Home > Khai Thị Niệm Phật > Nhung-Dieu-Can-Biet-Ve-The-Gioi-Tay-Phuong-Cuc-Lac
Những Điều Cần Biết Về Thế Giới Tây Phương Cực Lạc
Hòa Thượng Thích Thiện Phụng


Nói đến thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà, quý Phật tử chắc hẳn sẽ hình dung ngay đến quang cảnh thù thắng trang nghiêm thanh tịnh của cảnh giới Tịnh Độ đã được mô tả khái lược trong kinh A Di Đà, tuy nhiên vẫn còn nhiều người do chưa có duyên đọc qua các bộ kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ, nên chưa thể hình dung cõi Cực Lạc đó như thế nào, nhất là đối với hàng Phật tử sơ cơ mới phát tâm hướng về Tịnh Độ.

Trước tiên chúng ta cùng nhau điểm qua một số tên gọi chung của cõi Cực Lạc mà đức giáo chủ cõi đó là Phật A Di Đà. Theo các bộ kinh Tịnh Độ thì cõi Cực Lạc còn có tên là An Dưỡng Quốc hay An Lạc Quốc, hàng Phật tử chúng ta thường gọi là Thế giới Tây Phương Cực Lạc.

Trước khi nói về thế giới Cực Lạc mà trong tương lai nếu niệm Phật được nhất tâm bất loạn, chúng ta sẽ được vãng sanh về đó, thiết nghĩ, chúng ta cũng cần tìm hiểu vài nét về nhân duyên tựu thành của thế giới Tịnh Độ đặc biệt này. Kinh Vô Lượng Thọ ghi rằng, đức Phật A Di Đà khi còn làm Pháp Tạng Tỳ Kheo, vì nhắm đến mục đích trang nghiêm cõi Tịnh Độ để giáo hóa chúng sanh, nên đã tác bạch với đức Phật Thế Tự Tại, xin dạy cho biết về tướng trạng và nội dung hai trăm mười ức quốc độ của chư Phật để y cứ vào đó mà tu hành. Sau khi nghe thấy tường tận bao nhiêu cảnh giới quốc độ của chư Phật, Tỳ Kheo Pháp Tạng mới bắt đầu vận hết tinh thần tu nhân “tạo quốc độ”, trải qua năm đại kiếp tư duy nhiếp thủ ngài mới tựu thành thế giới Cực Lạc. Như chúng ta đã biết, lý do khiến Tỳ Kheo Pháp Tạng phát tâm tu tập tư duy nhiếp thủ để tạo thành cảnh giới Tịnh Độ là nhằm xây dựng một đạo tràng thanh tịnh trang nghiêm để tiếp độ chúng sanh. Đối với hàng Phật tử thì thế giới Tây Phương Cực Lạc là chỗ quay về vô cùng an ổn. Nếu chúng ta trì danh niệm Phật thành khẩn, được nhất tâm bất loạn, được vãng sanh về đó thì thật là vinh hạnh diễm phúc vô cùng, vì đó là nấc thang khởi đầu cho sự thốt ly luân hồi sanh tử, để từ đó chúng ta tiếp tục tiến tu bất thối chuyển đến cứu cánh giải thốt. Qua đó chúng ta có thể cảm nhận sâu sắc lòng từ bi vô hạn của đức Phật A Di Đà đối với chúng sanh, nhất là đối với chúng sanh cõi Ta bà nghiệp chướng sâu dày như chúng ta, nếu không chịu khổ nhọc, tu trì niệm Phật thì thâm ân trời biển đó làm sao chúng ta có thể đáp đền. Nói đến thế giới Cực Lạc, chúng ta cũng cần tìm hiểu qua về công dân cũng như đất đai, khí hậu, cảnh vật trong cõi đó ra sao, điều này cũng có nghĩa là chúng ta thử tìm hiểu quả báo mà công dân ở cõi Cực Lạc sẽ thọ lãnh những gì. Nói về quả báo nơi mỗi con người, trong Phật học chia quả báo làm hai loại:

- Quả báo hiện trong tự thân gọi là Chánh báo.

- Quả báo hiện ở ngồi thân gọi là Y báo (như hồn cảnh sống, quốc độ, tất cả sự việc xung quanh, đều gọi là y báo).

Sự tôn nghiêm thanh tịnh của chánh báo và y báo ở cõi Cực Lạc, đức Phật đều đã thuyết giảng trong các bộ Kinh A Di Đà, Vô Lượng Thọ, Thập Lục Quán. Tuy nhiên trong ba bộ kinh này, đức Phật cũng chỉ mới giãi bày một cách đại khái. Theo như đức Phật dạy, nếu nói về cõi Cực Lạc của đức Phật A Di Đà một cách đầy đủ rõ ràng, e rằng cùng đời mãn kiếp cũng không thể nào nói cho hết được. Dù rằng không thể diễn tả được đầy đủ và rõ ràng nhưng thông qua kinh điển mà đức Phật đã chỉ dạy, chúng ta cũng được biết một cách khái lược về trạng thái trang nghiêm của thế giới Tây Phương Cực Lạc đó như sau:

- Tự thân trang nghiêm: Đây là nói về con người, nói về công dân ở cõi Cực Lạc, cũng được gọi là chánh báo trang nghiêm, gồm các chi tiết đặc điểm sau:

1. Thân tướng trang nghiêm: Nhân dân trong cõi Tịnh độ, thân tồn sắc vàng, có đủ 32 tướng tốt, hình mạo giống nhau, không kẻ đẹp người xấu, dung sắc vi diệu, cao lớn khôi ngô, vô cùng xinh đẹp.

2. Thọ mạng vô hạn: Sống lâu vô lượng vô biên a tăng kỳ kiếp (vô số), tự chủ hồn tồn, tùy theo bản nguyện.

3. Có phép thần thông: Từ Thiên nhãn thông (thấy suốt tất cả) đến Thiên nhĩ thông (nghe suốt tất cả), Tha tâm thông (biết suốt tâm niệm kẻ khác), Túc mạng thông (biết rõ kiếp trước), Thần túc thông (đi lại tự tại), nếu chứng được quả vị A La Hán thì còn được thêm Lậu tận thông (dứt sạch nghiệp luân hồi).

4. Thường an trú chánh định: Tâm trí luôn an định, không bị hồn cảnh chi phối tán động.

5. Không còn đọa ác đạo: Đã sanh Tịnh độ thì không bao giờ còn bị sa đọa lại vào ba đường dữ: Địa ngục, Ngạ quỷ, Súc sanh.

6. Hoa sen hóa sanh: Nhân dân ở Tịnh Độ đều hóa sanh từ hoa sen mọc trong ao bảy báu, tuyệt nhiên không do ái dục giữa nam nữ mà thành.

7. An vui thanh tịnh: Thân tâm được an lạc như các vị Tỳ kheo đã chứng quả A La Hán (Lậu tận thông).

8. Không còn có tên bất thiện: Ở cõi Tịnh Độ không còn có gì được gọi là bất thiện, danh từ bất thiện cũng không có, huống nữa là sự thật bất thiện.

9. Đạo tâm bất thối: Được sanh về cõi Tịnh Độ, tâm niệm luôn luôn dõng mãnh tinh tấn một mạch thẳng tiến đến đạo quả Vô Thượng Bồ Đề, không còn thối chuyển.

10. Trí huệ biện tài: Đọc tụng kinh văn thọ trì giáo pháp một cách tinh tế và có đủ tài biện luận vô ngại.

11. Được vô sanh nhẫn: Chứng quả Vô Sanh Pháp Nhẫn tức là phá trừ hết ngã chấp và pháp chấp, đạt được chơn trí, và chơn trí ấy xứng hợp với chơn lý, lý và trí không hai.

12. Oai lực tự tại: Có đủ năng lực lớn lao và thần thông tự tại như các bậc Thanh Văn và Bồ Tát, đủ năng lực nắm tất cả thế giới vào trong lòng bàn tay.

13. Thân sáng chói lọi: Hàng Thanh Văn thân thì chiếu sáng được một tầm, hàng Bồ Tát thì thân chiếu sáng được từ một trăm do tuần cho đến tam thiên đại thiên thế giới.

14. Vô số Thanh Văn: Trong hội đầu tiên của đức Phật A Di Đà đã giáo hóa, số chúng sanh chứng quả Thanh Văn không thể kể xiết, số Bồ Tát cũng vậy. Về số lượng Thanh Văn và Bồ Tát chứng quả này. Đức Thích Ca đã bảo cho ngài A Nan hay rằng: “Có sức thần như Mục Kiền Liên và dùng sức thần thông ấy trải qua trăm ngàn muôn ức vô số kiếp cũng không thể biết được số lượng Thanh Văn, Bồ Tát chứng quả trong đại hội đầu tiên của đức Phật A Di Đà giáo hóa, dù cho có biết được một phần nào mà nếu đem so với số chưa biết được thì cũng không khác nào một giọt nước so với biển cả”.

15. Vô số bổ xứ Bồ Tát: Ở quốc độ Cực Lạc, chúng sanh đều bất thối chuyển, trong số bất thối chuyển đó, số người sẽ Bổ xứ (sắp thành Phật) không thể đếm hết được. Số người Bổ xứ thật là vô lượng, vô số, vô biên vậy.

B. Tịnh độ Trang nghiêm: Đây là nói về thổ địa, hồn cảnh, môi trường sống, cũng được gọi là Y báo trang nghiêm, gồm các chi tiết được liệt kê như sau:

1. Quốc độ bằng phẳng thanh tịnh: Tồn quốc không có bụi nhơ, không có núi Tu Di và các núi non gò nổng khác, cũng không có biển lớn biển nhỏ mênh mông hoặc khe ngòi hang hố chập chùng.

2. Mặt đất do bảy báu tạo thành: Ở quốc độ Cực Lạc, ngọc lưu ly rải khắp mặt đất, xen lộn với bảy báu, trong suốt từ trong ra ngồi. Dưới đáy đất có đế bằng vàng, kim cang và thất bảo chống đỡ đất lưu ly. Xung quanh đế, trong tám phương có tám góc, mỗi góc khảm bằng thất bảo, mỗi thứ trong thất bảo chiếu ra trăm ngàn ánh sáng có tám vạn bốn ngàn màu sắc chói sáng rực rỡ lên mặt đất lưu ly có dây chuyền vàng bủa giăng, xen lộn với thất bảo, tạo thành những ranh giới ngay thẳng phân minh, rộng rãi bao la, mênh mông bát ngát, tráng lệ thanh kỳ, trang nghiêm tuyệt diệu.

3. Khí hậu ôn hòa: Khí hậu không lạnh không nóng, mát mẻ quanh năm, không phân chia bốn mùa: Xuân, Hạ, Thu, Đông.

4. Lưới báu bủa giăng: Vô lượng lưới báu giăng khắp cõi Phật. Dây giăng tồn bằng vàng, kết tua bằng ngọc trân châu, xen lẫn với trăm ngàn thứ ngọc báu khác xinh đẹp lạ lùng. Chung quanh bốn phía lưới có treo các linh báu sáng ngời chói lọi, vô cùng tráng lệ. Mỗi khi gió dịu thổi qua, linh báu phát ra vô lượng pháp âm khiến chúng sanh ở đấy, hễ nghe tiếng linh thì tự nhiên sanh tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

5. Sáu thời mưa hoa: Ngày đêm chia sáu thời có gió dịu phưởng phất, đồng thời từ trên trời, hoa Mạn đà la rơi xuống cùng khắp bờ cõi thơm tho mát dịu. Mỗi lần mưa hoa, chân đi xuống lún bốn tấc, như đi trên nệm gấm nhưng theo bước chân dỡ lên, lớp hoa lại hợp liền lại như cũ. Tuần tự trước sau, hoa ấy héo dần rồi biến mất, mặt đất trở lại sạch sẽ. Ngày đêm có sáu lần cảnh tượng ấy diễn đi diễn lại như thế.

6. Sen báu đầy dẫy: Các thứ hoa sen báu mọc lên cùng khắp cả cõi Phật. Mỗi một hoa sen báu mọc lại có trăm ngàn ức cạnh. Từ các cạnh, sức chói sáng của hoa ánh ra vô lượng màu sắc.

Sắc xanh phóng ra hào quang xanh, sắc trắng phóng ra hào quang trắng, các sắc huyền, vàng, đỏ, tía, mỗi mỗi đều phóng một loại hào quang riêng vô cùng rực rỡ chói lọi, lấn áp cả ánh sáng mặt trăng mặt trời.

7. Hóa Phật thuyết pháp: Từ mỗi hoa sen báu tuôn ra ba mươi sáu trăm ngàn ức hào quang, trong mỗi hào quang hiện ra ba mươi sáu trăm ngàn ức đức Phật, với thân vàng sáng chói, tướng tốt trang nghiêm, mỗi một đức Phật, lại phóng ra vô số hào quang chiếu sáng khắp mười phương và nói pháp nhiệm mầu cho mười phương nghe.

8. Cây đạo tràng của Phật: Cây đạo tràng của đức Phật A Di Đà là do các báu hợp thành. Ngài lại dùng trân châu mã não trang sức thêm. Chung quanh cây, trên các nhánh lớn, cành con, các thứ chuỗi ngọc treo lòng giõng, tỏa ra trăm ngàn vạn sắc trân kỳ. Trên cây đạo tràng, lưới báu xinh đẹp bủa giăng, hết thảy đều trang nghiêm và tùy ý ứng hiện.

9. Cây báu phát âm thanh: Vô số cây báu mọc cùng khắp cõi Tịnh Độ. Có cây chỉ do một ngọc báu tạo thành, có cây do hai, ba cho đến bảy loại ngọc báu xen lẫn nhau mà đúc nên. Các loại cây báu ấy mọc từng hàng ngang nhau, trổ từng cành đối nhau, đâm từng nhánh so nhau, lá lá hướng với nhau, hoa hoa giao với nhau, trái trái tương đương nhau, xanh tươi xinh đẹp không thể tả xiết. Khi một làn gió nhẹ thoảng qua, từ cành, từ lá, từ hoa, từ quả, mỗi mỗi đều phát ra năm thứ thanh âm hòa nhã như trăm ngàn điệu nhạc hòa tấu một cách tự nhiên. Nhạc điệu du dương tuyệt diệu hơn gấp trăm ngàn muôn ức lần tràng nhạc của cung trời Lục Dục và phát ra vô lượng thanh âm mầu nhiệm. Nghe tiếng nhạc ấy rồi chúng sanh liền lần lượt chứng nhập giáo pháp sâu xa, tiến lên bậc bất thối, tiến mãi cho đến khi thành tựu quả Phật. Nghe tiếng nhạc ấy rồi thì tai trở nên thanh tịnh, không còn các khổ hoạn, mắt trông thấy được sắc cây, mũi ngửi được hương cây, miệng nếm được vị cây, thân tiếp xúc được ánh sáng của cây tỏa ra, ý suy nghĩ hình dáng của cây. Sáu căn đã lãnh hội được hồn tồn cây báu rồi thì liền tỏ ngộ được thậm thâm pháp nhẫn mà lên bậc bất thối. Từ đó mãi cho đến khi thành đạo quả, không còn có sự não hại và lục căn luôn luôn được thanh tịnh.

10. Muôn vật nghiêm lệ: Hết thảy muôn vật đều trang nghiêm thanh tịnh, sáng suốt xinh đẹp. Hình sắc đặc biệt và lộng lẫy một cách vi diệu, không thể tả xiết.

11. Không có ba đường dữ: Không có các khổ nạn của ba cảnh giới Địa ngục, Ngạ quỹ và Súc sanh.

12. Cung điện trang nghiêm: Hết thảy nhà cửa như giảng đường tịnh xá, cung điện, lầu gác đều tự nhiên thành tựu và đều trang hồng bằng bảy thứ báu. Trên nhà cửa cung điện còn có giăng phủ một lớp mặt võng làm bằng các thứ báu trân châu, ma ni, minh nguyệt. Lại nữa, nhà cửa cao thấp, rộng hẹp, lớn nhỏ và được xây cất bằng một, hoặc hai, hoặc vô lượng thứ báu, hết thảy đều tùy sở nguyện mà liền có ứng hiện.

13. Quốc độ thanh tịnh: Quốc độ thanh tịnh trong suốt như một thế giới pha lê, chiếu tỏa khắp mười phương, khiến từ đó có thể trông thấy được vô lượng vô biên vô số thế giới của chư Phật bất khả tư nghị.

14. Hồ tắm trong thơm: Nước trong các hồ tắm yên lặng trong suốt, bản chất thanh tịnh, mùi vị thơm tho như nước cam lồ và có đầy đủ tám tính chất gọi là “bát công đức thủy”. Nếu là hồ hồng kim thì dưới đáy là cát bạch ngân, nếu là hồ bạch ngân thì dưới đáy là cát vàng, nếu là hồ thủy tinh thì dưới đáy là cát lưu ly, nếu là hồ lưu ly thì dưới đáy là cát thủy tinh, nếu là hồ san hô thì dưới đáy là cát hổ phách, nếu là hồ hổ phách thì dưới đáy là cát san hô, nếu là hồ xà cừ thì dưới đáy là cát lưu ly, nếu là hồ lưu ly thì dưới đáy là cát xà cừ, nếu là hồ bạch ngọc thì dưới đáy là cát vàng tía, nếu là hồ vàng tía thì dưới đáy là cát bạch ngọc. Các nhóm báu ấy còn thay đổi tùy theo ý người muốn: Hoặc do hai thứ báu, hoặc do ba, bốn cho đến bảy thứ báu mà hợp thành hồ.

15. Nước hồ lên xuống tùy nguyện: Nhân dân ở quốc độ Cực Lạc, một khi bước chân xuống hồ, mực nước lên xuống cao thấp đều tùy theo ý nguyện. Cũng tùy theo ý nguyện mà nước hồ có ấm lạnh một cách tự nhiên. Tắm xong, tinh thần thấy sảng khối và tẩy trừ hết tâm cấu nhiễm. Mỗi khi bước xuống tắm bốn phía bờ hồ có tiếng sóng vỗ lao xao như một điệu nhạc, phát ra tiếng niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, tiếng Tịch tịnh xa vắng, tiếng Vô ngã, tiếng Đại từ đại bi, tiếng Ba La Mật. Những tiếng phát ra như vậy rất xứng hợp với người nghe và khiến người nghe sanh tâm hoan hỷ vô lượng.

16. Hương xông ngào ngạt: Từ mặt đất lên đến hư không, hết thảy cung điện, lầu gác hồ sen, cây hoa, cho đến tất cả vạn vật đều xông ướp trong trăm ngàn thứ hương thơm, kết hợp do vô lượng tạp bảo đặc biệt. Hương ấy tỏa khắp mười phương thế giới, Bồ Tát ngửi thấy mùi hương liền dõng mãnh tu theo hạnh Phật.

17. Thức ăn tinh khiết: Thức ăn gồm các thứ hương hoa vô cùng tinh khiết và thù thắng hơn ở các cảnh trời. Mỗi khi muốn ăn, chén bát thất bảo tự nhiên hiện ra với trăm thức ăn uống đầy đủ. Cách ăn không như ở cảnh giới chúng ta, mà chỉ bằng tác ý và bằng mắt thấy tai nghe, tức thời tự nhiên bảo mãn. Ăn xong, thức ăn tiêu hóa, đến giờ ăn sau, những thức ăn mới lại tự nhiên hiện ra như trước.

18. Y phục tùy niệm: Y phục của nhân dân tùy niệm tùy hiện, không cần may cắt, giặt nhuộm.

19. Chim biết thuyết pháp: Các thứ chim ở cõi này đều là hóa thân của đức A Di Đà. Ngài biến hóa ra các thứ chim tạp sắc kỳ diệu như Bạch Hạc, Khổng Tước, Anh Võ, Xá Lợi, Ca Lăng Tần Già, Cọng Mạng, chim Phù, chim Nhạn, chim Oan Ương v.v... ngày đêm sáu thời, kêu tiếng hòa nhã. Tiếng ấy giảng giải pháp Ngũ căn, Ngũ lực, Bảy phẩm Bồ đề, Tám pháp chánh đạo v.v... Khiến người nghe đều phát tâm niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng.

Sự trang nghiêm, thanh khiết, an tịnh nơi tự thân của mỗi công dân ở cõi Cực Lạc và sự thù thắng vi diệu của cảnh giới Cực Lạc như được nêu khái lược trên đây, chắc chắn đó sẽ là niềm mơ ước của mỗi người con Phật, nhất là đối với những người con Phật đang phải sống trong cảnh Ta Bà uế trược, bất an, phiền não, đau thương nghiệp chướng này. Nếu được vãng sanh về đó thì quả là một đại may mắn, đại diễm phúc, mà tất cả vật chất vàng bạc châu báu dù có chất đầy cả mười phương hư không cũng không thể nào sánh nổi. Chính vì lẽ đó, chúng tôi mong mỏi quý Phật tử hay nỗ lực tinh tấn niệm Phật, chân thật thành kính niệm Phật để mai hậu bảo đảm vãng sanh về Thế giới Tây phương Cực Lạc.

Thế giới Tây phương Cực Lạc, dầu không thể diễn đạt hết bằng văn tự hay lời nói, nhưng thế giới Tây Phương Cực Lạc đó chúng ta vẫn có thể mục kích sở thị nếu như chúng ta tha thiết tu hành, thành kính hướng về đức Từ Phụ Di Đà khẩn nguyện vãng sanh, chân thật niệm Phật, tinh tấn ngày đêm không rời câu Phật hiệu, thì ngay trong hiện kiếp. Khi được vãng sanh Cực Lạc, tất nhiên khi đó, tự chúng ta sẽ trông thấy thế giới Cực Lạc một cách tường tận rõ ràng mà không cần phải hiểu biết qua kinh sách hay nghe ai thuyết giảng cả. Tận mặt diện kiến Phật A Di Đà và thế giới Cực Lạc bằng chính sự nỗ lực công phu trì danh niệm Phật của mình, thiết nghĩ đó là mong ước của cả một đời học Phật. Cảm nhận điều này một cách sâu sắc, rất mong quý Phật tử hãy tinh tấn tu hành.

Phần chánh báo trang nghiêm và y báo trang nghiêm trong chương này, chúng tôi lược trích từ chương “Phạm vi cõi Cực Lạc” trong cuốn Pháp môn Tịnh Độ của Hòa thượng Thích Trí Thủ NXB Tôn Giáo – 2002.

Từ Ngữ Phật Học Trong: Những Điều Cần Biết Về Thế Giới Tây Phương Cực Lạc