Phật Học Vấn Đáp


Ngoài tâm thấy Phật đều cho là ma, cầu sinh Phật quốc, vậy người ấy chẳng phải đệ tử Phật?
Kinh Phật Tạng ghi: “Nếu Tỳ kheo nào thấy có Phật, Pháp, Tăng và Giới để thọ trì thì người đó là quyến thuộc của ma, chẳng phải đệ tử của ta, ta cũng không phải thầy và cũng không tiếp nhận người đó”. Hỏi: Theo kinh Phật Tạng, ngoài tâm thấy Phật đều cho là ma, Phật không phải thầy họ và nói họ chẳng phải đệ tử của Phật. Như thế, pháp môn Tịnh Độ dạy người chuyên niệm danh hiệu Phật, quán tướng hảo Phật, cầu sinh Phật quốc, vậy người ấy chẳng phải đệ tử Phật, Phật không phải thầy của người ấy, làm sao được Phật hộ niệm để sinh

8/30/2022 7:11:50 AM

Giáo môn có muôn ngàn sai biệt, nhưng cùng trở về một thể chân thật, tùy theo căn cơ mà lập nghĩa, nên ngôn giáo có sai biệt. Nghiên cứu kỹ hai kinh, văn tuy khác nhau, nhưng lý cùng một thể. Vì sao? Vì Phật, Pháp, Tăng và Giới có ba ý nghĩa:

– Chân đế.

– Biệt tướng.

– Trụ trì.

  1. Chân Đế: Thể chân như thanh tịnh, bặt dứt phiền não chướng và sở tri chướng[3], Bản Giác sáng ngời đó là Chân Phật. Giữ gìn thể tánh không biến đổi, chư Phật từ đây mà thành tựu, bậc Đại sĩ đồng nương gá, muôn hạnh nhân đây mà hiển bày, đó chính là Chân Pháp. Thầm thể hội muôn pháp, dứt bặt ngôn từ, hý luận, đó chính là Chân Tăng. Tánh thanh tịnh trang nghiêm, thể tinh khiết vô cấu đó chính là Chân Giới. Căn cứ vào những nghĩa thù thắng này, cho nên nói là Chân Đế, đó cũng là điều mà kinh Niết Bàn ghi: “Quán Tam Bảo thường trụ đồng với Chân Đế, chính là thệ nguyện tối thượng của chư Phật”.
  2. Biệt tướng: Phật có ba thân: Pháp Thân, Báo Thân và Hóa Thân [4]. Pháp có bốn loại là Giáo, Lý, Hạnh và Quả. Tăng có hai loại là hữu vi và vô vi. Giới là tất cả các giới phẩm Chỉ Trì và Tác Trì[5] mà người xuất gia và tại gia phải thực hành. Nhưng tu Biệt tướng là để cầu chứng ChânĐế, hàng Khởi Hạnh[6] vừa biết Biệt tướng lại cho là cứu cánh nên không ngộ được nguồn chân. Còn hàng Học Giới[7] thì cho tất cả đều là trợ đạo. Danh tướng Phật ứng hiện chẳng phải chân thật, nhưng để tiếp độ hàng phàm phu mà phương tiện lập ra hóa thành[8]. Kẻ thấp kém không hiểu được mới chấp là chân thật, nên bị Đức Phật quở trách, cho là quyến thuộc của ma. Là Phật tử cần phải đạt được Hai Không[9], xa thì hợp chân như, gần thì đúng với bổn nguyện, nếu cứ chấp chặt mãi danh tướng mà không ngộ được chân không thì lại rơi vào chốn ma, xa Phật trái Pháp. Muốn vượt Ấm Ma[10] phải nhờ Pháp Thân thường trụ; trừ Phiền Não Chướng cần nương vào Định hư không; ra khỏi cõi Thiên ma nên nhờ sức định Từ; cầu vượt Tử ma phải khéo nương vào định Thần Túc. Xem khắp bốn phương, chẳng phải Đại Thánh thì không ai có thể làm được, chinh phục Bốn Ma[11] đâu phải khả năng của kẻ phàm phu. Nếu không để tâm vào chí đạo, thì biết lấy gì để dứt trừ lưới ái. Còn buộc niệm hướng về Chân thì ngăn dứt các nẻo trong đường sinh tử.

Thế nên, đức Phật chỉ dạy hàng phàm phu hãy nên học quán môn Tịnh Độ. Nếu nghĩ đến Tây Phương thì phải cầu sự bất thoái, được sinh cõi Tịnh, thấy Hóa Thân Phật, đức Hóa Chủ dẫn dắt, đạt Vô Sinh Nhẫn[12], tỏ ngộ pháp giới bình đẳng. Nương vào thần lực ấy phá các lưới ma, gần thì vượt khỏi ba cõi, xa thì được chứng đắc Bồ đề. Nếu không như thế lại chìm trong đường ác, thọ khổ dài lâu, không bao giờ giải thoát. Hiểu rõ hai nguyên nhân này hoàn toàn không khác nhau, chớ chấp một bên nào để sinh tâm nghi ngờ. Thuận pháp môn cơ bản này mà quán tưởng cõi kia, lìa hẳn Sa bà, vĩnh viễn thoát khỏi luân hồi; suy nghiệm pháp môn này rồi theo đó tu hàng, quán nhân duyên cạn sâu, tự có lợi ích. Rõ ràng do niệm mà khế hợp với bản nguyện, nào có sai khác!

_______________
[3] Phiền não chướng và Sở tri chướng: Hai chướng ngại do phái Du già, tông Pháp Tướng phân loại.

  1. Phiền não chướng: Do chấp ngã mà sinh ra, vì tất cả các hoặc tham, sân, si… phát nghiệp nhuận sinh phiền nhiễu thân tâm loài hữu tình, khiến sinh tử mãi trong ba cõi, năm đường, chướng ngại quả Niết bàn.
  2. Sở tri chướng (còn gọi là Trí chướng): do chấp pháp mà sinh ra, vì các hoặc tham, sân, si… làm ngu si mê mờ, chướng ngại diệu trí Bồ đề, khiến không thể rõ biết sự tướng và thật tính các pháp (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3310).

[4] Hóa Thân: Đức Phật vì lợi ích cho chúng sinh mà hiện ra các hình tướng. Sinh thân của Đức Phật đầy đủ 32 tướng quý, cùng với Pháp Thân gọi chung là Nhị thân (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1868).

[5] Chỉ trì và Tác trì: hai phương diện của giới luật.

– Chỉ trì: Chỉ là ngăn chặn, tức ngăn chặn thân và miệng không làm và nói những điều ác. Chỉ trì là y vào Chỉ mà giữ gìn giới thể, dạy người chớ làm các điều ác, tức chỉ cho các điều mục của hai bộ giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni.

– Tác trì: tạo tác, tức khuyến khích thân, miệng và ý tạo tác các thiện nghiệp. Tác trì là y vào Tác mà giữ gìn giới thể, dạy người vâng làm các điều thiện (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3363).

[6] Khởi hạnh: những hạnh được phát khởi bằng ba nghiệp thân, miệng, ý. Nhờ tâm Bồ đề mà phát khởi các hạnh nghiệp như thân lễ bái cung kính, miệng xưng niệm hồng danh, tán thán Phật, ý quán sát nhớ nghĩ. Nếu chí thành phát khởi ba hạnh nghiệp của thân, miệng, ý thì ngay hiện đời được nhiều lợi ích và vị lai được sinh về Tịnh Độ (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 2325).

[7] Học giới: (Học giới thành tựu): tu tập ba tụ tịnh giới: Nhiếp luật nghi giới, Nhiếp thiện pháp giới, Nhiêu ích hữu tình giới để thành tựu giới Ba la mật. Một trong sáu thành tựu. Vì Bồ tát muốn thành tựu sáu Ba la mật nên phải thực hành sáu việc, trong đó, nêu thực hành học giới lâu dài thì Giới Ba la mật sẽ được viên mãn (TĐPH Huệ Quang, t. II, tr. 1918).

[8] Hóa thành: dụ cho Niết bàn của Tiểu Thừa chưa rốt ráo và không thật; còn Bảo sở dụ cho Niết bàn của Đại Thừa, chỉ nơi an trụ rốt ráo chân thật (TĐPH Huệ Quang, t. I, tr. 351)

 [9] Nhị không : chỉ cho Nhân Không và Pháp Không, gọi chung là Nhân Pháp Nhị Không, Sinh Pháp Nhị Không. Nhân Không còn gọi là Ngã Không. Sinh Không là chỉ cho chân lý Nhân Ngã Không Vô. Hàng phàm phu vọng chấp năm uẩn là Ngã, cho là chủ tể, sinh ra phiền não gây các ác nghiệp. Vì để phá trừ vọng chấp này, Đức Phật nói lý năm uẩn Vô Ngã, cho rằng Ngã chỉ là sự kết hợp giả tạm của năm uẩn và không có chủ thể nhất định, gọi là Nhân Không. Pháp Không, tức nguyên lý của các pháp vốn không. Khi chưa đạt được lý Pháp Không, hàng Nhị Thừa vẫn chấp pháp năm uẩn là có thật; để phá trừ vọng chấp này Đức Phật nói Bát nhã thâm huệ, giúp cho hàng Nhị Thừa thấy rõ tự tính của năm uẩn vốn không (TĐPH Huệ Quang, t. IV, tr. 3323).

[10] Ấm ma: Ngũ ấm ma, hay Ngũ uẩn ma, là sắc thọ, tưởng, hành và thức; do Năm ấm tích tụ mà thành quả khổ trong sinh tử, như Ma vương có khả năng làm cho chúng sinh hữu tình chịu nhiều chướng hại (TĐPH Huệ Quang, t. III, tr. 3046).

[11] Bốn ma: (S. Catvãro mãrãh) bốn thứ ma cướp đi sinh mạng và huệ mạng của con người.

  1. Uẩn ma, cũng gọi là Ngũ ấm ma, Ngũ chúng ma, tức là năm uẩn sắc, thọ tưởng, hành, thức chứa nhóm thành quả khổ sinh tử. Pháp sinh tử này có công năng cướp đi huệ mạng.
  2. Phiền não ma, tức là 108 phiền não trong thân làm não loạn tâm thần của chúng sinh, cướp đi huệ mạng, làm cho không thành tựu Bồ đề.

3.Tử ma, làm phân tán thân tứ đại của chúng sinh, gây ra sự chết chóc, làm cho người tu hành không thể kéo dài huệ mạng.

  1. Thiên tử ma, cũng gọi là Tha Hóa Tự Tại Thiên tử ma: Ma vương ở từng trời thứ sáu của cõi Dục, thường làm hại việc thiện của người, ganh ghét pháp hiền thánh, gây ra những việc nhiễu loạn làm cho người tu không thành tựu được thiện căn xuất thế.

Trong bốn loại ma trên, ba loại ma trước thuộc nội ma, loại ma thứ tư thuộc ngoại ma (TĐPH Huệ Quang, t. V, tr. 4083).

[12] Vô Sinh Nhẫn: gọi đủ là Vô Sinh pháp nhẫn, Tu tập Vô Sinh nhẫn. Vô Sinh nhẫn là một trong ba nhẫn, nhẫn thứ tư trong năm nhẫn nói trong kinh Nhân Vương; tức quán lý không sinh không diệt của các pháp, nhận kỹ lý ấy, an trụ tâm bất động. Theo luận Du Già Sư Địa, q. 74, Bồ tát ở địa vị Bất thoái chuyển nương vào ba tánh: Biến kế sở chấp, Y tha khởi, Viên thành thật mà được ba loại Vô Sinh nhẫn.

  1. Bản tánh Vô Sinh nhẫn: nghĩa là quán thể tánh của Biến kế sở chấp đều không, biết rõ bản tánh Vô Sinh.
  2. Tự nhiên Vô Sinh nhẫn: nghĩa là quán các pháp Y tha do nhân duyên sinh, biết rõ chẳng phải tự nhiên mà sinh.
  3. Phiền não khổ cấu Vô Sinh nhẫn: nghĩa là pháp tánh chân như của thật tánh các pháp an trụ vô vi và không tương ưng với tất cả tạp nhiễm, biết rõ xưa nay vắng lặng (TĐPH Huệ Quang, t. VII, tr. 6105).
Trích từ:  Tây Phương Yếu Quyết Thích Nghi Thông Quy . Đại Từ Ân tự Sa Môn Khuy Cơ | Dịch Giả :Thượng Tọa Thích Nguyên Chơn


Thẻ
Giới        Tịnh Độ        Phật Học        Thập Niệm       

Câu Hỏi Ngẫu Nhiên


Từ Ngữ Phật Học Trong Phần Vấn Đáp



Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật