Home > Khai Thị Niệm Phật > Loi-Phat-Day
Lời Phật Dạy
Hòa Thượng Thích Thiện Phụng


Tập sách Chân thật niệm Phật – Cực Lạc hiện tiền này hướng đến hàng Phật tử sơ cơ khuyến tu niệm Phật, nên chúng tôi nghĩ rằng, càng sách tấn để người học Phật phản tỉnh nhiều chừng nào thì tốt chừng nấy. Trong hai chương đầu, chúng tôi chọn đề mục là Thân người khó được – Phật pháp khó gặp nhằm nói lên những suy nghĩ riêng tư của chúng tôi về cái may mắn lớn lao là đang được làm người, cái diễm phúc tuyệt vời là được sống trong ngôi nhà Phật pháp. Qua đó chia sẻ đến quý Phật tử những trăn trở thao thức của chúng tôi trước những vấn đề cấp bách mà người học Phật như chúng ta cần phải thực hiện ngay khi đang sở hữu những cái may mắn lớn lao này. Vì suy nghĩ như thế nào viết ra thế ấy, như chúng tôi đã nói, chỉ bằng tấm lòng thôi, do vậy từ cách trình bày, lập luận và ý tưởng của chúng tôi có thể còn luộm thuộm và nhiều chỗ còn trùng lặp. Song tự nghĩ, nếu quý Phật tử cảm nhận ở chúng tôi một tấm lòng thì có lẽ quý vị sẽ không phiền hà gì ở chỗ luộm thuộm và trùng lặp đó. Hơn nữa cơm rau dưa muối là vật thực tạm sống qua ngày mà chúng ta dùng từ năm này qua năm khác vẫn không thấy ngán, thì hề hấn gì một vài ý nghĩ Phật pháp bổ ích và cần thiết được nói tới nói lui. Do vậy chúng tôi rất mong quý Phật tử hoan hỷ bỏ qua những khiếm khuyết mà chắt lọc những gì cảm thấy cần thiết cho quá trình tu học của mình. Trong chương ba này, chúng tôi trình bày tóm tắt những lời Phật dạy một cách cô đọng: Tránh các điều ác – Siêng làm việc lành – Giữ ý nghĩ trong sạch. Đây là ba điều căn bản giáo dục đạo đức, nhân cách, nhân quả mà đức Phật đã dạy cho nhân loại. Riêng đối với hàng Phật tử chúng ta, dù tại gia hay xuất gia, dù sơ cơ hay các bậc trưởng lão, thì những lời dạy vắn tắt này mãi là khuôn vàng thước ngọc, là kim chỉ nam giúp người tu học vững tin vững tiến bước đến ngôi nhà giải thốt. Đặc biệt đối với quý Phật tử tu theo pháp môn trì danh niệm Phật, thì những lời dạy vô cùng thiết thực này sẽ giúp cho quý Phật tử xả bỏ gánh nặng nghiệp chướng phiền não trên bước đường tu tập, đồng thời giúp quý Phật tử tạo thêm nhiều phước lành, thuận duyên trong công phu niệm Phật.

Bàn đến lời Phật dạy, có lẽ sẽ có không ít Phật tử không khỏi thắc mắc rằng, từ khi thành đạo trải qua 49 năm hoằng pháp độ sanh, đức Bổn Sư của chúng ta đã thuyết giảng rất nhiều thời pháp, những thời pháp này, sau này được kiết tập lại thành rất nhiều kinh điển, thời pháp nào cũng đem lại lợi ích, lời dạy nào của Phật cũng giúp chúng sanh nương đó tu hành đều được giải thốt, chứ đâu chỉ có vỏn vẹn ba điều đơn giản như trên. Vâng, nếu quý vị có thắc mắc như vậy cũng rất chí phải. Nhưng quý vị cũng nên lưu ý rằng, thiên kinh vạn quyển mà đức Phật thuyết giảng rất mênh mông, nghĩa lý rất sâu xa siêu việt, cả một đời người chúng ta cũng không thể nào đọc hết nổi và cho dù thông minh bác học cỡ nào chúng ta cũng không thể nào lãnh hội được. Chính vì vậy mà đức Phật mới tóm gọn lại chỉ trong ba điều cô đọng này thôi. Phật dạy: Tránh các điều ác – Siêng làm việc lành – Giữ ý trong sạch, ba điều này nghe đơn giản quá, một Phật tử sơ cơ cũng có thể tiếp thu, nhưng sự thật thì một cụ già sống đến bảy tám mươi tuổi chưa chắc gì đã làm xong. Ở đời mọi việc nói thì dễ nhưng thực hành thì không dễ chút nào. Sau khi quý Phật tử có niềm tin thì Phật pháp chỉ chú trọng ở thực hành. Đức Phật dạy vắn tắt như vậy chỉ vì muốn chúng ta dễ tiếp thu, dễ áp dụng vào đời sống, có được lợi ích ngay trong đời hiện tại, gặt được quả báo tốt đẹp ở kiếp vị lai, và nhất là đối với những hành giả đang công phu tu tập thì đây là chiếc chìa khóa vàng, nếu thực hiện được ba điều này, quý Phật tử sẽ có năng lực mở toang cánh cửa ngôi nhà giải thốt. Tuy nhiên trước khi đi sâu vào những lời dạy vàng ngọc của đức Phật, chúng ta cũng sơ lược qua lịch sử quá trình hoằng pháp của đức Phật đã để lại những bộ kinh nào và trong biển pháp mênh mông đó, lời dạy nào của Phật gần gũi với chúng ta nhất, phương pháp nào giúp chúng ta dễ tu nhất, có lẽ đó là những điều mà quý Phật tử quan tâm đến.

Tóm lược lịch sử hoằng truyền chánh pháp của đức Phật, chúng ta có thể chia ra làm năm giai đoạn. Theo kinh điển ghi lại thì ban đầu đức Phật giảng kinh Hoa Nghiêm, đây là bộ kinh mà đức Phật thuyết giảng cho hàng Bồ Tát trong khi ngài đang nhập định. Trong lần thuyết pháp đặc biệt này, đức Phật nói về những cảnh giới mà ngài thực chứng, đó là tồn bộ chân tướng vũ trụ nhân sinh, do đó nội dung rất uyên áo, ý nghĩa siêu mầu, hạng phàm phu như chúng ta không thể nào lãnh hội. Hiện nay trong các thời khóa công phu ở các chùa theo hệ phái Bắc Tông, thỉnh thoảng chúng ta thường nghe quý thầy quý cô đọc tụng các bài kệ được rút ra từ kinh Hoa Nghiêm, như bài kệ “Nhược nhơn dục liễu tri, tam thế nhất thiết Phật, ưng quán pháp giới tánh, nhất thiết duy tâm tạo” hay bài sám Thập Nguyện Phổ Hiền: “Nhất giả lễ kính chư Phật. Nhị giả xưng tán Như Lai. Tam giả Quảng tu cúng dường. Tứ giả sám hối nghiệp chướng. Ngũ giả tùy hỷ công đức. Lục giả thỉnh chuyển pháp luân. Thất giả thỉnh Phật trụ thế. Bát giả thường tùy Phật học. Cửu giả hàm thuận chúng sanh. Thập giả phổ giai hồi hướng”. Nội dung ý nghĩa của những bài kệ này, khi được quý Thầy giảng giải, xét về lý chúng ta có thể hiểu biết đôi chút, nhưng xét về sự thì hàng Phật tử sơ cơ như chúng ta khó có thể ứng dụng tu hành. Sau thời Hoa Nghiêm riêng thuyết vì hàng Bồ tát, đức Phật mới hướng đến chúng sanh căn cơ thấp kém như chúng ta, ngài giảng tiếp thời A Hàm, sau thời A Hàm ngài nói thời Phương Đẳng, sau thời gian Phương Đẳng là thời Bát Nhã. Trong suốt 49 năm thuyết pháp của đức Phật, ngài đã dành hết 20 năm để giảng về Bát Nhã, tổng cộng 600 quyển, được xem là bộ kinh trung tâm, cốt tủy của Phật pháp. Thời sau cùng đức Phật thuyết kinh Pháp Hoa và kinh Niết Bàn mất hết 8 năm. Như vậy nếu xét về trình độ căn cơ học Phật theo thứ lớp, người học Phật thường phải bắt đầu từ thời A Hàm, sau đó học lên thời Phương Đẳng, rồi mới đến học thời Bát Nhã và đích cuối cùng là cảnh giới Hoa Nghiêm. Có thể cho rằng, đây là trình tự tu học phổ biến của giới học Phật từ xưa tới nay. Tuy nhiên, chúng tôi mạo muội cho rằng, Phật pháp là tùy duyên, do vậy chúng ta chỉ cần tìm hiểu, chắt lọc, suy ngẫm một bài kệ trong hàng trăm ngàn bài kệ, một pháp tu trong vô lượng pháp môn tu mà đức Phật đã dạy, miễn sao chúng ta thấy dễ hiểu, dễ tu, phù hợp với căn cơ và khả năng tu học của mình, rồi chúng ta thành tâm nỗ lực công phu. Nếu chúng ta buông xả hết vạn duyên, đạt đến nhất tâm trong tu niệm thì kết quả cuối cũng sẽ viên mãn, cũng đạt được sự tự tại giải thốt giác ngộ, kết quả cũng sẽ không sai khác so với những bậc thượng căn tu học các pháp môn cao hơn...

Trên đây là sơ lược về những thời nói pháp cũng như những bộ kinh mà đức Phật đã thuyết giảng trong suốt 49 năm hoằng hóa độ sanh... Nay chúng ta quay lại với ba điều mà đức Phật đã dạy: Tránh các việc ác. Siêng làm việc lành. Giữ ý trong sạch. Đây chính là ý nghĩa của một bài kệ trong Giới Kinh, nguyên âm chữ Hán: “Chư ác mạc tác. Chúng thiện phụng hành. Tự tịnh kỳ ý. Thị chư Phật giáo”. Như chúng ta đã biết, để trở thành một Phật tử chân chính, trước hết chúng ta phải quy y Tam Bảo, tức là chúng ta quay về nương tựa với đấng giác ngộ, vâng theo lời dạy của đấng giác ngộ mà thực hành, đồng thời nương tựa vào những vị Tăng sống có phạm hạnh thanh tịnh để được hướng dẫn tu học. Để có thể quy y Tam Bảo, trước tiên chúng ta cần phải hiểu rõ mục đích ra đời của đức Phật là nhằm chỉ ra sự mê lầm của chúng sanh, giúp chúng sanh giác ngộ, giải thốt khỏi khổ đau luân hồi sanh tử; và lời Phật dạy chính là con đường chân chính giúp chúng sanh đạt đến mục đích giác ngộ giải thốt. Nhận thức điều này một cách sâu sắc chúng ta mới có thể thực hành những lời dạy của đức Phật; có hiểu, có thực hành thì sự quy y Phật, Pháp, Tăng của chúng ta mới thật sự có ích. Chính vì những điểm này, mà đạo Phật được gọi là đạo giác ngộ. Cũng cần nói thêm rằng, nếu chúng ta không hiểu gì về mục đích ra đời của đạo Phật cả, cũng không hiểu gì về giáo lý nhà Phật cả, mà chúng ta cứ tin, thì sự tin này không ích lợi. Về điều này, đức Phật dạy rằng: “Tin ta mà không hiểu ta là báng bổ ta”.

Phương pháp chủ đạo của đạo giác ngộ là gạn lọc ý nghĩ cho trong sạch, vì ý nghĩ của chúng ta nó quyết định cho mọi hành động thiện ác nơi mỗi chúng ta.

Để nói lên sự liên quan mật thiết, có thể nói là không thể tách rời nhau giữa ý nghĩ và hành động, đức Phật đã dạy luật nhân quả, đây cũng chính là con đường mà ba đời chư Phật đã trải qua, mãi đến nay hàng trăm triệu người con Phật trên thế giới này vẫn đang tin tưởng thực hành theo, đang dần dần cải thiện nhân quả trong đời sống tu học của bản thân mình, bằng cách thực hành lời Phật dạy “Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành. Giữ ý trong sạch” hầu mong kết quả được khởi sắc tốt đẹp hơn. Thực hiện lời Phật dạy, chúng ta cần sự cố gắng thường xuyên, mà muốn thực hiện được điều này, đối với Phật pháp chúng ta phải có lòng tin chơn chánh, hiểu biết chơn chánh cùng với hành trang tối thiểu mang theo trên bước đường học Phật là năm giới cấm như chúng tôi đã trình bày rất nhiều trong tập sách nhỏ này.

Suốt 49 năm hoằng hóa độ sanh, lời Phật dạy đã được ghi chép thành thiên kinh vạn quyển, trong biển pháp mênh mông đó thật khó cho chúng ta đi giáp hết vòng kinh luận, nhưng nếu để giúp cho hàng sơ cơ học Phật nương đó tiến tu thì không gì hữu hiệu và thiết thực bằng cách chỉ cho họ tu tập theo ba điều căn bản này. Vì khi “Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành.

Giữ ý trong sạch”, thì ở trong đó nó đã bao gồm tu ngũ giới, tu thập thiện, tu bát chánh đạo, tu từ bi hỷ xả; nó cũng bao gồm tu nhân quả, tu giải thốt... Chính vì tầm quan trọng và thiết thực như vậy, chúng tôi rất mong quý Phật tử lưu ý nhiều hơn ba điều căn bản mà đức Phật đã dạy, chắc có lẽ trước đây quý Phật tử cũng thường nghe nhắc đến nhưng mà ít khi để tâm đến.

“Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành”, có thể nói chỉ hai điều này thôi, nếu thực hiện cho thật tốt, nó đã giúp chúng ta đi được nửa đường trên con đường giải thốt rồi. Vì sao chúng ta có thể tin chắc như vậy? Vì trên đường đi đến tương lai, hai vai ta sẽ nhẹ nhàng, sẽ không còn mang vác nhiều thứ phiền não, vì chúng ta thường làm việc thiện. Tâm thức chúng ta cũng sẽ không còn gánh nặng quá nhiều nghiệp chướng như trước nữa, vì chúng ta đã tránh xa điều ác. Tâm hồn ta sẽ trở nên nhẹ nhàng thanh tịnh an lạc hơn, vì chúng ta luôn giữ ý trong sạch. Nếu chúng ta thực hành đúng đắn nghiêm túc ba điều căn bản mà đức Phật đã dạy, tức là chúng ta đang tu hành nhân quả một cách rốt ráo. Vì không có cái nhân nào mang ý nghĩa và thiết thực lợi ích bằng cái nhân siêng làm thiện tránh điều ác, giữ ý trong sạch cả.

Điều đầu tiên đức Phật dạy chúng ta là không làm điều ác, chúng ta nên hiểu rằng, những việc làm, lời nói và ý nghĩa không hợp lý, trái với đạo đức khiến hại mình hại người cả trong hiện tại lẫn tương lai thì điều gọi là ác. Làm các điều lành là bao hàm những việc làm, lời nói và ý nghĩ hợp lý, có nền tảng đạo đức khiến cho mình và mọi người đều lợi ích. Ý nghĩ trong sạch là ý nghĩ hợp với điều hay lẽ phải, luôn nghĩ điều đạo đức, nghĩ đến các pháp tu, không tham giận kiêu căng, không ganh ghét đố kỵ, không gây ra hậu quả khổ đau cho mình và cho người. Ý nghĩ của chúng ta trong sạch, khi chúng ta làm việc gì thì việc đó chân chánh, khi nói ra điều gì thì điều đó trung thực từ hòa, điều tốt đẹp làm lợi ích cho bản thân và mọi người. Chính nhờ ý nghĩ trong sạch mà mục đích cứu cánh giải thốt giác ngộ của đạo Phật giữ được trọn vẹn, đồng thời có một lịch sử truyền giáo lâu dài trên 2500 năm, không những không lỗi thời mai một, mà ngày càng quang minh ích lợi thiết thực giữa dòng đời đau khổ.

Như chúng ta đã biết, ý nghĩ soi đường cho hành động, dẫn dắt mọi việc làm của chúng ta, một khi ý nghĩ của chúng ta trong sạch tức thì lời nói, hành động của chúng ta đều thuần thiện và lợi ích. Chính đặc điểm nổi bật này mà Phật giáo luôn chú trọng đến vai trò đặc biệt của ý. Thật ra, thiên kinh vạn quyển hay tám vạn bốn ngàn pháp môn tu cũng quy về một điều là dạy cho chúng ta gạn lọc ý nghĩa cho trong sạch, tiếp theo đó mới đi sâu vào công phu tham thiền nhập định. Để thực hiện được ba điều căn bản đó, trước hết đòi hỏi chúng ta phải có chánh tín, nghĩa là chúng ta chỉ tin vào những điều chơn chánh, hợp lý, có lợi ích, chứ không nên tin vào những điều tà vạy, vô lý, gây tổn người hại vật. Chánh tín cũng tức là tin sâu nhân quả, như chúng ta tin rằng gieo nhân gì sẽ gặt quả đó, nhân quả theo nhau như bóng với hình.

Trên thế gian, người đời thường rất sợ nghèo khó, khổ đau, tật bệnh, nhưng làm thế nào để có được một đời sống giàu sang, hạnh phúc, khỏe mạnh... thì gần như không mấy ai quan tâm đến cái nguyên nhân sâu xa dẫn đến kết quả tốt đẹp này. Còn trong đời sống tu hành, những vị chân tu thường rất cẩn trọng khi gieo nhân, thậm chí một con kiến, một con muỗi họ cũng không dám giết hại, thường nhật họ kham nhẫn với tương chao dưa muối sống qua ngày không dám làm điều gì bất thiện hay trái đạo. Có thể nói, hiện tượng Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả như thế này thường xảy ra trong đời sống con người, là người con Phật, chúng ta nên quan tâm nhiều hơn đến cái nhân mà ta gieo trong đời sống, bởi nhân quả báo ứng theo nhau như bóng với hình, còn chúng ta thì không thể trốn chạy đi đâu một khi khổ quả tràn về sẽ cuốn ta vào ba đường khổ nạn.

Theo lời chư tôn đức giáo huấn, thế gian hay xuất thế gian, thì tất cả cũng không lìa nhân quả. Phật pháp cũng được xây dựng từ nền tảng cơ sở đạo lý nhân quả. Gieo nhân thì ắt có quả. Nhân thiện quả lành. Nhân ác thì quả khổ. Nhân quả luôn vĩnh viễn, liên tục và tuần hồn, đạo lý này người học Phật chúng ta cần phải biết đến, không chỉ biết đến mà chúng ta còn phải thật cẩn trọng để mỗi mỗi gieo tồn nhân lành, tránh xa điều ác, mới mong cải thiện được tương lai của chúng ta. Trong kinh Lương Hồng Sám, chương “Nói rõ quả báo” ghi rõ: “Vì ác nghiệp nên phải đọa trong ba đường dữ trải khắp ác thú và sinh ra ở nhân gian để chịu trả quả báo đau khổ. Quả báo đau khổ như thế đều do nhân duyên túc đối đời trước đem lại. Bây giờ xả thân này chịu thân khác để chịu trả quả báo mãi mãi không thôi”. Trong kinh Địa Tạng, phẩm “Các vua Diêm La khen ngợi” có ghi: “Trong cõi Diêm Phù Đề, những người làm lành đến lúc mạng chung cũng còn có trăm ngàn quỷ thần ác đạo hoặc biến ra hình cha mẹ, nhẫn đến hóa làm người thân quyến dẫn dắt thần hồn người chết làm cho đọa lạc và chốn ác đạo, huống chi là những kẻ lúc sanh tiền đã sẵn tạo ác nghiệp”. Trở lại kinh Lương Hồng Sám, cũng trong chương “Nói rõ quả báo”, ở một đoạn khác có ghi: “Chư Phật và Bồ Tát lại thấy chúng sinh ở trong nhơn đạo, nhờ sức tu thập thiện được sinh làm người. Ngay trong thân người cũng có lắm khổ, khi mạng chung phần nhiều lại đọa vào các đường ác”. Theo như lời Phật dạy, khi chúng ta làm điều ác thì quả báo thật đáng kinh sợ, quá khứ chúng ta lỡ gieo ra rồi thì không thể trốn chạy né tránh đi đâu được cả. Theo kinh Địa Tạng thì dù hiện đời chúng ta có làm lành nhưng nếu không tha thiết tu tập, chúng ta vẫn có thể bị đọa vào ba đường dữ, huống gì là đối với những người đầy dãy tâm tham giận kiêu căng một đời làm ác. Điều này đáng để cho chúng ta suy ngẫm, soi rọi lại bản thân mình, ngay trong đời này chúng ta làm thiện được bao nhiêu, có vớt vát nổi núi nghiệp bất thiện mà quá khứ chúng ta đã gieo tạo? Chúng ta thử hỏi, vì sao làm lành mà vẫn có thể bị đọa vào ác đạo? Thật ra, có thể dẫn đến như vậy là do việc lành mà chúng ta làm trong hiện đời chẳng đáng là bao, trong khi nhân ác trong quá khứ của chúng ta thì quá nhiều. Trong đời sống thực tế, có không ít người ỷ lại vào một vài việc lành nhỏ của mình, nào là tôi có đi chùa lễ Phật, tôi có đi làm từ thiện bão lụt ở miền Trung Tây Nguyên, nào là tôi ăn chay tháng được mười ngày, tôi hay giúp đỡ những người nghèo trong xóm... từ đó sanh tâm chê bai người khác không biết tu phước làm thiện, họ nào hay biết ác nghiệp quá khứ mà họ gieo vẫn chưa đến thời kết quả. Nếu đến thời kết quả thì một vài việc làm thiện chẳng thấm tháp gì đó làm sao có thể cân bằng và cũng chẳng thể nào cứu vãn được tình hình rối rắm mơ hồ hoảng loạn lúc lâm chung hấp hối. Suy ngẫm điều này, tất cả chúng ta đều phát tâm siêng năng làm việc thiện lành nhiều hơn nữa, quan trọng hơn, chúng ta phải giữ ý trong sạch để không rơi phạm vào điều ác, phải khởi tâm ăn năn hổ thẹn, thành kính nhất tâm niệm Phật, có như vậy mới mong vượt qua những hậu quả khôn lường khi sinh báo, hậu báo đâm hoa kết quả.

Khi chúng ta biết được nhân quả nối tiếp nhau liên tục và tuần hồn không bao giờ chấm dứt, khi đã tin sâu vào luật nhân quả, biết kinh sợ ác báo, thì trong mọi lúc mọi nơi mọi hồn cảnh, tâm tư tình cảm ý nghĩ của chúng ta tự nhiên sẽ hướng đến đoạn trừ các điều ác, siêng làm các việc thiện, ham tu ham học điều ích lợi. Bởi lúc này, chúng ta biết quá rõ là chính mình gieo nhân thì chính mình gặt lấy quả và tất nhiên là chẳng ai mong muốn chuốc lấy quả báo đau khổ bao giờ. Luật nhân quả chỉ cho chúng ta thấy rằng, chúng ta gieo nhân thiện nhất định sẽ được quả thiện, gieo nhân ác nhất định sẽ được quả ác. Quả thiện thì có thể gọi là được, nhưng quả báo ác đến thì không ai gọi là được cả, mà gọi là bị. Người này bị tàn phế hai tay mà không có người thân giúp đỡ, người kia bị co tay giựt chân la hét hoảng loạn khi hấp hối trông rất kinh sợ. Sức chịu đựng của con người là giới hạn, nhưng quả báo ác thì vô chừng vô hạn, tùy theo mức độ gieo ác của mỗi con người. Khi làm ác thì vui thích, nhưng quả báo đến thì kêu la thảm thiết đau đớn vật vã. Đây là một nghịch lý nơi đời sống con người và là sự thật trong đời sống thế gian. Nhân nào quả nấy, không thể gieo nhân thiện mà lại gặt quả ác hay gieo ác mà gặt thiện, điều này hồn tồn không thể có, không thể xảy ra. Nhân quả là một định luật tất yếu muôn đời bất biến. Nếu đời này chúng ta gieo nhân thiện, đời này không hưởng (tức quả chưa chín) thì đời sau hưởng hoặc đời sau nữa hưởng. Đối với nhân ác cũng vậy, không trốn chạy đi đâu mà thốt khỏi nhân quả.

Khi tin sâu luật nhân quả chúng ta sẽ không còn hồ nghi hay lầm lẫn về nhân quả trước mọi hiện tượng trong cuộc sống. Trong đời sống con người, chúng ta cũng thường hay thấy có người đời này hay làm thiện mà quả báo lại không tốt, có người đời này làm việc xấu ác mà kết quả lại may mắn hạnh phúc. Vì sao có hiện tượng này? Đối với người đã tin sâu luật nhân quả thì họ liên tưởng đến nhân quả ba đời không chút hồ nghi, còn đối với người chỉ hiểu nôm na “nhân nào quả nấy” như cách thường nói của ông bà, thì trước hiện tượng này sẽ không khỏi thắc mắc nghi ngờ.

Như chúng ta đã biết nhân nào quả nấy, nhân quả nối tiếp tuần hồn và liên tục, do vậy, đối với những hiện tượng khác thường nêu trên, chúng ta nên xét đến thời gian nhân quả, nó không ra ngồi ba khoảng thời gian: Hiện báo, sinh báo và hậu báo. Nhân quả hiện báo, nghĩa là chúng ta tạo nhân thiện hay nhân ác trong đời này, do nhân duyên hội đủ khiến chúng ta thọ lãnh quả báo ngay trong hiện đời. Chẳng hạn chúng ta chăm học hành, luôn trau giồi đạo đức, kết quả chúng ta sẽ được đỗ đạt, có vị trí xã hội, trở thành một người công dân hữu ích. Ngược lại nếu chúng ta chơi bời lêu lổng, hút chích hoang phế một đời, thì kết quả chúng ta sẽ thọ khổ ngay trong đời này. Nhân quả sinh báo, nghĩa là chúng ta gieo nhân đời này nhưng đời sau mới chịu quả báo. Để chỉ rõ về sinh báo, trong kinh đức Phật đã dạy: “Muốn biết nhân đời trước hãy xem quả đời này. Muốn biết quả đời sau, hãy xem nhân đời này”. Nhân quả hậu báo, nghĩa là đời này chúng ta tạo nhân, nhưng mãi đến nhiều đời sau hay vô lượng kiếp về sau chúng ta mới thọ lãnh quả báo. Để chỉ rõ về hậu báo, trong kinh đức Phật đã dạy: “Giả sử trong ngàn kiếp trôi qua, những nghiệp mà chúng ta đã gieo tạo sẽ không mất. Khi nhân duyên hội đủ, tự mình phải gánh chịu quả báo”. Như vậy rõ ràng quả báo đến tự ai làm thì người đó chịu, chẳng ai thay thế mà chịu sướng khổ thay chúng ta cả, khi đã hiểu về nhân quả ba đời, nối tiếp, tuần hồn liên tục như vậy, chúng ta cần phải nỗ lực siêng năng làm các việc thiện, đoạn tuyệt với điều ác, luôn chú tâm giữ y nghĩ thật trong sạch để tạo cho chúng ta một cuộc sống mới tốt đẹp ngay trong hiện đời và một tương lai xán lạn về sau.

Nhìn quả hôm nay thấy nhân quá khứ, trong kiếp này, mỗi người chúng ta tuy có hiểu Phật pháp, có làm lành và có chút ít công phu niệm Phật, nhưng tâm thức vẫn còn đầy dãy tham sân si, ái ố - hỷ nộ, nhỏ nhen tỵ hiềm, đấu tranh ganh ghét, điều này chứng tỏ đời trước của chúng ta cũng đã gieo không ít điều ác xấu và ngay cả đời này chắc gì chúng ta đã đoạn tuyệt hẳn với ác nhân ác nghiệp, chính vì vậy mà chúng ta cần nỗ lực chuyển nghiệp, sửa đổi những hành động bất thiện xấu ác. Trước đây do chưa tin tưởng vào luật nhân quả, chưa gặp Phật pháp, chưa có trí tuệ nên chúng ta sống theo bản năng tạo nghiệp chẳng lành, không sửa đổi những thói hư tật xấu, hoặc dù có muốn cải thiện đời sống, muốn sửa đổi những thói quen không lành mạnh, thì chúng ta vẫn không đủ đạo lực để hốn chuyển, cải thiện được.

Trong chương này chúng tôi chú trọng đến ba điều căn bản mà đức Phật đã dạy trong Giới Kinh, đó là: “Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành. Giữ ý trong sạch”, đây là nguyên lý đưa con người từ chỗ tối tăm đau khổ đến nơi an laic, đây cũng chính là nguyên tắc sống của người có ý thức vươn lên. Chúng tôi thiết nghĩ, từ nền tảng ngũ giới và tâm chánh tín, chúng ta ứng dụng ba điều Phật dạy vào đời sống một cách triệt để, dần dần tâm chúng ta sẽ trở nên thanh tịnh, trí huệ sẽ phát sinh. Khi đó chúng ta sẽ có đủ năng lực chuyển đổi tất cả. Dù ác nghiệp có nặng đến đâu chúng ta cũng có thể hóa giải được, điều này tùy thuộc vào quyết tâm và ý chí vượt thốt khổ đau nơi mỗi con người. Chúng ta cũng cần biết thêm tính chất của luật nhân quả, đó là một định luật đương nhiên giống như các định luật khoa học, luật nhân quả không do ai đặt ra cả, mà do ánh sáng giác ngộ nơi đức Phật phát minh ra, từ đó soi đường dẫn lối cho chúng ta từng bước tiến đến sự giác ngộ giống như đức Phật. Nhân quả đã là một định luật thì tạo nhân thiện hưởng quả thiện, tạo ác nhân gặt ác báo, nhân quả do mỗi người gieo ra tự gặt lấy hồn tồn không do trời thần quỷ vật nào cưỡng lại, xen vào hay thưởng phạt chúng ta được.

Khi đã hiểu Phật pháp, chắc chắn hàng Phật tử chúng ta đều nhận ra rằng, mỗi lời dạy của đức Phật đều đem lại an lạc lợi ích cho chúng sanh, mục đích ý nghĩa mỗi lời mỗi câu Phật dạy đều trong sáng thuần thiện và thiết thực, thế nhưng chúng ta cứ gieo nhân tác nghiệp để rồi thọ khổ từ đời này sang đời khác. Vì nguyên do nào chúng ta hiểu biết một đàng mà làm một nẻo? Đã là Phật tử, tất nhiên chúng ta phải luôn tâm niệm và làm theo lời Phật dạy ngõ hầu đem lại lợi ích cho bản thân và mọi người, tuy nhiên không phải lúc nào chúng ta cũng dễ dàng thực hiện một đời sống tu hành nghiêm túc, phạm hạnh, bởi nó còn tùy thuộc nghiệp chướng nặng nhẹ và ý chí kiên định dõng mãnh nơi mỗi con người. Đối với người đã hiểu đạo, tam nghiệp tương đối thuần hòa, thật tâm tha thiết tu hành, vẫn còn gặp trở ngại không ít bởi tâm hôn trầm, mỏi mệt, lười biếng, huống gì đối với người sơ cơ học Phật còn nặng nợ với thất tình lục dục thì làm sao có thể vượt qua vô vàn thử thách trên bước đường về... Chính vì vậy mà đức Phật đã từ bi chế ra ngũ giới để giúp chúng ta bảo tồn cái nhân làm người trước đã, sau đó ngài dạy chúng ta làm lành lánh dữ, giữ ý nghĩ trong sạch để dọn đường tiến lên phía trước, cuối cùng ngài dạy chúng ta nhất tâm niệm Phật cầu vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Phải thừa nhận rằng đức Phật quá từ bi, thương xót chúng sanh còn hơn mẹ thương con, nếu như chúng ta không chịu khó thúc liễm thân tâm và nỗ lực tu hành theo lời Phật dạy thì chẳng thể lấy gì báo đáp thâm ân trời biển này trong muôn một.

Thế giới ngày nay hình như đã thấy được lợi ích thiết thực và sự nhiệm mầu của Phật pháp. Nhân loại đã phần nào thức tỉnh hướng về đạo Phật với sự thành kính ngưỡng mộ thật lòng, trong số đó đã có rất nhiều người phát tâm quy y Tam Bảo, thọ trì năm giới cấm. Hàng Phật tử khắp năm châu đã quay về ổn định nội tâm, cần cầu sám hối, tha thiết tu hành theo Phật pháp. Có lẽ đây là những dấu hiệu đáng mừng trong thời mạt pháp này. Lồi người đã có phản tỉnh trong bối cảnh thế giới đang có nhiều biến động bởi hiện tượng biến đổi khí hậu, bên cạnh đó là nạn khủng bố tràn lan, tật bệnh đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, lương thực, năng lượng vẫn là những vấn đề nan giải mà con người luôn có nguy cơ phải đối mặt. Hơn bao giờ hết, đây là thời điểm mà nhân loại rất cần đến ánh sáng giác ngộ của Phật pháp soi rọi đến, nếu lồi người không nhanh chóng hòa hợp chung tay cùng thực hành rốt ráo năm giới cấm và ba điều căn bản mà Phật đã dạy, thì e rằng nghiệp chướng và thù hận của chúng sanh sẽ không còn cơ hội nào để cứu vãn...

Nhân loại vẫn bất an đau khổ, thế giới đang thoi thóp đợi chờ cơn hủy diệt mà hiện tượng biến đổi khí hậu đang là lời cảnh báo thực tế nhất, đã vậy lồi người vẫn cứ khủng bố nhau, vẫn cứ tiến hành chiến tranh ra mặt. Quá khứ, lồi người đã gieo tạo ác nghiệp quá nhiều và hiện tại vẫn không chịu dừng nghỉ. Sở dĩ xảy ra như vậy là vì nhân loại không có chánh tín. Như chúng tôi đã đề cập ở phần đầu chương này, chánh tín nghĩ là tin vào điều chơn chánh, hợp lý, có lợi ích, chánh tín cũng có nghĩa là tin vào nhân quả, gieo gì gặt nấy, ai gieo nấy gặt. Niềm tin đặt ngược lại những điều này, tùy trường hợp mà ta gọi là mê tín hay cuồng tín.

Trong cuộc sống, niềm tin là một thứ tình cảm đặc biệt mà chúng ta chỉ dành riêng cho những ai ta tôn trọng và thật sự tin cậy ở họ. Trong tôn giáo cũng vậy, đức tin cũng là một thứ tình cảm thiêng liêng được phát khởi khi chúng ta hướng về đấng thiêng liêng tối cao nào đó và ta đặt hết niềm tin vào đó. Đức tin chính là nền tảng cho mọi hoạt động của tôn giáo.

Con người khi đến với bất kỳ đạo nào thì khởi đầu cũng phải dựa vào đức tin. Nếu đạo đó là đạo giác ngộ, giáo lý của đạo đó thật sự đem lại lợi ích giải thốt đau khổ cho quần sanh, chúng ta nên đặt niềm tin vào đó. Khi đặt niềm tin vào đó tức là chúng ta đã đặt niềm tin đúng hướng, nghĩa là chúng ta tin trong sự sáng suốt, có lý trí, có suy ngẫm, thì niềm tin này là cội nguồn của mọi hành động chân thiện mỹ, là cội nguồn của hạnh phúc an lạc cho bản thân và mọi người xung quanh. Ngược lại, khi chúng ta đặt niềm tin vào những mối đạo tà kiến, cực đoan, thì không những không đem lại lợi ích mà còn gây đau khổ cho bản thân, gây bất an cho nhân loại. Tin một cách mơ hồ mù quáng như vậy thì niềm tin này là cội nguồn của bạo hành khủng bố, gây đổ vỡ loạn ly, bất an đau khổ, trầm luân sanh tử.

Mê tín là biểu hiện của tâm mê mờ không sáng suốt. Cuồng tín là biểu hiện của mất lý trí, vì vậy nó phát triển tâm nhỏ nhen ích kỷ lên đến tột đỉnh. Cuồng tín cũng là biểu hiện của trạng thái mất quân bình, đánh mất khả năng cảm nhận sự tương giao, tương sinh trong cuộc sống nhân loại.

Cuồng tín và mê tín đều cùng phát khởi từ gốc rễ vô minh, đều là những tâm hồn bệnh hoạn chưa được khai mở. Tuy nhiên mê tín thì mang tính thụ động, chạy ra thế giới bên ngồi (ngồi tâm) để cầu thần cậy Thánh, thiếu khả năng tự giác nên trầm luân trong mê mờ tăm tối. Cuồng tín thì mang tính bạo động, lửa tham sân si hẫy hừng, hồn tồn mất hẳn khả năng tự giác tự độ nên dễ dàng bị các thế lực lợi dụng nhiếp phục sai khiến. Đối với kẻ cuồng tín, dù họ mang thân người ở bên ngồi nhưng gần như không còn chất người ở bên trong, tất nhiên tình cảm ở họ cũng cạn kiệt tùy theo mức độ cuồng tín trong tâm họ. Trong quan hệ nếu ai nghịch ý thì người đó là kẻ thù, họ tiêu diệt ngay không cần suy xét. Chính vì vậy mà họ phải chịu quả báo khổ đau trong chốn sâu địa ngục. Điều này quả thật đáng xót thương!

Ngay trong cái thời đại được xem là văn minh tiến bộ này, nhìn ra thế giới, những cuộc thánh chiến kéo dài từ ngày này sang ngày khác, năm này sang năm khác, ngày nào cũng có người ngã xuống vì bom đạn, thù hận giữa các phần tử cực đoan kéo dài triền miên bất tận, tất cả cũng chỉ vì vọng tâm cuồng tín. Trên các phương tiện thông tin đại chúng, hằng ngày đăng tải nhan nhản các vụ đánh bom liều chết đẫm máu. Chính tâm cuồng tín đã khiến những người này dám ôm những quả bom lao vào chỗ đông người để kích nổ, gây ra cảnh thịt nát xương tan cho hàng trăm ngàn đồng loại. Điều này quả là dã man ghê rợn không gì có thể sánh bằng.

Trên thế giới ngày nay, bên cạnh sự khủng bố tràn lan, lồi người vẫn hăm he chiến tranh, đối phó lẫn nhau, và sẵn sàng tiêu diệt nhau khi cần thiết. Trong những ngày gần đây, báo chí đã đăng tin làn sóng mua sắm vũ khí ồ ạt của nhiều quốc gia Nam Mỹ đã làm nảy sinh những lo ngại mới về an ninh tại khu vực này. Được biết khu vực Nam Mỹ hiện có rất nhiều tranh chấp đường biên giới giữa các nước láng giềng, như giữa Peru với Ecuador, Bolivia với Chile, Venezuela với Guyana, Venezuela với Columbia... Trong khi đó Venezuela đã chi ra 4, 4 tỷ đô la để mua của Nga 51 trực thăng tấn công và vận tải, 24 chiến đấu cơ Su – 30 MK, 100 ngàn khẩu súng AK cùng các loại tên lửa, bom gắn trên máy bay, súng bắn tỉa. Chi Lê thì gia tăng số lượng máy bay chiến đấu F 16 cùng với việc mua 140 xe tăng Leopard 2A4 của Đức. Colombia trong năm 2008 đã chi 12, 3 tỷ đô la cho chi tiêu quốc phòng. Sau những cuộc chiến điêu tàn trong quá khứ, dù các bên nói rằng cố gắng giải quyết tranh chấp bằng biện pháp hòa bình. Thế nhưng sự tồn tại của những tranh chấp cùng với xu hướng mua sắm vũ khí ồ ạt như gần đây, thì nguy cơ về những xung đột vũ trang cục bộ là điều vẫn có thể xảy ra. Ở Afghanistan, Irắc cuộc chiến vẫn kéo dài chưa đến hồi kết thúc. Vấn đề hạt nhân ở CHDCND Triều Tiên và Iran vẫn là mối lo ngại cho những con người yêu chuộng hòa bình trên thế giới...

Cùng với nguy cơ chiến tranh mà con người đang tạo ra thì những quả báo khắc nghiệt cũng do chính con người đã miệt mài tạo tác hàng trăm năm qua nay cũng đã đến hồi nhân loại phải gánh chịu hậu quả. Bụi khói khí thải từ các nhà máy công nghiệp nặng nhẹ cùng với các chất phóng xạ từ các lò phản ứng hạt nhân lan tràn bầu khí quyển. Nạn săn bắt thú rừng quý hiếm cùng với những cánh rừng bạt ngàn bị con người tàn phá vô tội vạ. Chất thải độc hại từ các nhà máy khắp nơi vô tư tuôn ra các dòng sông và đó đây là nạn khai thác khống sản vô lề lối... Tất cả diễn ra với cường độ ngày càng mạnh, càng dữ dội hơn, bởi lòng tham của con người thì vô bờ bến.

Kết quả ban đầu là những cơn sóng thần cứ vài năm tái diễn một lần, mỗi lần như vậy cướp đi hàng trăm hàng ngàn, có khi lên đến hàng trăm ngàn sinh mạng, cuốn trôi không biết bao nhiêu là làng mạc, nhà cửa, tài sản. Những trận động đất liên tiếp xảy ra trong vài năm trở lại đấy, Tứ Xuyên (Trung Quốc) chưa kịp hồn hồn, đến lượt Indonesia, rồi động đất lại rung chuyển cả một vùng Nam Á rộng lớn, khiến cho hàng trăm triệu người dân ở Afghanistan, Pakistan, Ấn Độ phải một phen khiếp vía. Rồi lũ bùn, bão tuyết, sập đồi, lở đất, triều cường xâm thực diễn ra khắp mọi nơi. Điều đáng sợ hơn đó chính là hiện tượng băng tan ở Bắc cực, trái đất nóng dần lên, hiệu ứng nhà kính, biến đổi khí hậu, thảm họa thiên tai, còn nữa, đó là dịch bệnh hồnh hành, nào là ung thư, sida, nào là H5N1 rồi AH1N1... Hậu quả thê lương này chỉ vì vô minh và lòng tham dục quá sâu nặng ở con người. Kiếp người quá ngắn ngủi, mạng sống mong manh chỉ trong hơi thở, con người không những không tỉnh ngộ điều này, ngược lại còn ra sức tàn phá bầu khí quyển, tự bóp ngặt lá phổi của chính mình, điều này càng làm chúng ta liên tưởng đến những lò sát sinh của Hít Le trong chiến tranh thế giới thứ hai, khi chúng hút hết dưỡng khí và xả chất độc hại vào lò để sát hại những tù binh.

Cái thế giới quá mong manh này hình như không còn chịu nổi sự tàn phá của con người, thiên nhiên đã nhiều lần lên tiếng, các nhà khoa học hướng thiện cũng đã truyền đi những thông điệp khẩn cấp hãy cứu lấy hành tinh... Tuy nhiên trong đại họa, đời sống nhân loại cũng còn chút phước, đó chính là sự lặng lẽ tinh tấn tu hành của hàng trăm triệu người con Phật trên khắp hành tinh, từ bao nhiêu năm qua đã âm thầm làm công việc cải thiện phần nào sự bất an bất ổn do đồng loại gây ra, bằng cái tâm thanh tịnh của người con Phật. Xét cho cùng, sở dĩ con người vô minh như vậy, tham lam như vậy, tạo ra nghiệp chướng như vậy và nhận lấy hậu quả khôn lường như vậy, cũng là do con người không gặp được Phật pháp, không hiểu luật nhơn quả mà thôi. 2500 năm qua, nếu không có Phật pháp hiện hữu trên thế gian này, không có những bậc giác ngộ ra đời và những Phật tử chánh tín thuần thành, lúc nào cũng hướng về điều lành, đoạn tuyệt điều ác, giữ ý nghĩ trong sạch, thì có lẽ cái thế giới này còn tồi tệ hơn nhiều.

Như chúng ta đã biết, nhân nào quả nấy, những gì con người đã gieo ra thì chính con người phải gánh chịu hậu quả. Là một sinh linh trong số hàng chục tỷ sinh linh hiện hữu trên thế giới này, dù hiện đời chúng ta không gieo ra thảm họa chiến tranh hay tàn phá thiên nhiên, nhưng biết chừng đâu, trong nhiều đời nhiều kiếp trước, việc làm tổn hại này chúng ta cũng đã có lần sai phạm, hơn nữa, đã là cộng nghiệp thì không thể nói là không ảnh hưởng. Do vậy, đã hiện diện trên cuộc đời bất an đau khổ này, hàng Phật tử chúng ta nên đi tiên phong trong việc xây dựng lại thế giới bất an đau khổ này trở thành một thế giới hòa bình an lạc.

Trong chương Lời Phật dạy này, sở dĩ chúng tôi nêu ra nhiều thảm họa trong đời sống thế gian, là để hàng Phật tử chúng ta nhận ra trọng trách của mỗi người con Phật trong bối cảnh thời nay, để quý Phật tử ý thức được sự cần thiết và cấp bách của đời sống tu hành. Chúng tôi mong rằng, quý Phật tử hãy nỗ lực nhiều hơn nữa trong việc giữ gìn năm giới cấm, thực hiện ba điều căn bản mà đức Phật đã dạy: “Tránh các điều ác. Siêng làm việc lành. Giữ ý trong sạch”. Quan trọng hơn là tha thiết chuyên cần niệm danh hiệu đức Từ Phụ A Di Đà, khẩn cầu vãng sanh về thế giới Tây Phương Cực Lạc. Tự giác và nỗ lực thực hiện trọn vẹn những điều này trước hết là để tự cứu lấy mình, đồng thời những ảnh hưởng tích cực từ bổn tâm thanh tịnh do năng lực tu hành phát sinh ra cũng sẽ phần nào hóa giải bớt đi sự nguy vong của nhân loại.

Từ Ngữ Phật Học Trong: Lời Phật Dạy