù kinh điển nhà Phật rất hay, rốt cuộc vẫn chẳng thể hoàn toàn phù hợp nhu cầu con người hiện đại. Bởi thế, nghiên cứu, học tập để báo cáo có mối quan hệ thân thiết đối với cuộc sống, đức hạnh, tu trì, gia đình mỹ mãn, xã hội yên ổn, tốt đẹp. Nêu ra cách nghiên cứu, tu tập, gạn lấy những tinh hoa, khiến cho những ý nghĩa trọng yếu trong kinh được phô bày rõ ràng, chúng ta nghe xong chắc chắn sẽ đạt được lợi ích chân thật.
Trước khi báo cáo, trước hết hãy giới thiệu kinh Hoa Nghiêm.
Đại Tạng Kinh là hết thảy những pháp Thích Ca Mâu Ni Phật đã nói trong bốn mươi chín năm; rốt cục, đức Phật giảng cho chúng ta những gì? Trong kinh Vô Lượng Thọ, đức Phật nói đến ba thứ chân thật:
1) Chân thật tế.
2) Chân thật trí huệ.
3) Chân thật lợi ích.
Trong bốn mươi chín năm, đức Phật giảng cho chúng ta hết thảy kinh là giảng “Thật Tướng của các pháp”. Nói theo ngôn ngữ hiện đại, Thật Tướng của các pháp chính là chân tướng của nhân sanh vũ trụ. Nhân sanh chính là bản thân con người chúng ta; vũ trụ là hoàn cảnh sanh sống của chúng ta. Đức Thế Tôn xuất hiện trong thế gian, những điều Ngài giảng trong bốn mươi chín năm chính là chân tướng và hoàn cảnh chúng ta đang sống. Phật giáo về bản chất chính là những điều răn dạy của Thích Ca Mâu Ni Phật đối với hết thảy chúng sanh trong mười pháp giới; Phật giáo không phải là tôn giáo, mà là giáo dục. Giáo dục Phật giáo cứu cánh viên mãn, giúp chúng ta phá mê khai ngộ, lìa khổ được vui. Phá mê khai ngộ là chân thật trí huệ, lìa khổ được vui là chân thật lợi ích. Lão hòa thượng Hư Vân dạy chúng ta: “Học Phật phải tin sâu nhân quả, nghiêm trì giới luật, tín tâm kiên cố, quyết định hành môn”.
Giáo dục Phật giáo bác đại tinh thâm, bất cứ học thuật hay tôn giáo nào cũng đều chẳng thể sánh bằng được. Chúng ta thời gian, tinh lực một đời hữu hạn, làm sao tu học được? Vì thế phải tinh tuyển (chọn lấy những tinh hoa). Phải chọn lựa, phải hiểu nghĩa. Những đạo lý Phật dạy, những phương pháp đức Phật đã trao, chúng ta phải hiểu rõ ràng để ứng dụng vào cuộc sống thường nhật. Nền giáo học nhà Phật nhằm đem lại cho chúng ta lợi ích chân thật, nói cụ thể là cả một đời hạnh phúc, sung sướng, gia đình mỹ mãn, sự nghiệp thuận lợi, xã hội yên ổn, tốt đẹp, quốc gia giàu mạnh, thế giới hòa bình, nền giáo dục của Phật Đà đều thực hiện được hết. Đó chỉ là Hoa Báo, tức là quả báo trong đời này; quả trong đời sau gọi là Quả Báo, càng thù thắng hơn nữa. Đặc biệt là Hoa Nghiêm quả báo thù thắng, chúng ta không cách gì tưởng tượng nổi đâu!
Kinh Hoa Nghiêm là kinh bậc nhất trong nhà Phật, là pháp luân viên mãn của đức Phật. Bộ kinh này chính là cương lãnh của toàn bộ Phật pháp, là khái luận của toàn bộ Phật học. Hết thảy các kinh đều là quyến thuộc của kinh Hoa Nghiêm, đều là một bộ phận nào đó của kinh Hoa Nghiêm. Bộ kinh này giảng toàn thể nhân sanh vũ trụ; kinh này viên mãn như thế nào? Đến tối hậu, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc thì kinh này mới là viên mãn rốt ráo.
Cổ nhân nói: “So trong hết thảy kinh, kinh Hoa Nghiêm là bậc nhất. Đem kinh Hoa Nghiêm so với Vô Lượng Thọ, kinh Vô Lượng Thọ bậc nhất. Hoa Nghiêm đến tối hậu, Phổ Hiền Bồ Tát dùng mười nguyện dẫn về Cực Lạc mới là viên mãn, kinh Vô Lượng Thọ từ đầu đến cuối chữ nào câu nào cũng giảng về Tây Phương Cực Lạc thế giới. Bởi thế, kinh Vô Lượng Thọ là chỗ quy túc của kinh Hoa Nghiêm”.
Đại sư Thiện Đạo đời Đường nói: “Hết thảy chư Phật Như Lai thị hiện trong nhân gian thuyết pháp chỉ nhằm giới thiệu công đức lợi ích của Tây Phương Cực Lạc thế giới cho mọi người”.
Kinh Hoa Nghiêm có ba bản dịch: bản dịch đời Tấn gồm sáu mươi quyển, bản dịch đời Đường gồm tám mươi quyển, bản dịch bốn mươi quyển thuộc niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường Đức Tông (thường gọi là Tứ Thập Hoa Nghiêm). Tứ Thập Hoa Nghiêm bao gồm toàn văn phẩm Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện. Đại sư Thanh Lương phán định kinh Hoa Nghiêm gồm “thất xứ cửu hội” (chín pháp hội giảng kinh ở bảy nơi).
Nội dung kinh này theo đại sư Thanh Lương phán định gồm bốn khoa lớn “tín, giải, hạnh, chứng”, chúng ta cần phải hiểu rõ. Nội dung kinh này ngoài bốn phần trên ra, còn có năm tầng nhân quả (ngũ châu nhân quả): Mười một quyển đầu là Sở Tín Nhân Quả; bốn mươi mốt quyển giữa trước hết giảng về Nhân Quả Sai Biệt, phần sau giảng về Nhân Quả Bình Đẳng; bảy quyển giảng về Thành Hạnh Nhân Quả, tức là phẩm Ly Thế Gian, hoàn toàn giảng về phương pháp tu hành; hai mươi mốt quyển sau cùng giảng về Chứng Nhập Nhân Quả (trong Tứ Thập Hoa Nghiêm, phần này thuộc quyển bốn mươi).
Ngoài ra, còn nói đến Lục Tướng, Thập Huyền Môn, Tứ Pháp Giới, đấy chính là chân tướng nhân sanh vũ trụ, tức là chân tướng của chúng ta và hoàn cảnh sanh hoạt. Nói đến đại thế giới, nói đến vũ trụ thì trong kinh này đức Phật giảng hai mươi tầng Hoa Tạng thế giới; nói như bây giờ là Vũ Trụ Quan. Về phương diện hành môn, kinh này đặc biệt chú trọng “trải sự để luyện tâm”. Tu hành từ đâu? Tu hành ngay trong sanh hoạt thường nhật, ngay trong những lúc mặc áo, ăn cơm, xử sự, đãi người, tiếp vật mà luyện tập cái tâm thanh tịnh, tâm quảng đại, tâm bình đẳng, tâm đại từ đại bi của chính mình thì mới là thọ dụng chân thật.
Thiện Tài đồng tử tham phỏng năm mươi ba lần là điểm đặc sắc của kinh Hoa Nghiêm. Hoa Nghiêm chẳng những có lý luận viên mãn, phương pháp châu đáo tường tận mà còn có Thiện Tài và Văn Thù, Phổ Hiền…năm mươi ba vị đại Bồ Tát biểu diễn cho chúng ta, dạy chúng ta tu hành như thế nào. Năm mươi ba vị thiện tri thức đại diện nam, nữ, già, trẻ, các hạng, các nghiệp trong xã hội hiện tại. Đại Thừa Phật pháp ai cũng học được, ai cũng tu được, ai cũng thành tựu được. Hễ chân chánh phát tâm học Phật thì chỉ có mỗi một mình ta là học trò. Thiện Tài đồng tử không có đồng bạn, không có đồng học, gặp ai cũng đều là thiện tri thức; nói như bây giờ: “Ai cũng là thầy mình cả!” Khổng Tử nói: “Ba người cùng đi, ắt có người là thầy ta”. Người tốt lẫn kẻ xấu đều là thầy mình.
Người tốt làm chuyện tốt, chúng ta phải học theo; họ là thầy của mình. Kẻ ác làm chuyện gì chúng ta phải cảnh tỉnh, chẳng được học theo; họ cũng là thầy của ta. Khi tham phỏng bậc Bồ Tát Cửu Trụ là Thắng Nhiệt Bà La Môn, ông ta ngu si, Thiện Tài chẳng học theo cái ngu si đó. Khi tham phỏng Đệ Thất Hạnh Vị Bồ Tát là Cam Lộ Hỏa Vương, tâm sân khuể nặng nề; bậc Đệ Ngũ Hồi Hướng Bồ Tát là Phạt Tô Mật Đa nữ là một cô gái điếm, đại biểu cho tham ái. Ba vị đại Bồ Tát tượng trưng cho ba độc phiền não Tham - Sân - Si. Trong xã hội hiện thời, bậc tri thức có đủ Tham - Sân - Si chẳng ít, nếu chúng ta có được trí huệ như Thiện Tài, có bản lãnh như Thiện Tài, chúng ta hành xử giống như Ngài thì sẽ thành được Vô Thượng Đạo chẳng trở ngại gì.
Kinh này cho thấy hành Bố Thí chẳng trở ngại viên dung, viên dung chẳng trở ngại việc hành Bố Thí. Đại Thừa Phật pháp tu học siêu việt quốc giới, chủng tộc, tôn giáo, còn siêu việt cả thiện ác, siêu việt mười pháp giới; đó là những điều chúng ta phải nhận thức, thể hội từ kinh Hoa Nghiêm. Mỗi một địa vị, giai cấp có một thiện hữu đại biểu, chỉ mình Đức Sanh đồng tử và Hữu Đức đồng nữ là cùng hiện diện trong một hội: Đức Sanh đồng tử đại biểu trí huệ, Hữu Đức đồng nữ đại biểu từ bi. Bi - Trí song vận mới hòng mau chóng đạt đến cảnh giới rốt ráo viên mãn. Đây là dạy chúng ta trong cuộc sống, đối người xử vật phải có trí huệ, phải có phương tiện thiện xảo.
Thiện Tài đồng tử tham phỏng Di Lặc Bồ Tát, thăm viếng lầu gác của ngài Di Lặc - [lầu gác ấy] nói như bây giờ là thư viện - chẳng những chứa sách phong phú mà băng ghi âm, băng ghi hình cũng rất phong phú. Vì sao vậy? Vì trong lầu gác đó có thể nhìn thấy vô lượng vô biên các cõi nước Phật giống như hình ảnh xuất hiện trên màn bạc. Bởi thế, thư viện đó chính là “thị thính đồ thư quán” (thư viện có đủ phương tiện, tài liệu âm thanh lẫn hình ảnh). Thiện Tài đến đó đại khai viên giải, hiểu viên mãn. Cuối cùng, vị thiện tri thức thứ năm mươi ba là Phổ Hiền Bồ Tát, dạy đồng tử mười đại nguyện, mười đại nguyện tiêu biểu cho hạnh môn viên mãn. Thư viện của ngài Di Lặc là học vấn viên mãn, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền đại sĩ là đức hạnh viên mãn. Học vấn và đức hạnh đều viên mãn là thành Phật, đạt đến đó là thành tựu vô thượng Phật đạo. Đấy chính là điều khải thị viên mãn rốt ráo vĩ đại của kinh Hoa Nghiêm.
Trong kinh này, đức Phật dạy chúng ta: Chẳng học theo hạnh nguyện Phổ Hiền sẽ chẳng thể viên thành Phật đạo. Sau khi tham phỏng Di Lặc Bồ Tát, Thiện Tài đồng tử bèn tiếp nhận lời Phổ Hiền Bồ Tát dạy răn. Do đây ta biết rằng: hạnh nguyện Phổ Hiền là những việc phải tu tập của bậc Đẳng Giác Bồ Tát, chẳng phải là chuyện để người tầm thường tu tập. Nói rộng ra, hạnh nguyện ấy là chuyện phải tu của bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ. Trong bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại sĩ, địa vị thấp nhất là Sơ Trụ Bồ Tát trong Viên Giáo; trước khi đạt đến Sơ Trụ vẫn có thể phát tâm tu học hạnh nguyện Phổ Hiền nhưng nhất định chưa thể làm được. “Phổ Hiền Bồ Tát sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới thì mười đại nguyện mới viên mãn”. Câu này rất đáng để chúng ta suy nghĩ. Văn Thù và Phổ Hiền đều phát nguyện cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới, Phổ Hiền là Pháp Vương Tử của đức Tỳ Lô Giá Na Phật trong Hoa Tạng thế giới, là bậc Đẳng Giác Bồ Tát trong Viên Giáo, Ngài sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới để làm gì? Do câu này ta tìm được đáp án, Ngài về đó để tu cho viên mãn mười đại nguyện vương.
Mục đích duy nhất của Tịnh tông học nhân là cầu sanh Tịnh Độ. Sanh về Tịnh Độ bất thoái thành Phật là lợi ích chân thật của Tịnh tông. Giải môn (mặt lý luận, giáo nghĩa) của Tịnh tông y vào năm kinh một luận, hạnh môn (mặt tu tập, thực hành, phương pháp tu tập cụ thể) là một câu A Di Đà Phật. Nhiếp trọn sáu căn, tịnh niệm tiếp nối là Chánh Hạnh. Ngoài Chánh Hạnh, còn cần phải có Trợ Hạnh, Chánh Trợ Song Tu. Trợ Hạnh của Tịnh Tông gồm năm khoa mục: Ba Phước, Sáu Hòa Kính, Tam Học, Lục Độ, Phổ Hiền Thập Đại Nguyện Vương.
Cơ sở của Phổ Hiền hạnh là Ba Phước. Phước thứ nhất trong ba phước là tu phước báo nhân thiên. Muốn được thành Phật, thành Bồ Tát thì trước hết phải làm người cho tốt. Bắt đầu học từ đâu? Phước thứ nhất là “hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, từ tâm bất sát, tu Thập Thiện nghiệp”, học Phật bắt đầu từ đó. Toàn bộ Phật pháp chỉ là dạy hai chữ Hiếu Kính mà thôi!
“Hiếu dưỡng phụ mẫu, phụng sự sư trưởng”: Chỉ có thành Phật mới có thể hiếu với cha mẹ, tôn kính sư trưởng viên mãn được. Chẳng kính cha mẹ là bất hiếu, chẳng kính sư trưởng cũng là bất hiếu. Anh em bất hòa khiến cha mẹ đau lòng cũng là bất hiếu. Làm việc không tròn trách nhiệm, chẳng có lòng thành đối với người khác, làm việc chẳng nỗ lực, thân thể không khỏe thường sanh bệnh, tự mình ngày ngày phiền não, một câu A Di Đà Phật niệm không tròn, đều là bất hiếu. Không có chuyện gì ra ngoài hiếu kính cả, bởi thế Phật cặn kẽ dạy chúng ta đại căn đại bản là “hiếu thân tôn sư” (hiếu với cha mẹ, tôn kính thầy). Chúng ta tự mình thành Phật chẳng những độ được cha mẹ trong đời này mà còn độ được cha mẹ trong đời đời kiếp kiếp quá khứ, đấy mới là tận hết đại hiếu.
“Từ bi bất sát”: Từ cơ sở hiếu kính, phát triển thành đại từ đại bi, từ tâm đối với hết thảy chúng sanh. Bất sát là Từ, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm, chẳng nói dối, chẳng uống rượu cũng là Từ. Từ tâm ấy bao gồm hết thảy Tam Học Giới - Định - Huệ. Mở rộng ra, toàn bộ pháp giới đều bao gồm trong ấy; Bất Sát chỉ là nêu lên một thí dụ. Phàm hễ làm cho chúng sanh sanh phiền não thì tâm địa chúng ta chẳng Từ, chính mình sanh phiền não cũng là chẳng Từ.
“Tu Thập Thiện nghiệp”: Thập Thiện chẳng phải là Giới mà là thiện nghiệp. Ba điều thiện nơi thân: chẳng sát sanh, chẳng trộm cắp, chẳng tà dâm; bốn điều thiện nơi miệng: không vọng ngữ (chẳng dối người), không lưỡng thiệt (chẳng khêu gợi thị phi), không ỷ ngữ (chẳng hoa ngôn xảo ngữ), không ác khẩu (chẳng nói năng thô lỗ); ba điều thiện nơi ý: chẳng tham, chẳng sân, chẳng si. Đức Phật dạy chúng ta tu học mười loại thiện hạnh lớn nơi thân - ngữ - ý. Ai thực hiện tốt những điều ấy mới gọi là hảo nhân.
Phước thứ nhất là cơ sở, có hiếu thân, tôn sư, từ tâm, thập thiện thì mới có tư cách vào cửa Phật học Phật, làm học trò của Phật Thích Ca.
Phước thứ hai: “Thọ trì Tam Quy, đầy đủ các giới, chẳng phạm oai nghi”. Phước thứ hai là chuyện phải tu của người tu Nhị Thừa, chân chánh bước vào cửa Phật. Người Nhị Thừa tu Tam Học Giới - Định - Huệ.
“Thọ trì Tam Quy”: Quý vị bước vào cửa Phật, trước hết đem phương pháp, lý luận tu học nhà Phật truyền cho quý vị, đó gọi là “truyền thọ Tam Quy”. Tam Quy Y: Quy là quay đầu, Y là nương tựa. Quy y Tam Bảo (Phật, Pháp, Tăng); Tam Bảo trong tự tánh. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn có đủ”. Tự tánh vốn sẵn đủ Tam Bảo, nay ta quy y là quy y Tự Tánh Tam Bảo. Tam Quy:
1) Quy y Phật: Phật là Tự Tánh Giác, giác chứ không mê. Từ hết thảy mê hoặc điên đảo quay trở về nương dựa vào Tự Tánh Giác, nên gọi là “quy y Phật”.
2) Quy y Pháp: Pháp là chánh tri chánh kiến nơi tự tánh. Kinh Pháp Hoa nói: “Nhập Phật tri kiến”; Phật tri Phật kiến là tư tưởng chánh xác, kiến giải chánh xác, hoàn toàn hiểu rõ chân tướng nhân sanh vũ trụ, chẳng hiểu sai lầm một điểm gì. Từ chỗ suy nghĩ lầm lạc, kiến giải lầm lạc trước kia, nay quay lưng với những lầm lạc ấy, về nương dựa nơi chánh tri chánh kiến của tự giác thì gọi là “quy y Pháp”.
3) Quy y Tăng: Tăng là tự tánh thanh tịnh, sáu căn thanh tịnh, chẳng nhiễm mảy trần. Lục Tổ nói: “Nào ngờ tự tánh vốn sẵn thanh tịnh”. Từ hết thảy nhiễm ô quay đầu trở lại, nương vào tâm thanh tịnh sẵn có, thì gọi là “quy y Tăng”.
Quy y Phật giác chứ không mê, quy y Pháp chánh chứ chẳng tà, quy y Tăng tịnh chứ chẳng nhiễm. Tu học Phật là Giác - Chánh - Tịnh. Tựa đề kinh Vô Lượng Thọ là Phật Thuyết Đại Thừa Vô Lượng Thọ Trang Nghiêm Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác Kinh. Tam Bảo cũng nằm trong tựa đề kinh. Giác là Phật Bảo, Bình Đẳng là Pháp Bảo, Thanh Tịnh là Tăng Bảo. Năm chữ “Thanh Tịnh Bình Đẳng Giác” chính là Tự Tánh Tam Bảo. Chúng ta nương vào năm chữ này tu hành mới là thọ trì Tam Quy chân chánh, mới thật là đệ tử Phật. Sau khi hiểu rõ cương lãnh tu hành rồi, đối trước tượng Phật, Bồ Tát, phát thệ nguyện sâu nặng: “Mong trở thành học trò đức Phật, xin được tiếp nhận lời Phật răn dạy, từ nay trở đi, con nhất định tu hành thanh tịnh”. Thỉnh một vị pháp sư chứng minh, cử hành nghi thức Tam Quy. Thật sự trọng yếu là phải quy y Tự Tánh Tam Bảo. Tam Quy xong, đức Phật dạy chúng ta phải có đủ các giới, chẳng phạm oai nghi.
“Đầy đủ các giới”: Trì giới là giữ pháp. Chẳng riêng gì những giới điều đức Phật đã nói như Ngũ Giới, Thập Giới, Tỳ Kheo Giới, Bồ Tát Giới, mà phàm hết thảy những răn dạy trong hết thảy các kinh luận, mỗi mỗi đều là giáo giới cả. Hiến pháp, pháp luật, quy định, hiến chương đều thuộc phạm vi của giới luật, đều phải tuân thủ; phong tục, tập quán và quan niệm đạo đức mỗi nước cũng phải tuân thủ.
“Chẳng phạm oai nghi”: Oai nghi là lễ tiết, lễ mạo. Chúng ta không những giữ pháp mà còn phải hiểu lễ thì mới được đại chúng hoan nghênh, mới có thể làm cho Phật pháp được lưu truyền rộng rãi các nơi. Phước thứ hai là việc thiện của Nhị Thừa.
Phước thứ ba: “Phát Bồ Đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng Đại Thừa, khuyến tấn hành giả” là việc thiện của Đại Thừa Bồ Tát.
“Phát Bồ Đề tâm”: Bồ Đề là tiếng Phạn, có nghĩa là Giác, chân chánh giác ngộ. Chân chánh giác ngộ lục đạo luân hồi rất khổ, chẳng được tự tại. Chân chánh giác ngộ sự giáo dục của đức Phật giúp chúng ta giải quyết hết thảy vấn đề, vấn đề hiện tại, vấn đề tương lai, vấn đề tự thân, vấn đề gia đình, vấn đề sự nghiệp, vấn đề xã hội, cho đến vấn đề sau khi chết đi sẽ sanh trong thế giới nào, thảy đều giải quyết hết. Chân chánh giác ngộ đạt đến Tây Phương Cực Lạc thế giới ngay trong lúc còn sống là chuyện nhất định chúng ta có thể làm được. Sau khi giác ngộ như vậy mới gọi là “phát Bồ Đề tâm”. Chân chánh giác ngộ mới có hy vọng xuất ly luân hồi.
“Tin sâu nhân quả”: Nhân quả ở đây chẳng phải là nhân quả kiểu việc lành có quả lành, việc ác có ác quả, đức Phật dạy hàng Bồ Tát tin sâu nhân quả là ngụ ý “niệm Phật là nhân, thành Phật là quả”. Loại nhân quả này rất nhiều vị Bồ Tát chẳng biết, cũng chẳng tin tưởng. Niệm A Di Đà Phật, vãng sanh bất thoái thành Phật là quả báo, là phương pháp tu học thù thắng. Nếu chúng ta tin sâu chẳng nghi, quyết định thọ trì, trong một đời này sẽ nhất định thành Phật. Pháp môn Niệm Phật vạn người tu vạn người đạt, cốt sao quý vị tin thật nguyện thiết, lấy một câu Phật hiệu làm sự việc trọng đại nhất của cả một đời, trong mười hai thời từ sáng đến tối trong tâm chẳng buông bỏ Phật hiệu, chân chánh thực hiện chẳng hoài nghi, chẳng gián đoạn, chẳng xen tạp, không một ai chẳng thành công. Đó gọi là “tin sâu nhân quả”.
“Tụng đọc Đại Thừa”: Tôi khuyên các đồng tu chỉ đọc một bộ Vô Lượng Thọ là nhằm dụng ý đoạn phiền não. Lúc chẳng niệm kinh bèn suy nghĩ bậy bạ, sanh ra phiền não. Phật nói chúng sanh có hai thứ Chướng: Phiền Não Chướng và Sở Tri Chướng. Hai Chướng này do đâu mà có? Phẩm Xuất Hiện trong kinh Hoa Nghiêm nói: “Hết thảy chúng sanh đều có trí huệ đức tướng của Như Lai, chỉ vì vọng tưởng chấp trước nên chẳng thể chứng đắc”. Một lời đức Phật vạch trần gốc bệnh của chúng ta.
Vọng tưởng phát triển thành Sở Tri Chướng; chấp trước phát triển thành Phiền Não Chướng. Mục đích của đọc kinh là phá hai Chướng đó, khôi phục tâm địa thanh tịnh, rồi mới dùng cái tâm thanh tịnh, tâm chân thành, tâm cung kính, tâm từ bi chấp trì danh hiệu thì danh hiệu ấy mới có cảm ứng. Kẻ lợi căn trong vòng năm mười năm đắc thanh tịnh tâm, sau đấy mới có thể thực hiện “pháp môn vô lượng thệ nguyện học”, mới có thể ngao du trong kinh luận Đại Thừa. Kẻ căn tánh trung hạ, nếu mười năm tâm vẫn chưa thanh tịnh, thì phải phát nguyện suốt đời niệm một bộ kinh, pháp môn vô lượng thệ nguyện học đợi đến lúc sanh về Tây Phương Cực Lạc thế giới mới học cũng chẳng muộn. Tập trung tinh lực trong thời gian một đời chuyên cầu Tây Phương Tịnh Độ, hoàn toàn chẳng phân tâm. Tây Phương Cực Lạc thế giới thọ mạng vô lượng, hết thảy kinh điển viên mãn đầy đủ giống hệt như của mười phương chư Phật đã nói chẳng thiếu gì. Lúc đó, A Di Đà Phật là thầy mình, Quán Âm, Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền là đồng học, là bầu bạn, quý vị nhất định phải thành tựu. Nếu thật sự có tâm từ bi thì cũng phải đảm bảo mình được vãng sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới rồi mới ngao du trong các kinh luận Đại Thừa khác.
Nếu chưa nắm chắc chuyện vãng sanh, thì phải bớt làm chuyện hoằng pháp lợi sanh, nếu không sẽ bị uổng mất chuyện vãng sanh. Kinh Vô Lượng Thọ dạy: “Giả linh cúng dường hằng sa thánh, bất như kiên dũng cầu Chánh Giác” (Ví như cúng dường hằng hà sa số bậc thánh, cũng chẳng bằng kiên định, dũng mãnh cầu đắc Chánh Giác), ý nói: Tự độ cầu vãng sanh là chuyện trọng yếu. Tự mình đã nắm chắc chuyện vãng sanh mới có thể phát tâm rộng độ chúng sanh; vãng sanh chưa nắm chắc thì niệm Phật nhiều phải là chuyện khẩn yếu hơn. Độ chúng sanh phải có duyên phận và năng lực. Có Ba Phước, Sáu Hòa Kính, Tam Học (Giới - Định - Huệ), Lục Độ làm cơ sở, tu học mười nguyện Phổ Hiền mới hòng đạt lợi ích.
Thế nào là hạnh nguyện Phổ Hiền? Nơi quả đức Như Lai viên mãn, nhất định phải tu đại hạnh thì phước đức mới hòng viên mãn. Mỗi một hạnh môn đều tương ứng với tự tánh, nhưng mỗi một hạnh môn lại trọn khắp pháp giới. Đã thế, mỗi một hạnh môn lại bao trùm hết thảy hạnh; hết thảy hạnh cũng đều bao gồm trong một hạnh. Đấy chính là bản thể của Phổ Hiền hạnh, mà cũng là hạnh Phổ Hiền Bồ Tát thực hành. Nói cách khác, do phương pháp tu hành này mà thành tựu Phổ Hiền Bồ Tát. Cổ đức quy nạp thành mười điều:
1) Sở cầu phổ: Cầu được chứng đắc bình đẳng với hết thảy Như Lai. Chúng ta tương lai thành Phật phải bình đẳng với hết thảy chư Phật trong mười phương ba đời, chẳng sai biệt mảy may. Đấy là điều chúng ta mong cầu.
2) Sở hóa phổ: Hóa là giáo hóa chúng sanh, Chư Phật Như Lai giáo hóa vô lượng vô biên chúng sanh trong pháp giới, chúng ta cũng phải phát nguyện như vậy.
3) Sở đoạn phổ: Đoạn phiền não. Kiến Tư phiền não, Trần Sa phiền não, Vô Minh phiền não đều phải đoạn, chẳng thể còn lại mảy may phiền não nào.
4) Sự hành phổ: Trong sanh hoạt thường nhật, bất luận chuyện lớn việc nhỏ, mảy may tơ tóc cũng đều nên xứng với pháp giới, giống hệt như Bồ Tát.
5) Lý hành phổ: Mỗi một việc làm nào cũng đều tương ứng với tự tánh.
6) Vô ngại hành phổ: lý sự vô ngại.
7) Dung thông hạnh phổ: sự sự vô ngại.
8) Sở khởi đại dụng phổ: đức dụng trọn khắp pháp giới.
9) Sở hành xứ phổ: theo chiều ngang thì cùng khắp pháp giới, hết thảy các cõi nước Phật và thân tâm của mình không hai, không khác.
10) Tu hành thời phổ: Nói trên phương diện thời gian thì một niệm và cả kiếp dung thông. Mỗi một nguyện Phổ Hiền đều “hư không giới tận, chúng sanh giới tận, nguyện tôi mới tận”. Nhưng hư không giới, chúng sanh giới, chúng sanh nghiệp chẳng có cùng tận, hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ Tát cũng chẳng có cùng tận; chẳng mệt, chẳng chán!
Đấy là Phổ Hiền hạnh, hạnh môn đạt đến mức độ đăng phong tạo cực.
Duyên do của phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện: Xưa kia, lúc đức Thế Tôn thị hiện thành Phật; lúc ban sơ, nhập định dưới cội Bồ Đề, giảng kinh Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm; giảng thuyết lý sự vô ngại, sự sự vô ngại, cảnh giới một niệm và cả kiếp viên dung. Nói cách khác, siêu việt cả thời gian lẫn không gian, chẳng có thời gian dài hay ngắn, chẳng có không gian xa hay gần. Đây chính là cảnh giới giải thoát chẳng thể nghĩ bàn của chư Phật, Bồ Tát chứng đắc.
Phật giảng bộ kinh này, nếu dịch theo nguyên văn tiếng Phạn thì tựa đề kinh là “Đại Phương Quảng Giác Giả Tạp Hoa Trang Nghiêm kinh”. Người Trung Quốc thích đơn giản, đổi chữ Giác Giả thành Phật, bỏ bớt chữ Tạp, lược bớt chữ Trang, thành ra tựa đề kinh hiện thời là “Đại Phương Quảng Phật Hoa Nghiêm kinh”. Nhìn từ ý nghĩa của tựa đề kinh, bộ kinh do đức Phật nói đây thật ra chính là hết thảy kinh chúng ta thường giảng:
“Đại Phương Quảng” là Pháp, cũng như kinh Đại Thừa thường nói là Thể, Tướng, Đức Dụng của Chân Như Tự Tánh.
“Phật” là người chứng đắc; người viên mãn công đức thể, tướng, tác dụng của tự tánh thì gọi là “thành Phật”, ta gọi người ấy là Phật Đà.
“Hoa Nghiêm” là tỷ dụ. Tạp Hoa: Tạp là nhiều màu, có các thứ phẩm lượng, giống như một đại hoa viên, hết thảy các loài hoa đều có mặt hết, cũng chẳng thiếu khuyết gì cả. Trang Nghiêm nghĩa là đẹp đẽ. Hết thảy các pháp đức Phật chứng giống như hoa nhiều màu trang nghiêm. Do đây biết rằng: tựa đề kinh này chẳng phải là tựa đề của riêng một bộ kinh mà là đề mục chung của hết thảy kinh.
Đức Thế Tôn sau khi thành Phật, trong mười bốn ngày, đem toàn bộ cảnh giới Ngài chứng đắc viên mãn giảng cho Bồ Tát nghe. Hàng Bồ Tát nghe kinh trong hội Hoa Nghiêm thuộc bốn mươi địa vị Pháp Thân đại sĩ, chẳng phải kẻ tầm thường. Hạng người tầm thường há có năng lực vào trong Định của đức Thế Tôn để nghe kinh ư? Chẳng có Định công (công tu tập thiền định) thì chẳng có duyên phận. Phật nói kinh này, Quyền Giáo Bồ Tát và Thanh Văn, Duyên Giác như đui, như điếc, thấy chẳng được, nghe cũng chẳng được.
Giảng kinh xong, Đại Long Bồ Tát đem kinh này cất giấu dưới Long Cung. Trong vòng sáu trăm năm sau khi Phật diệt độ, thế gian chẳng có ai thấy được kinh này. Long Thọ Bồ Tát thông minh tuyệt đỉnh, xem khắp kinh luận thế gian và kinh điển của chín mươi sáu thứ ngoại đạo ở Ấn Độ, sanh tâm ngạo mạn. Lúc ấy, Đại Long Bồ Tát hóa thân độ Long Thọ, bảo Long Thọ: “Long cung còn có rất nhiều kinh điển khác ông chưa từng thấy qua”. Khi đến Long cung, Long Thọ thấy Đại Long Bồ Tát cất giữ Đại Bản Hoa Nghiêm, có mười tam thiên đại thiên thế giới vi trần bài kệ (mỗi một bài kệ có bốn câu), một tứ thiên hạ vi trần phẩm. Long Thọ Bồ Tát sững sờ, tập khí ngạo mạn tan tành.
Tam thiên đại thiên thế giới thật ra là một đại thiên thế giới, đại thiên thế giới là khu vực hóa độ của một đức Phật. Địa cầu xoay quanh Thái Dương, lấy Thái Dương làm trung tâm, gọi là Thái Dương Hệ. Thái Dương Hệ lại xoay quanh Ngân Hà hệ. Trong quá khứ, có nhiều người cho rằng Thái Dương Hệ là một đơn vị thế giới. Một đại thiên thế giới có một trăm ức đơn vị thế giới như thế. Gần đây, lão cư sĩ Hoàng Niệm Tổ nêu lên quan điểm, cho rằng: “Mỗi một hệ Ngân Hà là một đơn vị thế giới. Đơn vị thế giới lấy núi Tu Di làm trung tâm, núi Tu Di chẳng thuộc địa cầu, cũng chẳng nằm trong Thái Dương Hệ, mà là do nhiều hằng tinh xoay tròn [tạo thành]. Núi Tu Di chính là lỗ đen (black hole) do các nhà thiên văn phát hiện, là trung tâm của một Ngân Hà hệ”.
Nếu nói như vậy thì một đại thiên thế giới do một trăm ức Ngân Hà hệ tạo thành. Phật nói: Trong vũ trụ có vô lượng vô biên đại thiên thế giới. Nhưng bây giờ, giả sử đem các tinh cầu trong một trăm ức Ngân Hà Hệ mài nát thành vi trần, mỗi một vi trần tượng trưng cho một bài kệ, thì bộ kinh này có mười đại thiên thế giới vi trần kệ. Phân lượng quá lớn, địa cầu không chứa nổi. Phật chỉ cần hai tuần giảng xong kinh này, Phật trí thần thông vĩ đại, khiến chúng ta năm vóc sát đất bội phục.
Trung Bổn Hoa Nghiêm có bốn mươi chín vạn tám ngàn tám trăm bài kệ, một ngàn hai trăm phẩm. Trung Bổn là phần trích yếu của Đại Bổn, phân lượng cũng quá nhiều. Hạ Bổn Hoa Nghiêm là mục lục đại cương trích yếu, tổng cộng mười vạn bài kệ (bốn mươi vạn câu), bốn mươi tám phẩm. Long Thọ Bồ Tát đem Hạ Bổn Hoa Nghiêm ra khỏi Long cung. Từ đó, thế gian mới có kinh Hoa Nghiêm. Cho đến thời đại Đông Tấn, tức là sau khi Long Thọ Bồ Tát viên tịch ba, bốn trăm năm, bộ kinh này được truyền đến Trung Quốc.
Thời cổ, kinh điển chép trên lá Bối, dễ bị thất lạc. Kinh Hoa Nghiêm truyền đến Trung Quốc, kinh văn bị thiếu sót, chỉ còn ba vạn sáu ngàn bài tụng (kệ). Đời Tấn, ngài Phật Đà Bạt Đà Ladịch sang Hán văn, chia làm sáu mươi quyển, gọi là Lục Thập Hoa Nghiêm. Đời Đường, bà Võ Tắc Thiên phái người sang Ấn Độ tìm bản kinh này, thỉnh ngài Thật Xoa Nan Đà sang Trung Quốc dịch kinh Hoa Nghiêm, so với bản sáu mươi quyển tăng thêm chín ngàn bài tụng, tổng cộng có bốn vạn năm ngàn bài tụng, gọi là Bát Thập Hoa Nghiêm. Trong niên hiệu Trinh Nguyên đời Đường Đức Tông, Ô Đồ quốc vương tấn cống hoàng đế Trung Quốc một bộ Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, là phẩm cuối cùng của kinh Hoa Nghiêm. Phẩm này vô cùng hoàn chỉnh, chẳng bị khiếm khuyết, dịch sang tiếng Hán, tổng cộng bốn mươi quyển, gọi là Tứ Thập Hoa Nghiêm.
Tứ Thập Hoa Nghiêm là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, toàn bộ kinh văn là bốn mươi quyển. Khi Tứ Thập Hoa Nghiêm được phiên dịch, Thanh Lương đại sư tham gia dịch trường. Dịch xong, hoàng đế thỉnh đại sư Thanh Lương viết chú giải. Ngài Thanh Lương chuyên chú nơi kinh Hoa Nghiêm, cả một đời giảng kinh Hoa Nghiêm năm mươi lượt. Tứ Thập Hoa Nghiêm và Bát Thập Hoa Nghiêm gộp lại, trừ khử những phần trùng lập, tổng cộng gồm chín mươi sáu quyển.
Cổ nhân nói: “Chẳng đọc Hoa Nghiêm, chẳng biết nhà Phật phú quý”. Nói cách khác, chẳng đọc Hoa Nghiêm, chẳng hiểu được cái hay của việc thành Phật. Biết được cái hay của việc thành Phật thì không thành Phật không xong. Đối với việc tu học Phật pháp, kinh này là một bộ kinh vô cùng trọng yếu. Tôi có được lòng tín ngưỡng nơi Tịnh Độ Tông là do từ kinh Hoa Nghiêm mà có. Trước kia, thầy tôi là cư sĩ Lý Bỉnh Nam chuyên hoằng Tịnh Độ, đối với việc giảng kinh tôi vô cùng thích thú, còn đối với việc Niệm Phật chẳng mặn mòi cho lắm. Thầy khuyến khích tôi:
- Từ xưa đến nay, không ít tổ sư đại đức đều tu học pháp môn Niệm Phật, chẳng ngại gì ông không thử thực hành xem. Nếu chẳng thể thành tựu thì từ trước đến giờ nhiều người bị mắc lừa, chúng ta bị lừa một phen cũng không sao!
Thầy nói câu này đúng là rát miệng xót lòng. Khi đó, tôi chẳng hiểu triệt để Tịnh Độ Tông, tín tâm chưa sanh khởi. Mãi đến năm Dân Quốc sáu mươi (1971), tôi mới bắt đầu giảng kinh Hoa Nghiêm, giảng suốt mười bảy năm. Đột nhiên có một ngày, tôi nghĩ đến một vấn đề: trong hội Hoa Nghiêm, Phổ Hiền là trưởng tử, Văn Thù là con trai thứ, hai vị Đẳng Giác Bồ Tát là trợ thủ của Tỳ Lô Giá Na, các Ngài tu pháp môn gì? Nguyên lai các vị Bồ Tát này niệm A Di Đà Phật cầu sanh Tây Phương Cực Lạc thế giới. Nhận ra như vậy, tôi vô cùng kinh ngạc; hơn nữa, Thiện Tài đồng tử cũng tu pháp môn Niệm Phật. Hoa Nghiêm đến cuối cùng, mười đại nguyện vương của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực Lạc. Hiểu rõ điều này trong hội Hoa Nghiêm rồi tôi mới phát sanh tín tâm chân chánh đối với Tịnh Độ tông. Đối với tôi, kinh Hoa Nghiêm có ân sâu rất lớn.
[Phần kinh văn được] báo cáo lần này là quyển cuối cùng của Tứ Thập Hoa Nghiêm. Trong toàn bộ kinh Hoa Nghiêm, quyển này trọng yếu vô cùng, Thanh Lương đại sư gọi nó là “Hoa Nghiêm quan kiện” (mấu chốt của kinh Hoa Nghiêm); cương lãnh tu học Hoa Nghiêm hoàn toàn nằm trong quyển này. Nó cũng là tổng kết luận của toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Thanh Lương đại sư đem quyển này lưu hành riêng; niệm một quyển giống như niệm toàn bộ kinh Hoa Nghiêm. Bản chú giải quyển kinh này tốt nhất là cuốn Hoa Nghiêm Kinh Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm Biệt Hành Sớ Sao, Sớ là Thanh Lương đại sư chú giải lời kinh; Sao là do Tông Mật đại sư chú giải lời Sớ. Thanh Lương đại sư chú giải đơn giản nhưng sâu xa, học trò Ngài là Tông Mật sợ hậu học nghiên cứu, xem đọc gặp khó khăn, nên lại chú thích tường tận một lần nữa. Đề tài lần giảng này là “Phổ Hiền Bồ Tát Hạnh Nguyện đích khải thị”, không giải thích theo từng câu văn mà chỉ báo cáo tường tận đại ý từng đoạn mà thôi.
____________________
[1] Bản Lục Thập Hoa Nghiêm được ngài Phật Đà Bạt Đà La dịch vào thời Đông Tấn, gồm 7 xứ, 8 hội, 34 phẩm. Bản này gọi là Cựu Dịch. Bát Thập Hoa Nghiêm do ngài Thật Xoa Nan Đà dịch dưới thời Đường, nhằm trào Võ Tắc Thiên. Khi Sư dịch xong, chính Võ Hậu đã cầm bút ngự phê bài Khai Kinh Kệ “Vô thượng thậm thâm vi diệu pháp…” lên bìa cuốn kinh này (theo Hòa Thượng Tịnh Không). Bản này gọi là Tân Dịch. Bản Tứ Thập Hoa Nghiêm tuy ghi là một phẩm, đặt tên là Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, nhưng thật ra gồm hai phần: phần thứ nhất (39 quyển đầu) tương ứng với phẩm Nhập Pháp Giới trong Bát Thập Hoa Nghiêm và Phổ Hiền Thập Chủng Hạnh Nguyện (quyển này là quyển 40, thường được tách ra lưu truyền như một phẩm riêng, thường gọi là Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm). Tứ Thập Hoa Nghiêm do ngài Bát Nhã Tam Tạng xứ Kế Tân (thuộc địa phận Kashmir, Ấn Độ) dịch từ Phạn sang Hán.
[2] Cách phân chia các hội ở đây dựa theo bản Bát Thập Hoa Nghiêm, Hòa Thượng Tịnh Không cho biết:
1) Hội thứ nhất tại Bồ Đề đạo tràng gồm sáu phẩm, mười một quyển. Phổ Hiền Bồ Tát giảng về y báo nhân quả của đức Tỳ Lô Giá Na Phật.
2) Hội thứ hai giảng tại điện Phổ Quang Minh, cũng là do Phổ Hiền Bồ Tát nói về chánh báo nhân quả của Phật, gồm ba phẩm. Nửa phần sau hội thứ hai, Văn Thù Bồ Tát giảng Thập Tín, giảng về Sơ Phát Tâm, tổng cộng ba phẩm.
3) Hội thứ ba trên trời Đao Lợi, giảng trên cung trời Đao Lợi do Pháp Hội Bồ Tát chủ giảng. Vì thế, hội thứ ba do Pháp Hội Bồ Tát giảng Thập Trụ, có sáu phẩm, ba quyển.
4) Hội thứ tư tại trời Dạ Ma, do Công Đức Lâm Bồ Tát giảng pháp môn Thập Hạnh, cũng gồm bốn phẩm, ba quyển.
5) Hội thứ năm trên trời Đâu Suất – Di Lặc Bồ Tát sống trên trời Đâu Suất – Hội này do Kim Cang Tạng Bồ Tát giảng pháp môn Thập Hồi Hướng, có ba phẩm, gồm mười hai quyển.
6) Hội thứ sáu tại trời Tha Hóa Tự Tại, do Kim Cang Tạng Bồ Tát làm hội chủ, giảng pháp môn Thập Địa. Hội này chỉ có một phẩm, nhưng là một phẩm rất dài đến cả sáu quyển.
7) Hội thứ bảy lại là điện Phổ Quang Minh, trong hội này, đức Phật làm chủ, giảng về Đẳng Giác, về Diệu Giác. Phần này gồm mười một phẩm, mười ba quyển.
8) Hội thứ tám cũng tại điện Phổ Quang Minh, Phổ Hiền Bồ Tát giảng, chủ yếu nói về các pháp môn tu hành. Phổ Hiền Bồ Tát nói hai ngàn pháp môn tu hành. Phần này chỉ có một phẩm, gồm bảy quyển.
9) Hội thứ chín tại rừng Thệ Đa, tức là vườn Kỳ Thọ Cấp Cô Độc, diễn tả cuộc cầu pháp tham học với năm mươi ba vị thiện tri thức của Thiện Tài Đồng Tử.
[3] Theo đại sư Thanh Lương phán định, kinh Hoa Nghiêm chia làm bốn khoa:
a) Cử Quả Khuyến Yếu Sanh Tín Phần (Phần nêu quả để khuyên phải sanh lòng tin), tức là Tín phần: Gồm hai hội đầu trong mười hội, giảng về Y Báo, Chánh Báo trang nghiêm của Phật Tỳ Lô Giá Na, thuyết minh thế giới của đức Phật để hành nhân từ Sơ Địa Bồ Tát trở lên ngưỡng mộ quả báo, phát sanh lòng tin chân thật.
b) Tu Nhân Khế Quả Sanh Giải Phần (phần tu nhân, khế nhập quả, sanh hiểu), còn gọi là Giải Phần: Giảng về lý luận, nhân như thế nào, quả như thế nào. Phần này gồm các hội thứ ba, tư, năm, và sáu.
c) Thác Pháp Tấn Tu Thành Hạnh Phần, tức là nói về Hạnh của bậc Diệu Giác, Đẳng Giác, gồm toàn bộ kinh văn thuộc hội thứ bảy và hội thứ tám.
d) Y Nhân Chứng Nhập Thành Đức Phần, tức Chứng Phần, nói về cách dùng Tu Đức để hiển Tánh Đức, cụ thể là việc tham học của Thiện Tài Đồng Tử và mười đại nguyện Phổ Hiền
[4] Lục Tướng: sáu tướng của sự vật trong vạn hữu:
a) Tổng tướng: một pháp duyên khởi đầy đủ nhiều đức, như thân người đầy đủ các căn.
b) Đồng tướng: nhiều đức hòa hợp nương nhau tạo thành một pháp, nhưng không chống trái nhau.
c) Dị tướng: nhiều đức khác nhau tạo thành một pháp, như các căn tạo thành thân người, nhưng mỗi căn mỗi khác.
d) Thành tướng: nhiều đức nương nhau tạo thành một tướng, như sáu căn hợp thành thân người.
d) Hoại tướng: mỗi căn đều trụ nơi bản vị, không dời đổi, nên không thành tổng tướng.
Thập Huyền Môn: xin xem phần Chú Giải kinh Vô Lượng Thọ của cư sĩ Hoàng Niệm Tổ, quyển thứ nhất.
Tứ pháp giới: tức Sự vô ngại, Lý vô ngại, Lý Sự vô ngại và Sự Sự vô ngại.
[5] Đại Phương Quảng: Đại gồm ba nghĩa:
a) Pháp thân của Phật rộng lớn vô lượng vô biên. Tất cả hết thảy cảnh giới thảy đều trọn khắp đầy đủ. Bởi thế gọi là Đại.
b) Các môn trí huệ của Phật vừa cao vừa rộng, nhiều vô cùng vô tận nên gọi là Nhất Thiết Chủng Trí (thấu đạt chân tánh của hết thảy pháp), nên gọi là Đại.
c) Đức Phật chứng được diệu pháp tối thắng, không cảnh giới Bồ Tát nào vượt trỗi hơn được, chỉ mình đức Phật có khả năng hóa độ mọi chúng sanh ứng theo căn cơ nên gọi là Đại.
Phương là quỹ tắc (Quỹ là đường xe đi). Ý nói đạo lý chân thật, hết thảy chúng sanh tuân thủ, thực hành theo thì mới mong được giải thoát, mới khỏi bị đọa lạc.
Chữ Quảng ý nói kinh Phật ý nghĩa rộng sâu không thể suy lường được.
Hợp ba chữ này, Đại Phương Quảng ý nói: Tâm tánh Phật và tâm tánh chúng sanh đồng một thể, tâm tánh ấy bao trùm pháp giới, phủ trọn mười phương; Phật thụ dụng được tâm ấy, chúng sanh do mê hoặc nên vẫn là phàm phu. Phải nương theo tâm tánh ấy để được chân thật thọ dụng như chân Phật.
Nếu luận về Thể - Tướng - Dụng thì Đại là Thể của tâm tánh: Tâm tánh ấy thanh tịnh, chẳng ô nhiễm mảy may, chưa hề tăng giảm. Phương là Tướng của tâm tánh, còn có thể nói là Lượng của tâm tánh. Tướng ấy còn lớn hơn cả hư không, có thể nói là không ngằn mé. Tướng ấy nói rộng ra là ngang khắp mười phương, dọc suốt ba đời. Quảng là Dụng của Tánh: Tâm ấy có thể tạo lập hết thảy pháp, bao gồm cả mười pháp giới, chẳng thể nghĩ bàn.
[6] Ở đây, chúng tôi không rõ có sự nhầm lẫn trong ấn loát hay không, đa số các sách ghi là hai mươi mốt ngày (hoặc “tam thất” (3 lần bảy ngày)). Bản in này ghi là “nhị thất nhật”, nên chúng tôi dịch theo là “mười bốn ngày”.
[7] Theo Hòa Thượng Tịnh Không, chữ Kệ ở đây phải hiểu là cách tính kích thước một văn bản của Ấn Độ thời cổ, một bài kệ là bốn câu, như nay ta nói kinh Hoa Nghiêm có mười vạn kệ, mười vạn tức là bốn mươi vạn câu, bốn mươi vạn câu dài ngắn khác nhau. Chữ Kệ này khác với Kệ Tụng là một thể loại văn vần nhằm trùng tuyên ý nghĩa đã được giảng trong phần Trường Hàng.
[8] Phật Đà Bạt Đà La (Buddhabhadra 359-429): Hán dịch là Giác Hiền, cao tăng Ấn Độ, sống vào thế kỷ thứ 5, người ở thành Na Ha Lợi, con cháu họ Thích, thuộc dòng dõi Cam Lộ Phạn Vương. Sư xuất gia năm bảy tuổi, đặc biệt giỏi về Thiền và Luật. Cùng với Tăng Già Bạt Đà La, Sư đến Kế Tân thọ pháp với ngài Phật Đại Tiên. Sau nhận lời thỉnh của Trí Nghiêm, ngài đến Trường An hoằng pháp năm 408. Vì không quen với phong tục Trường An và không hợp với các đệ tử của La Thập nên Sư cùng hơn 40 đệ tử rời Trường An đến ở Lô Sơn với Sơ Tổ Tịnh Độ Huệ Viễn. Năm 415, Sư đến chùa Đạo Tràng, Kiến Khang (nay là Nam Kinh), dịch Lục Thập Hoa Nghiêm; cùng ngài Pháp Hiển dịch Luật Ma Ha Tăng Kỳ, Đại Bát Nê Hoàn kinh, tất cả gồm 13 bộ, 125 quyển. Sư thị tịch năm 429 đời Lưu Tống, thọ 71 tuổi.
[9] Thật Xoa Nan Đà (Siksananda 652-710): Người xứ Vu Điền (nay thuộc tỉnh Tân Cương), năm 652, Sư đem Phạn bản kinh Hoa Nghiêm đến Trung Quốc, cùng Bồ Đề Lưu Chi, Nghĩa Tịnh… dịch sang Hán văn tại chùa Đại Biến Không. Sư còn dịch nhiều bản kinh Đại Thừa khác. Năm 705, Sư trở về nước, sau Sư lại được nghênh thỉnh ba lần. Sư mất năm 710, sau khi trà tỳ cuống lưỡi không hư hoại, học trò Sư đưa kinh cốt về Vu Điền xây tháp cúng dường (theo Huệ Quang tự điển).
[10] Ô Đồ (Odra) là một nước cổ ở Đông Ấn Độ, gần khu vực Orissa ngày nay, thường bị gọi sai là Ô Trành quốc. Theo Đại Đường Tây Vực Ký, người dân nước này khôi ngô, hiếu học. Lúc Ngài Huyền Trang sang Thiên Trúc cầu học, nước này Phật giáo rất thạnh hành. Vua Ô Đồ dâng kinh Hoa Nghiêm vào năm Trinh Nguyên thứ 11 (795) đời Đường Đức Tông. Bản kinh này do chính tay vua tự chép bằng tiếng Phạn.
[11] Nếu gọi đầy đủ là Nhập Bất Tư Nghị Giải Thoát Cảnh Giới Phổ Hiền Hạnh Nguyện Phẩm, tương ứng với phẩm Nhập Pháp Giới trong bản Tứ Thập Hoa Nghiêm; phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện là quyển thứ 40 của phẩm này.
[12] Thanh Lương đại sư: Pháp húy Trừng Quán (738-839), tổ thứ tư tông Hoa Nghiêm. Còn có hiệu là Đại Hưu, được phong Thanh Lương quốc sư. Sư xuất gia năm 14 tuổi, với Bái thiền sư chùa Bảo Lâm. Tuy tinh tường Luật, Thiền, Mật, ngài đặc biệt chú trọng giáo nghĩa của ngài Pháp Tạng. Năm 776, Sư chuyên tu Phương Đẳng Sám Pháp tại chùa Đại Hoa Nghiêm ở Ngũ Đài, giảng kinh Hoa Nghiêm rất nhiều lượt. Sư tham gia dịch trường Tứ Thập Hoa Nghiêm của ngài Bát Nhã và viết Trinh Nguyên Tân Dịch Hoa Nghiêm Kinh Sớ 10 quyển. Năm 799, Sư được vua thỉnh vào điện, giảng kinh Hoa Nghiêm, vua bỗng nhiên giác ngộ, cho rằng “diệu pháp làm mát lòng trẫm” nên ban đức hiệu Thanh Lương Quốc Sư. Chú sớ của đại sư về kinh Hoa Nghiêm rất nhiều, rất đồ sộ (theo Huệ Quang tự điển).
[13] Tông Mật đại sư (780-841): Gọi đủ là Khuê Phong Tông Mật, tổ thứ năm của tông Hoa Nghiêm. Năm 806, Sư đi thi, giữa đường qua Toại Châu, nghe Hòa Thượng Đạo Viên thuyết pháp, bèn xuống tóc xuất gia. Năm 810, sư tham bái ngài Thanh Lương Trừng Quán, thọ trì giáo học Hoa Nghiêm. Chú giải kinh Viên Giác của Sư được coi là khuôn mẫu cho các tác phẩm chú giải kinh Viên Giác sau này. Sư đề xướng Thiền Giáo Nhất Trí và được coi là một thiền sư nổi danh thuộc dòng thiền Thần Hội (theo Huệ Quang tự điển).
Trích từ: Lược Giảng Giáo Nghĩa Phẩm Phổ Hiền Hạnh Nguyện