Home > Khai Thị Niệm Phật > Y-Nghia-Tinh-Do
Ý Nghĩa Tịnh Độ
Hòa Thượng Thích Thiện Phụng


Giáo pháp mà đức Phật đã thuyết giảng đến nay đã được lưu truyền khắp nơi trên thế giới. Pháp môn mà hàng trăm triệu người con Phật trên hành tinh này đang y giáo phụng hành, đó là pháp môn Tịnh Độ. Riêng ở Việt Nam chúng ta, pháp môn mà được hầu hết quần chúng Phật tử hướng đến, tu tập nhiều nhất vẫn là pháp môn trì danh niệm Phật của Tông Tịnh Độ. Thật vậy, từ chư tôn Đại đức Tăng, Ni đến hàng cư sĩ Phật tử tại gia không ai là không thực hành pháp môn này.

Đối với quần chúng Phật tử, nhất là hàng Phật tử sơ cơ mới quy hướng về Tịnh Độ, thì vẫn chưa hiểu biết gì nhiều về pháp môn Tịnh Độ, do đó họ đều đang rất muốn biết về thế giới Tịnh Độ đó ra sao? Trong mười phương có bao nhiêu cõi Tịnh Độ? Thế giới Tây Phương Cực Lạc đó như thế nào? Sau khi vãng sanh về đó rồi, con người của chúng ta sẽ trở nên như thế nào? Đại khái những thắc mắc như vậy vẫn còn đọng lại rất nhiều trong tâm thức của Phật tử. Chúng tôi thiết nghĩ, những thắc mắc này cũng nên được một lần giải đáp để quý Phật tử yên tâm niệm Phật. Hơn nữa, sau khi biết được ý nghĩa tốt đẹp, thù thắng và vô cùng hấp dẫn về cõi Tịnh Độ rồi, thì tín tâm của quý Phật tử sẽ tăng trưởng nhiều hơn, nguyện lực của quý Phật tử sẽ sâu dày hơn… Có lẽ biết trước điều này nên đức Phật đã từ bi chỉ dạy rất rõ ràng rành mạch về y báo, chánh báo cõi Tinh Độ trong các bộ kinh Thập Lục Quán, Quán Vô Lượng Thọ, A Di Đà Kinh. Chúng tôi tóm tắt những phần trọng yếu liên quan đến ý nghĩa thù thắng tốt đẹp của Tịnh Độ trong các bộ kinh nói trên với mục đích giúp quý Phật tử sơ cơ có thêm kiến thức về Tịnh Độ, đồng thời qua đó, tăng trưởng Tín – Nguyện, thiết tha trì danh niệm Phật, mai hậu vãng sanh về Tây Phương Cực Lạc.

Trong chương này, chúng tôi chỉ nói về ý nghĩa chung của Tịnh Độ, những thù thắng tốt đẹp chung của các cõi Tịnh Độ trong mười phương, trong chương kế tiếp chúng tôi mới nói đến đặc thù của cõi Tây Phương Cực Lạc. Chính vì vậy mà chúng tôi lưu ý cùng quý Phật tử, nếu so sánh cõi Tịnh Độ trong mười phương với cõi Tịnh Độ của Phật A Di Đà ở Tây Phương Cực Lạc, thì phạm vi cõi Cực Lạc có ưu điểm và thắng ích hơn nhiều.

Nói là Tịnh Độ, vì đó là quốc độ trang nghiêm, thanh khiết, an tịnh. Hay nói dễ hiểu hơn, đó là một thế giới trang nghiêm thanh tịnh, hồn tồn không có uế trượt, bất an hay đau khổ. Để được gọi là Tịnh Độ thì nhân dân và đất đai, khí hậu, cảnh vật của thế giới đó phải hội đủ những điều kiện tối thiểu như sau: A Nhân dân trong cõi Tịnh Độ luôn được (tức chánh báo):

1. An Lạc vô bệnh.

2. Thọ mạng lâu dài.

3. Thân tướng đẹp đẽ.

4. Không có nghèo giàu, sang hèn.

5. Tâm tánh nhu hòa, đạo đức cao thượng.

6. Đạo tâm kiên cố.

7. Mọi người đều do hóa sanh, không do thai sanh là kết quả của dâm dục uế trược.

8. Không có sự sai khác về nhỏ lớn, già trẻ, mạnh yếu.

9. Không nhơ bẩn, ô uế.

10. Tâm trí phóng khống, thông đạt.

11. Chấm dứt luân hồi trong lục đạo.

12. Đủ sáu món thần thông.

13. Đầy đủ huệ nhãn, chánh kiến. Quý Phật tử nên nhớ mười ba món trang nghiêm thanh tịnh được nêu trên đây là thuộc phần “Chúng sanh thế gian” (tức là chánh báo).

B. Đất đai – khí hậu – cảnh vật (tức y báo):

1 Đất đai bằng phẳng, đầy những châu ngọc trong suốt, không có khe hố núi gò lởm chởm và ao rãnh sông ngòi trồi trũng.

2 Không có các nạn thiên tai như bão lụt, sấm sét, đại hạn, địa chấn, mất mùa, đói rét.

3 Bầu trời luôn quang đãng, không cần ánh sáng mặt trời, mặt trăng hay đèn nến.

4 Vật dụng luôn mới mẻ, không vỡ, không hư, không cũ nát, không dơ nhớp.

5. Phong cảnh luôn xinh tươi, cây hóa đẹp đẽ, lầu gác mỹ lệ, tất cả tự nhiên hiện thành, không phải do kiến trúc xây dựng.

6. Khí trời luôn luôn mát mẻ.

7. Âm nhạc nhiệm mầu hòa tấu tự nhiên hay ngừng dứt tùy theo sở thích người nghe.

8. Ngồi lồi người, không có động vật nào khác, trừ sự biến hóa của Phật để thuyết pháp.

9. Hồ nước trong thơm ngọt ngào, cạn sâu, ấm mát tùy theo sở thích từng người.

10. Cảnh vật tiếp xúc gây khối cảm nhẹ nhàng mà không làm chao động đạo niệm.

11. Bảy báu và vật dụng tự nhiên thành tựu để cung ứng đầy đủ mà không cần đến sức người.

12. Không có các sự trần lao phiền não.

13. Không có nạn nhân mãn, dù dân số vãng sanh ngày càng tăng.

14. Nhân dân sống trong thái bình an lạc, không có tà ma ngoại đạo bức hiếp. Mười bốn món trang nghiêm thanh tịnh này thuộc về phần “Khí thế gian” (tức là y báo). Hễ có đầy đủ cả hai phần Chúng sanh thế gian và Khí thế gian trang nghiêm thanh tịnh như đã nêu trên đây thì mới được gọi là Tịnh Độ.

Theo như trong kinh đức Phật dạy thì trong mười phương hư không có vô lượng vô số quốc độ. Dù rất nhiều quốc độ, nhưng khái quát chúng ta có thể chia thành hai loại:

1. Quốc độ do cộng nghiệp của chúng sanh duyên khởi mà thành. Chính cộng nghiệp của chúng sanh trong quốc độ này đã tạo thành y báo chung, rồi tùy từng biệt nghiệp thiện hay ác mà thọ lãnh quả báo vui sướng hay đau khổ. Đây chính là uế độ, trong uế độ này, trong quá khứ chúng sanh đã gây ra nhiều ác nghiệp trong khi đó phước đức lại quá ít, do vậy mà cảm thành phần quốc độ vui ít khổ nhiều.

2. Quốc độ do Phật và Bồ Tát hóa hiện ra để làm đạo tràng hóa độ chúng sanh. Đây chính là Tịnh Độ. Nguyên nhân tạo nên Tịnh Độ là do sức phước huệ của chư Phật, Bồ Tát, sức gia trì của tứ vô lượng tâm từ bi hỷ xả, bên cạnh đó là công đức tu tập của chúng sanh hồi hướng nguyện sanh về Tịnh Độ. Có sự cảm ứng đạo giao giữa nội nhơn và ngoại duyên liên hệ khắng khít nhau nên mới duyên khởi thành quốc độ trang nghiêm thanh tịnh, thuần an vui cực lạc, hồn tồn không có tội nhơn khổ báo xen vào. Trong mười phương hư không có vô lượng vô số uế độ và Tịnh độ. Trong vô lượng vô số uế độ đó thì thế giới Ta bà mà chúng ta đang sống đây mới chỉ là một và thế giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà cũng chỉ là một trong những vô lượng vô biên thế giới Tịnh Độ trong mười phương hư không pháp giới. Chúng ta cũng nên biết, trong mười phương hư không thế giới có hằng hà sa số chư Phật thì cũng có hằng hà sa số cõi Tịnh Độ. Những chúng sanh nào được vãng sanh về các cõi Tịnh Độ ấy cũng đều do nhân duyên riêng, vì mỗi cõi đều có phương pháp tu hành khác nhau, phù hợp với từng nhân duyên. Nếu chúng sanh tu hành y theo phương pháp nào, đến khi thuần thục thì sẽ được vãng sanh về cõi Tịnh Độ ấy. Phương pháp tu hành cầu vãng sanh về Tịnh Độ thì gọi là phép tu Tịnh Độ.

Như chúng ta đã biết, trong mười phương có vô lượng vô số cõi Tịnh Độ thì phương pháp tu vãng sanh Tịnh Độ cũng nhiều vô lượng vô số. Riêng đối với cõi Tịnh Độ của đức Phật A Di Đà mà chúng ta thường gọi là thế giới Tây phương Cực Lạc thì đức Phật Thích Ca đặc biệt tán thán và giới thiệu rất rành rẽ tường tận, là vì chúng sanh trong cõi Ta bà lòng tham dục quá sâu nặng, tâm trí thường loạn động, trong khi đó đức tin lại quá cạn cợt. Trong tình trạng này mà giới thiệu một lúc nhiều cõi Tịnh Độ quá, e chúng sanh khó tu tập thành tựu. Do vậy đức Phật chỉ đặc biệt nói nhiều và tập trung về một cõi Tây Phương Cực Lạc khiến người nghe dễ chuyên nhất, dễ dàng ghi nhớ thì tu hành sẽ đạt hiệu quả hơn.

Tịnh Độ là do diệu dụng của chư Phật biến hiện ra, vì tác dụng ở mỗi cõi Tịnh Độ có sai khác nên danh nghĩa Tịnh Độ cũng tùy đó mà có sai khác. Trong cuốn Pháp môn Tịnh Độ, Hòa thượng Thích Trí Thủ đã chia ra mười loại Tịnh Độ không đồng nhau như:

1. Tỳ Lô Giá Na Tịnh Độ.

2. Duy Tâm Tịnh Độ.

3. Hằng Chơn Tịnh Độ.

4. Biến Hiện Tịnh Độ.

5. Ký Báo Tịnh Độ.

6. Phân Thân Tịnh Độ.

7. Y Tha Tịnh Độ.

8. Thập Phương Tịnh Độ.

9. Nhất Tâm Tịnh Độ.

10. Bất Khả Tư Nghì Tịnh Độ.

Trong mười loại Tịnh Độ này, đáng lưu ý nhất là Duy Tâm Tịnh Độ, Nhất Tâm Tịnh Độ và Bất Khả Tư Nghì Tịnh Độ. Trong giới hạn của tập sách nhỏ này, chúng ta chỉ nên tìm hiểu qua ba loại Tịnh Độ này thôi.

1. Duy Tâm Tịnh Độ tức là loại Tịnh Độ này tùy tâm mà biến hiện, chẳng hạn như tâm uế thì quốc độ uế, tâm tịnh thì quốc độ tịnh. Như trong kinh Duy Ma Cật dạy: “Trực tâm là Tịnh Độ của Bồ Tát”, khi Bồ Tát thành Phật thì những chúng sanh trung trực đều vãng sanh về cõi ấy.

2. Duy Tâm Tịnh Độ là nếu Bồ Tát muốn được quả Tịnh Độ là phải tịnh lòng mình, tùy tâm tịnh thì cõi Phật tịnh.

3. Nhất Tâm Tịnh Độ là nương nơi tâm mà biến hiện và tùy theo công năng tu chứng cao thấp nên được phân ra bốn bực không đồng, đó là Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ, Phương Tiện Hữu Dư Tịnh Độ, Thật Báo Vô Chướng Ngại Tịnh Độ, Thường Tịch Quang Tịnh Độ. Ở đây chúng ta chỉ nên hiểu qua Phàm Thánh Đồng Cư Tịnh Độ, vì loại Tịnh Độ này có liên quan đến chúng ta. Đây là quốc độ của hàng Nhị thừa và nhân thiên. Nhị thừa là Thánh, nhân thiên là phàm. Phàm thánh cùng ở chung nên gọi là Phàm Thánh Đồng Cư. Lại vì tính chất tịnh và uế không đồng nên được chia thành hai thứ. Như cõi Ta bà là đồng cư uế độ và cõi Cực Lạc là đồng cư Tịnh Độ.

Cuối cùng là Bất Khả Tư Nghì Tịnh Độ, đây là cảnh giới Cực Lạc của đức Phật A Di Đà để thâu nhiếp tiếp dẫn chúng sanh trong mười phương. Sức thâu nhiếp ấy không thể nghĩ bàn vì nó ngồi sức tưởng tượng và luận bàn của chúng sanh. Đối với người học Phật ngày nay, chúng ta chỉ nên tìm hiểu và chú trọng về thế giới Tây Phương Cực Lạc của đức Phật A Di Đà vì cõi ấy rất có quan hệ mật thiết với đời sống tu tập của tất cả chúng ta.