Thiền sư Đạo Bái, người đời Thanh, họ Đinh, tự Vi Lâm, hiệu Lữ Bạc, Phi Gia Tẩu. Quê ở Kiến An (nay là huyện Kiến Âu, tỉnh Phúc Kiến) Trung Quốc. Năm 14 tuổi vào chùa Bạch Vân, năm sau thì xuống tóc. Một hôm, thấy vị Tăng ở phòng bên cạnh chết, Sư tỏ ngộ đạo lý vô thường, bèn phát khởi ý chí rộng lớn, đi khắp mọi nơi học đạo.
Năm 18 tuổi, được ngài Văn Cốc dạy “niệm Phật cuối cùng sẽ thành Phật”, Sư tin sâu không nghi ngờ. Về sau, Sư theo học với Thiền sư Nguyên Hiền ở Cổ Sơn bốn năm. Sau đó, Sư đi khắp các giảng đường ở Hàng Châu trong 5 năm, am tường được yếu chỉ của các kinh Pháp Hoa, Lăng Nghiêm, Duy Ma, Hoa Nghiêm, kinh Viên Giác, Luận Khởi Tín, Duy Thức, và giáo lý tông Thiên Thai. Trở về đất Mân dựng am ở lại trên núi Đại Bách Trượng, độ mẹ xuất gia và cùng tu Tịnh nghiệp với mẹ trong 5 năm. Năm thứ mười niên hiệu Thuận Trị (1653), nhập thất ba năm ở am Quảng Phước tại Kiến Ninh. Tháng 10 năm thứ 14 niên hiệu Thuận Trị (1657), Thiền sư Nguyên Hiền thị tịch. Sư kế nhiệm trụ trì, mở pháp đường thuyết pháp hơn mười năm.
Tháng 4 năm thứ 23 (1684) Khang Hy, Sư hoàn thành “Hoa Nghiêm Sớ Luận Toản Yếu”–120 quyển. Năm thứ 26 Khang Hy (1687), Sư biên tập “Thiền Hải Thập Trân”–1 quyển. Năm thứ 34 Khang Hy (1769), trước tác “Pháp Hoa Kinh Văn Cú Toảûn Yếu”–7 quyển. Ngoài những tác phẩm trên, Sư còn trước tác rất nhiều bộ kinh khác, riêng về Tịnh Độ có các quyển: “Tịnh Độ Chỉ Quyết”, “Tịnh Nghiệp Thường Khóa”, “Tục Tịnh Độ Sinh–Vô Sinh Luận”, “Phát Nguyện Văn Chú”. Năm thứ 41 Khang Hy (1702), Sư thị tịch, hưởng thọ 88 tuổi.
Ngài Đạo Bái tiếp nhận sự khai thị của Thiền sư Nguyên Hiền, tỏ ngộ ý chỉ của Tổ sư từ Ấn Độ sang, chú trọng và phát huy sự tự ngộ. Ngài nói: “Phật không phải là Phật hình tướng bên ngoài, mà chính là tánh biết vốn có sẵn nơi mỗi người”. Ngài còn nói: “Ngàn kinh muôn luận đều phá trừ chấp thân và chấp tâm. Hai chấp đã được phá trừ thì tánh Phật tự hiện. Chấp thân không còn thì huyễn thân, tức là Pháp thân. Chấp tâm không còn thì huyễn tâm chính là tánh Phật”. Ngài cũng đề xướng dung thông Thiền–Giáo, Nho–Thích và nói phải từ lòng tin mà vào Phật pháp: “Tin, một là tin lời Phật; hai là tin tâm mình”.
“…Hiện nay có những người không tin lời Phật, nhưng thật ra chẳng phải là không tin lời Phật, mà chính là chẳng tin tâm mình”.
__________________
Vi Lâm Đạo Bái (zh. 爲霖道霈, ja. Irin Dōhai, 1615-1702) là Thiền sư Trung Quốc cuối nhà Minh và đầu nhà Thanh, thuộc tông Tào Động đời thứ 28. Sư là môn đệ nối pháp nổi tiếng nhất của Thiền sư Vĩnh Giác Nguyên Hiền và có đệ tử nối pháp là Thiền sư Hằng Đào Đại Tâm.
Sư có công trong việc sáng lập nhiều đạo tràng Thiền tông tại núi Cổ Sơn (Phúc Kiến) cũng như biên soạn nhiều tác phẩm liên quan đến Thiền học.
Cơ duyên và hành trạng
Sư họ Đinh, hiệu là Lữ Bạc, Phi Gia Tẩu, quê ở Kiến An, Phúc Kiến. Năm 14 tuổi, sư xuất gia tại Bạch Vân Tự (zh. 白雲寺) và học các kinh luận Phật giáo. Đến năm 18 tuổi, sư thọ giới cụ túc và tham học với Đại sư Quảng Ấn tại Bảo Thiện tự (zh. 寳善寺) ở Phần Thường.[1]
Trên bước đường học Thiền, đầu tiên sư đến tham học với Thiền sư Vĩnh Giác Nguyên Hiền ở núi Cổ Sơn và làm thị giả tại đây. Sau đó, sư lại đến yết kiến Thiền sư Mật Vân Viên Ngộ và dưới sự chỉ dạy của vị này sư đại ngộ. Tuy nhiên, Mật Vân không chấp nhận sở ngộ của sư và không chịu ấn khả cho sư. Sư bèn quay trở lại trình sở ngộ cho Nguyên Hiền nhưng Nguyên Hiền cũng không chịu công nhận. Vì vậy, sư giã từ Nguyên Hiền và lập một cái am để ẩn tu tại núi Bá Trượng (zh. 百丈山). Sau đó, sư đưa mẹ mình tới am sống cùng và trọn nghĩa báo hiếu cho bà. Sư dạy bà niệm Phật và cùng tu Tịnh Độ với bà trong 5 năm.[1]
Đến năm thứ 7, niên hiệu Thuận Trị (1650), sư quay trở lại tham học với Thiền sư Nguyên Hiền và triệt ngộ sau khi nghe Nguyên Hiền nêu câu thoại "Ném hạt cải trúng đầu mũi kim" và cuối cùng được Nguyên Hiền ấn khả cho. Năm sau, sư lập am Quảng Phước tại Kiến Ninh và bảo nhậm công phu tại đây. Năm 1657, sư trở lại núi Cổ Sơn và làm chức thủ toạ (người đứng đầu trong chúng). Cùng năm, Thiền sư Vĩnh Giác Nguyên Hiền thị tịch. Trước khi tịch, Vĩnh Giác tập hợp bốn chúng và giao lại cho sư trách nghiệm hoằng hóa ở Cổ Sơn. Thiền sư Vĩnh Giác có trao cho sư bài kệ:
- Cầu Thọ Xương ta từng qua
- Chớ theo dòng tục nhạt nhoà bể dâu
- Nghìn mạch thánh sợi tóc thâu
- Lòng này tri kỷ ngõ hầu mấy ai
- Tám mươi lão thật buồn thay
- Việc đời lớn nhỏ ông nay lo dùm
- Ba mươi năm sống thong dong
- Người xưa lời thật chẳng từng dối ai
- Chèo thuyền ngược gió chớ nài
- Mới mong tới bến từ nay an lành.[2]
Sư tiếp nối thăng tòa thuyết pháp và độ chúng tại đây hơn 14 năm. Sau đó, sư xuống núi và lang thang phiêu bạt khắp nơi, tích cực phát triển tinh thần nhập thế và phổ biến Phật pháp đến quần chúng, dân thường. Vì núi Cổ Sơn không có người lãnh đạo nên sư buộc phải quay trở lại và tiếp tục hoằng hóa. Sư xây dựng bốn ngôi chùa ở Cổ Sơn là Bảo Phúc, Bạch Vân, Quảng Phúc, Khai Nguyên. Ngoài ra, sư cũng là tác giả của nhiều tác phẩm Thiền:
- Vi Lâm Đạo Bái Thiền Sư Bình Phất Ngữ Lục (zh. 爲霖道霈禪師秉拂語錄, 2 quyển).
- Xan Hương Lục (zh. 餐香錄, 2 quyển).
- Hoàn Sơn Lục (zh. 還山錄, 4 quyển).
- Pháp Hội Lục (zh. 法會錄, 1 quyển).
- Lữ Bạc Am Cảo (zh. 旅泊菴稿, 4 quyển).
- Thiền Hải Thập Trân (zh. 禪海十珍, 1 quyển).
Vào ngày 7 tháng 9 năm Nhâm Ngọ (1702), niên hiệu Khang Hi thứ 41, sư tập hợp tứ chúng lại dặn dò rồi an nhiên kiết già thị tịch, hưởng thọ 88 tuổi. Đồ chúng xây tháp tôn thờ tại núi Cổ Sơn.