Home > Khai Thị Phật Học > Bat-Muoi-Nhan-Qua
Bất Muội Nhân Quả
Hòa Thượng Thích Thiện Huệ


Khi được hỏi “bậc đại tu hành còn trong (rơi vào) nhân quả không?” 大修行人还洛因果也无?Vị tăng đáp “không còn trong (rơi vào) nhân quả nữa” (bất lạc nhân quả 不落因果) vì câu đáp này vị tăng đọa thân cáo đồng 500 kiếp cho đến khi gặp ngài Bách Trượng giải đáp mối nghi này bằng câu “không còn mê lầm nhân quả nữa”(bất muội nhân quả不昧因果) mới thoát khỏi thân cáo đồng.

Vì sao bất lạc nhân quả lại dẫn tới kiếp đọa lạc?

Nhân quả là định luật bất di dịch của mọi pháp. Thánh quả là quả giải thoát ra khỏi mọi điên đảo u mê, nhất thiết điên đảo mê muội chính là sự không tin cho đến nhầm lẫn mọi nhân quả, do không tin nên không gieo nhân, và do lầm lẫn gieo sai nhân nên thật quả không thành.

Chúng sinh gồm cả hai hạng không tin và mê muội nhân quả, nên chi mọi quả chúng sinh gặt hái được đều không đúng ý. Dụ như ai cũng thích quả hạnh phúc và nỗ lực truy cầu thế nhưng chỉ thâu lượm về toàn những thứ quả chua chát đắng cay khổ thống mà ai cũng chán ghét, như thiên Đế Thích thắc mắc “lẽ ra thứ mà ai cũng ghét phải chịu tận diệt, và thứ mọi loài đều mong cầu phải tràn lan, nhưng vì đâu khổ lại lan tràn mà hạnh phúc lại thiếu vắng ở mọi nơi?”

Câu trả lời chính xác và dễ hiểu nhất đó là do hầu hết cúng sinh đều bất tín và mê muội nhân quả. Do bất tín nên không gieo nhân hầu được quả, do mê muội nên gieo lầm nhân khổ vì vậy mà khổ tràn lan như loài cỏ hoang. Chỉ thiểu số thâm tín và liễu tri nhân quả thì bước vào dòng Thánh qua bờ diệt khổ, không còn là chúng sinh bất tín và mê muội.

Vì vậy nhân tố chính để chuyển phàm thành Thánh ngoài nhân quả ra không có gì khác hơn được. Chắc chắn rằng mọi thứ nhân bất tín và mê muội nhân quả sẽ dẫn đến kết quả không như ý đồng với khổ, vì yếu tố chắc nịch này là duy nhất và không thể thay đổi nên gọi mối nhân quả này là đế, tức khổ và tập đế.

Và chỉ có duy nhất nhân không mê muội mới dẫn đến quả như ý diệt tận khổ nên goi mối nhân quả này là đạo và diệt đế.

Như vậy thánh và phàm khác nhau duy nhất ở điểm mê muội nhân quả và bất muội nhân quả. Đạo Phật không tin vào bất kì phép lạ nào ngoài phép lạ nhân quả, nên bốn diệu pháp đều chỉ rõ yếu tố khổ cũng như thoát khổ đều thuộc về nhân quả mà không thuộc về phép lạ nào khác từ đức Phật hay bất cứ quỷ thần hoặc thượng đế nào.

Trí huệ đồng với bất muội nhân quả, vô minh đồng với bất tín và mê muội nhân quả. Bất muội nhân quả là bậc thánh, mê muội nhân quả là hàng chúng sinh còn bất tín là ngoại đạo. Ngoại đạo ở đây có nghĩa không sao nhập đạo được bởi đạo là thâm tín và liễu tri nhân quả nên còn gọi là nhất xiển đề (tín bất cụ).

Từ sinh thiên cho đến sinh tam ác đạo đều do yếu tố nhân quả quyết định tiếp dẫn, nhân quả không những quyết định chuyện sinh về đâu mà còn khiến cho chốn sinh về tức thập pháp giới hiện thành. Như vậy sinh và cảnh sinh về đều do nhân quả mà thành, vì vậy ngay đến vãng sinh và tịnh độ hẳn nhiên cũng tùy thuộc nhân quả mà thành tựu, không thể do một yếu tố nào khác thành được dù đó là phép lạ của Phật hay thượng đế. Bằng vào sự thâm tín nhân quả chúng ta sẽ khẳng định do tâm sinh tịnh độ vì thế tùy theo tâm tịnh mà Phật độ tịnh. Quán kinh xác định thâm tín nhân quả là yếu tố vãng sinh thượng phẩm.

Dựa vào thâm tín và liễu tri nhân quả mà thành Phật quả, nên nhân quả là nền tảng của Phật và cõi Phật, liễu tri nhân quả là nhân, nhất thiết trí là quả, tính liễu tri của chư Phật bao gồm cả ba vô lậu học giới định huệ. Không chỉ nhờ vào nhân quả để thành Phật mà ngay đến chuyện độ sinh cũng chỉ có pháp nhân quả mới độ được, do đó thâm tín và liễu tri nhân quả là chính nhân của đại trí huệ công đức giải thoát, nếu bất tín và mê muội tất nhiên đồng với bỏ đi hết mọi trí huệ công đức giải thoát nên gọi mê muội nhân quả là điên đảo, gọi bất tín nhân quả là vô minh.

Nếu nói người giải thoát không còn rơi vào nhân quả tất nhiên là tà kiến vì giải thoát cần có nhân quả, nay nói quả giả thoát là quả sạch bóng nhân quả, tất nhân quả không đồng nên gọi là tà kiến. Do nhân thâm tín và liễu tri nhân quả nên thành tựu quả giải thoát, giải thoát đồng nghĩa với tự tại với mọi nhân quả, gieo nhân gặt quả tự tại đúng như ý, lại tùy thuận nhân của chúng sinh mà tự tại thị hiện nhân quả độ sinh, do yếu tố này gọi bậc giác ngộ giải thoát là pháp vương. Bỏ nhân quả tất không thành tam thân Phật và mất hết công năng độ sinh, một khi Phật mất công đức thì chúng sinh mất đi người cứu và chỗ dựa. Người giác ngộ lìa bỏ nhân quả chỉ e lập tức trở về bến mê, tiếp tục kiếp sống cùng tử sinh hoạt bằng sự mê muội nhân quả trong cảnh khổ của vô thường sinh tử. Do đó với nhân kiến giải bất lạc nhân quả đã đưa đến quả của 500 kiếp làm thân cáo đồng, cho đến khi nhận ra ý nghĩa bất muội nhân quả cáo đồng trở thành đại tu hành giả, còn như đại tu hành giả tin vào bất lạc nhân quả thì nhị báo tức thân và cảnh giới cáo đồng tự hiện thành.

Đệ tử Phật không thể dựa vào phép lạ hay thần thông của Phật mà chỉ bằng vào sự y lời Phật dậy thâm tín nhân quả thông qua sự liễu tri nhân quả của tự tâm và thực hành mọi chính nhân để chứng chính quả. Câu chuyện này đã cho ta biết thế nào là đại ý của Phật pháp.

CM 2007