Thưa quý vị độc giả thân mến,
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩaxuất bản hôm nay không có một liên quan nào, về mọi phương diện, với những bộ Kinh danh đề tương tự mà chúng ta thấy trong Ðại Tạng.
Chúng tôi đã cố tìm một danh từ khác vừa gọn gãy, vừa nói lên được cái”nghĩa sâu kín” mà chúng tôi mong vạch ra được trong một công trình khảo cứu, phiên dịch và chú thích khá dày công. Nhưng tìm mãi không được, chúng tôi đành giữ hai chữ “Huyền Nghĩa”.
Vì chủ đích của chúng tôi là trình bày nghĩa ẩn, chúng tôi đã nhẹ phần phiên dịch, nghĩa là chúng tôi không dịch sát và đầy đủ chánh văn mà chỉ ghi đại cương thôi, để cho độc giả khỏi tán ývà dễ nhận cốt yếu lời Phật dạy.
Bộ Pháp Hoa Huyền Nghĩanày đã được giảng hai lần tại Chùa Xá Lợi của Hội Phật Học Nam Việt, lần đầu hồi năm 1959, lần sau vào đầu tháng ba Nhâm Dần (5 4 1962). Số thính giả kỳ nào cũng trên dưới ba trăm và mỗi kỳ kéo dài cả năm. .
Rất thoả mãn, nhiều bạn trí thức thúc dục chúng tôi xuất bản để giúp ích trong muôn một những bạn đang tìm hiểu Diệu phápcủa Phật. Chúng tôi xin tuân hành.
Nhưng xin thưa trước: chỉ có Phật mới hiểu được trọn vẹn lời Phật, vì vậy những cố gắng của kẻ hậu sanh thiểu học như chúng tôi, dầu có tột độ đi nữa, vẫn không làm sao nói hết ý Phật được, và nhất là khó tránh những thiếu sót sai lầm mà chúng tôi thành tâm mong mỏi các bậc cao minh chỉ bảo cho. Chúng tôi trân trọng ghi ơn trước.
P. L. 2507
Saigon, tháng 3 Giáp Thìn
CHÁNH TRÍ hiệp thập
BẠCH VĂN
Nam mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Kính bạch Thế Tôn,
Trong phẩm Pháp Sư, Thế Tôn có dạy: ” Sau khi Như Lai diệt độ, nếu có người thiện nam, thiện nữ nào, muốn vì bốn chúng mà nói Kinh Pháp Hoa này, thời người thiện nam hay thiện nữ ấy phải vào nhà Như Lai, mặc áo Như Lai, ngồi toà Như Lai, rồi mới nên vì bốn chúng rộng nói Kinh này”.
Con nay tâm đại từ bi chưa rộng mở, nhu hòa nhẫn nhục khi có khi không, còn đối với nhất thế pháp”không” vẫn chưa thựïc chứng, vậy quả con chưa đủ điều kiện để diển nói Kinh Ngài.
Nhưng trước đó, Thế Tôn lại có lời khuyến khích: ” Kinh điển của ta nói, mhiều vô lượng ngàn muôn ức, trong đó Pháp Hoa là rất khó tin khó hiểu nhất, vì là kho tàng bí yếu của các Phật, chẳng thể chia bủa, vọng trao cho người. . . . Nhưng sau khi Như Lai diệt độ, người nào có thể biên chép, thọ trì, đọc tụng, cúng dường, vì người khác mà nói Kinh, thời người ấy được Như Lai lấy y trùm lên mình, lại được chư Phật hiện tại ở mười phương khác hộ niệm”.
Chính câu này đã giúp con đủ can đảm đem chỗ hiểu biết nông cạn của con, vạch bày lý huyền, để giúp các bạn đồng học đồng tu thông đạt phần nào ý nghĩa nhiệm mầu vi diệu của kinh. Vậy đê đầu thành khẩn, nguyện Thế Tôn từ bi lân mẫn, lấy tay xoa đầu, lấy y trùm thân, hộ niệm cho con đầy đủ biện tài, hầu làm sáng tỏ giáo pháp Ðại thừa khó tin, khó hiểu này.
Và xin hồi hướng công đức giải Kinh cho toàn pháp giới chúng sanh, nguyện tất cả nhất thời đồng chứng Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
CHÁNH TRÍ
phần hương khể thủ
LỜI NÓI ÐẦU
Ðể giảng Kinh DIỆU PHÁP LIÊN HOA, chúng tôi, về mặt văn từ, đã dựa theo những bộ sau đây:
Chữ Hán: Bản dịch dưới danh hiệu DIỆU PHÁP LIÊN HOA KINH( phần chữ Hán) của Ngài Cưu Ma La Thập (Kumarajiva), một nhà SưẤn –độ sang Trung hoa truyền giáo vào đời Hậu Tấn, đầu thế kỷ thứ 5. Trước đó, hồi đời Tây Tấn, dưới trào Huệ Ðế, năm Vĩnh Khương, có nhiều nhà Sư khác như Quách Hoàng, Trúc Pháp Hộ cũng có dịch, đề tên là CHÁNH PHÁP HOA ( chữ Hán). Nhưng thông dụng nhất là bản dịch của Ngài Cưu Ma La Thập mà hiện nay chúng ta đang đọc.
Chữ Việt:
a) Bản dịch của Thượng tọa Thích Trí Tịnh, xuất bản năm 1948, theo bản của Ngài Cưu Ma La Thập.
b) Bản dịch của Ô. Ðoàn Trung Còn, xuất bản laàn đầu hồi năm 1936, dung hoøa bản Hán văn của Cưu Ma La Thập và bản dịch chữ Pháp của Eugène Burnouf.
Chữ Pháp: Bản dịch của E. Burnouf, nhan đề LE LOTUS DE LA BONNE LOI, XUẤT BẢN NĂM 1925 và dịch ngay từ chữ Phạn (sanscrit), chiếu tài liệu thu thập được ở Nê bạt Nhĩ (Nepal).
Cứ như trên thì chỉ có hai bản dịch phải kể là có giá trị nhất, vì xuất phát từ nguyên văn chữ Phạn. Ðó là bản của Ngài Cưu Ma La Thập và của Ông E. Burnouf. So sánh hai bản văn này, thấy Ngài Cưu Ma La Thập quả đại tài, vì là người Ấn mà viết văn Tàu rất trôi chảy và có một lối dịch vừa gọn gàng vừa đầy đủ ý nghĩa.
Bản dịch của E. Burnouf có lẽ dịch sát chánh văn hơn vì có nhiều chi tiết, nhưng phải cái lỗi là một vài chỗ hình như không được sáng nghĩa hay ngược ý khi đối chiếu với các đoạn trước. Nguyên nhân quan trọng của khiếm khuyết này là sự khó khăn của chữ Phạn mà chính Ô. Sylvain Levy, trong bài cáo bạch đăng ở đầu sách đã phàn nàn rằng Ông E. Burnouf đã làm việc trong một hoàn cảnh “ không ngữ vựng chuyên môn, không một tự điển nào khác hơn là bộ giản yếu dụng từ của Wilson, hoàn toàn căn cứ trên các văn phẩm của Bà la môn giáo (sans vocabulaire techniqne, sans autre dictionaire que le maigre lexique de Wilson, exclusivement basé sur les oeuvres du Brahmanisme. . . )
Về hai bản dịch ra Việt văn, phải kể bản của Thượng Tọa Thích Trí Tịnh là có phần hơn.
Bản chữ Hán của Ngài Cưu Ma La Thập chia làm 7 quyển, 28 phẩm.
Bản chữ Pháp của E. Burnouf, không chia thành quyển và có 27 phẩm.
Ðối chiếu thì thấy đôi bên từ phẩm I đến X giống nhau. Còn từ phẩm XI đến XXI, Hán văn có 11 phẩm, Pháp vănchỉ có 10, vì hai phẩm “Hiện bảo tháp” và “Ðề bà đạt Ða” của Hán văn bị nhồi làm một trong bản Pháp văn, dưới đề
“L ùapparition d ùùunstuâpa”. Lại nữa, hai phẩm “Chúc lụy” (số XXII) và “Ðà la ni” (số XXVI) của Hán văn thì lại thành phẩm chót “Le dépôt” (số XXVII) và phẩm “Les formules magiques” (số XXI) của Pháp văn.
Dưới đây là bản đối chiếu:
Hán văn | Pháp văn |
Quyển I. 1 Phẩm tự | 1 Le Sujet |
2 Phương tiện | 2 L ùhabileté des moyens |
Quyển II. 3 Thí dụ | 3 La parabole |
4 Tín giải | 4 Les inclinations |
Quyển III. 5 Dược thảo | 5 Les plantes medicinales |
6 Thọ ký đại đệ tử | 6 Les prédictions |
Quyển IV. 7 Hoá thành dụ | 7 L ùacienne application |
8 Ngũ bách đệ tử thọ ký | 8 Prédiction relative aux 500 religieux |
9 Thọ học, vô học | 9 Prédiction relative à Anan |
10 Pháp sư | 10 L ùinterprète de la loi |
11 Hiện bảo tháp | 11 L ùapparition dùun stuâpa |
12 Ðề bà đạt đa |
13 Trì | 12 L ùEffort |
Quyển V. 14 An lạc hạnh | 13 La Position commode |
15 Tùng địa dõng xuất | 14 Apparition des Bodhisattvas |
16 Như Lai thọ lượng | 15 Durée de la vie du Tathâgata |
17 Phân biệt công đức | 16 Proportion des mérites |
Quyển VI. 18 Tùy hỷ công đức | 17 Indication du mérite de la satisfaction |
19 Pháp sư công đức | 18 Exposition de la satisfaction des sens |
20 Thường bất khinh Bồ tát | 19 Le Religieux Sadâpasibhuâta |
21 Như lai thần lực | 20 Effet de la puissance surnaturelle du Tathâgata |
22 Chúc lụy. . . | 27 Le dépôt |
23 Dược vương Bồ tát | 22 Ancienne méditation de Bhaicha djyaradja |
Quyển VII. 24 Diệu âm Bồ tát | 23 Le Bodhisattva Gadgadasvara |
25 Quán thế Âm Bồ tát | 24 Le récit parfaitement heureux |
26 Ðà la ni. . . | 21 Les formules magiques |
27 Diệu trang Nghiêm vương Bồ tát | 25 Ancienne méditation du Roi Cubhavyuâtha |
28 Phổ Hiền Bồ tát | 26 Satisfaction de Samantabhadra |
Như quý vị biết chữ Pháp thấy, giữa hai lối dịch Hán và Pháp, có chỗ bất đồng. Về sau, khi học đến cuối mỗi phẩm, chúng ta sẽ tìm hiểu những sai biệt này.
Hình thức của Kinh, chúng ta đã thấy sơ qua. Nay thử tìm xem nội dung hay chủ nhãn của Kinh.
1. Theo Ngài Hải Ấn, một trong nhiều bậc cổ đức chú thích, chú giải Pháp Hoa, chủ nhãn của Kinh không ngoài cái hoài bão của Phật khi xuất thế là khai, thị, ngộ, nhập Phật tri kiến (Mở, chỉ, nhận, và vào cái thấy biết của Phật). Vì vậy Ngài Hải Ấn sắp:
Nhưng nếu sắp theo nội tông Hoa Nghiêm, thì:
22 phẩm đầu: làm rõ cái lý, để lấy đó làm phát khởi lòng tin (tín) và trí hiểu biết (giải): Hiển lý, dĩ phát Tín, Giải. (6 chữ Hán).
6 phẩm chót: làm rõ sự tu hành, để lấy đó chúng minh kết quả: Hiển hành, dĩ minh hành, chứng( 6 chữ hán).
2. Theo thiển kiến chúng tôi, chủ nhãn của Kinh là đưa ra cái Chân lý tuyệt đối “Tất cả là một” và “Một là tất cả”, chủ là khách và khách là chủ (sujet et objet sont la même chose). Vì vậy Kinh mới “phá tam hiển nhất” phá cái giáo pháp trước kia chia có 3 cấp (tam thừa hay tam thặng) mà chỉ cho thấy rõ chỉ có một giáo pháp (nhất thừa hay nhất thặng) mà thôi. Chủ, khách là Một thì:
a) Tất cả cùng nằm trong Nguồn Sáng Trí duy nhất là “Tâm huyền diệu có khả năng tự giác” (Bổn giác diệu tâm), và tất cả đều có đầy đủ và sẵn sàng khả năng thông hiểu như nhau giáo pháp nhất thừa.
b) Tất cả đều có khả năng thành Phật như nhau.
Nhưng muốn hiểu được Sự thật tuyệt đối, có một không hai này, phải bỏ giáo lý Tứ diệu đế (Thanh văn), giáo lý Thập nhị nhân duyên ( Duyên giác), bỏ giáo lý Lục độ Vạn hạnh (Bồ tát). Tất cả những giáo lý, đạo quả ấy đều là tạm bợ mà nói, đều là Hoá thành, đều là tam xa, để dụ người sống trong “hoả trạch” ra khỏi nơi nóng bức đau khổ.
Tóm lại, Kinh Pháp Hoa là giáo pháp tột cùng (tối thượng thừa, tôn vô quá thượng) bày rõ cái “Chân” (Chữ Hán) đả phá cái “Vọng” (chữ Hán). Ðó là một trái bom nguyên –tử mà Phật đợi đến sau 40 năm dìu dắt đệ tử đến chỗ thuần thục mới dám đem ra ném. Và sau khi bày điềm lạ để thức tỉnh tất cả, để cho tấtcả đừng tin lục căn, lục thức nữa. Quả bom đó là Chân lý tuyệt vời là Tri kiến hay Trí tuệ (Sagesse) của Phật, là Lý Sự không hai.
P. L. 2507
Saigon, ngày 5 4 1962
CHÁNH TRÍ