Đây là văn bản đã được chỉnh sửa, tôi đã thêm khoảng trắng vào những chỗ bị thiếu để văn bản rõ ràng hơn:
Biên khảo về sử học Phật Giáo là một công trình to lớn, đòi hỏi đầu tư vào rất nhiều công phu nghiên cứu, nhất là nghiên cứu sự tiến trình Phật Giáo thời tiền sử. Trong thời kỳ tiền sử, sử học Phật Giáo có tính cách biên sử không được nhất quán, thí dụ như ngày đản sanh, ngày xuất gia, ngày thành đạo, ngày nhập niết bàn của Đức Phật Thích Ca trong sử học có nhiều kinh luận nói khác nhau không đồng nhất, về phương diện này dường như đức Phật không quan tâm đến, cho nên sau này người viết sử ghi lại cuộc đời Đức Phật Thích Ca theo sự trí nhớ mập mờ của mình. Khi Đức Phật Thích Ca còn tại thế, những kinh điển của ngài chỉ dạy không thấy đề cập đến sử học, có lẽ ngài chú trọng truyền bá chánh pháp mà ngài đã chứng ngộ để cứu độ chúng sanh sớm thoát khỏi mọi sự khổ đau của cuộc đời trần ai hơn là lý luận triết học trên lãnh vực tư tưởng không lợi ích thiết thực, do đó ngài không bàn đến sử học thế gian đương thời. Hơn nữa các đệ tử của ngài lúc bấy giờ đặt trọn niềm tin nơi ngài những đức tánh cao quý mà ngài đã đạt được như: “Ngài là một chứng nhân của các bậc Thánh Đức giác ngộ và giải thoát.” “Những lời dạy của ngài là chân lý thực nghiệm tối thượng.” Chỉ cần hành trì theo những lời chỉ dẫn của ngài để sớm được chứng đắc như ngài mà không cần suy luận và diễn dịch chân giả, đúng sai.
Theo Đại Thừa Pháp Uyển Nghĩa Lâm, chương 6, phần đầu chia lịch sử Phật Giáo thành 3 thời kỳ: chánh pháp, tượng pháp và mạt pháp. “Thời kỳ Chánh Pháp gồm có 500 năm kể từ khi Như Lai diệt độ, y theo giáo pháp tu hành thì chứng quả. Thời kỳ Tượng Pháp gồm có 1000 năm kể từ sau 500 năm của Chánh Pháp. Thời kỳ này tuy có người tu nhưng ít người chứng đắc. Thời kỳ Mạt Pháp kể từ sau 1000 năm của Tượng Pháp trở đi. Thời kỳ này tuy có người lãnh thọ giáo pháp nhưng không có người tu chứng.” Cũng theo kinh luận này giải thích: thời kỳ Chánh Pháp là thời kỳ Đức Tin Kiên Cố, thời kỳ Tượng Pháp là thời kỳ Nghị Luận Kiên Cố, thời kỳ Mạt Pháp là thời kỳ Đấu Tranh Kiên Cố. Theo những dữ kiện trên, Sử Học Phật Giáo có thể được quan tâm nghiên cứu vào thời kỳ Nghị Luận Kiên Cố của thời Tượng Pháp, nguyên vì trong thời kỳ này, những tư tưởng và triết học của Phật Giáo thi đua phát triển đa dạng.
Sử học Phật Giáo kể từ Đức Phật Thích Ca thành đạo cho đến thời kỳ Sử Học Thế Giới được đề cao trong văn học nhân loại, mặc dù có tánh cách Biên Sử, nhưng Tư Tưởng Sử của Phật Giáo trong tiến trình phát triển cho đến ngày nay có thể nói là đồng nhất cùng một mục đích của Đức Phật Thích Ca chủ trương từ ban đầu không có chút nào mâu thuẫn lẫn nhau lý tưởng và thăng tiến theo nhịp độ văn minh của nhân loại mà không sai lật trường tôn giáo. Đó là điều đặc sắc của Phật Giáo trong sự thăng hóa tư tưởng sử có hệ thống. Người nghiên cứu sử học Phật Giáo nếu muốn làm sáng tỏ bản sắc sử học Phật Giáo, nhất là minh định rõ ràng và cụ thể những móc câu tiến trình tư tưởng sử Phật Giáo kể từ khi Đức Phật Thích Ca ra đời cho đến ngày nay một cách dung thông nhất quán, phải có kiến thức khoa học, có khả năng tổng hợp toàn diện mọi học thuyết, phải có trí tuệ thẩm định và phân loại quan điểm tất cả mọi khuynh hướng tư tưởng của các hệ phái qua các thời đại thì mới xứng đáng là một sử gia lưu danh kim cổ và những tác phẩm đó mới giúp ích cho những hậu học sau này.
Tôi nhơn đọc một tác phẩm “DUY THỨC SỬ QUAN DỮ KỲ TRIẾT HỌC” của tác giả Pháp Sư Pháp Phảng, nhận thấy Pháp Sư thật xứng đáng là một sử gia như đã đánh giá ở trên. Pháp Sư không những là một sử gia thông bác mà còn là một triết gia và duy thức gia đáng phục, đúng ra là một duy thức gia chuyên nghiệp, nguyên vì ngài đứng trên lập trường Duy Thức Học để minh định sử học và triết học. Pháp Sư chẳng những làm sáng tỏ bản sắc sử học Phật Giáo mà còn thẩm định cụ thể lập trường của Đức Phật Thích Ca qua các kinh luận của Phật Đà để lại và còn phê phán cụ thể những đặc sắc tư tưởng của các Bộ Phái Ấn Độ, của các Tông Phái Trung Hoa trên lãnh vực sử học và triết học. Chúng ta đọc đến tác phẩm nói trên của Pháp Sư như nắm vững bản đồ của rừng hoa văn hóa tư tưởng vạn năng của Phật Giáo. Các đọc giả muốn biết khả năng thông bác của Pháp Sư xin đọc những tác phẩm của người sẽ rõ.
Tôi nhận thấy tác phẩm “DUY THỨC SỬ QUAN DỮ KỲ TRIẾT HỌC” của Pháp Sư rất có giá trị liền mạo muội xin dịch tác phẩm này ra tiếng Việt để làm tài liệu. Tác phẩm “DUY THỨC SỬ QUAN DỮ KỲ TRIẾT HỌC” gồm có hai phần: Phần Sử Học và Phần Triết Học. “Duy Thức Sử Quan” thì thuộc về phần sử học và “Dữ Kỳ Triết Học” thì thuộc về phần triết học. Tôi chia hai phần này dịch thành hai quyển khác nhau: quyển “Duy Thức Sử Quan” và quyển “Dữ Kỳ Triết Học”. Nhan đề “Duy Thức Sử Quan”: chữ Sử là sử học và chữ Quan là quan niệm. Từ đó “Duy Thức Sử Quan” tôi dịch là “Quan Niệm Về Sử Học Của Duy Thức”. Còn nhan đề “Dữ Kỳ Triết Học”: chữ “Dữ” là thuộc về giới từ, nghĩa là “Và” và chữ “Kỳ” là đại danh từ chỉ cho “Duy Thức và Quan”. Cũng từ đó “Dữ Kỳ Triết Học” tôi dịch là “Quan Niệm Về Triết Học Của Duy Thức” Với mục đích làm phong phú cho nền văn học Phật Giáo về Tông Phái Duy Thức, nội dung hai quyển sách nói trên trong tác phẩm “DUY THỨC SỬ QUAN DỮ KỲ TRIẾT HỌC” tôi dịch theo lối thoát văn mà không lệ thuộc quá nhiều văn phạm Trung Quốc nhằm lấy ý tưởng hay đẹp trong đó để cống hiến quý đọc giả quan tâm đến Pháp Tướng Duy Thức Học.
Trong khi dịch, những chỗ nào tối nghĩa tôi có thêm vào một số lời văn của dịch giả để làm rõ nghĩa mà không sai ý tứ của tác giả miễn làm sao đọc giả dễ tiếp nhận giá trị của tư tưởng. Tôi dịch mặc dù lối văn không hay lời không đẽo gọt cho có hoa mỹ, nhưng bước ban đầu với ý nguyện giới thiệu đến quý đọc giả bốn phương những tư tưởng cao thâm của Phật Giáo, nhất là tư tưởng học thuyết Duy Thức mà người Trung Hoa tiếp nhận hiện đang nằm gọn trong Văn Học Trung Quốc. Tôi hy vọng sau này có nhiều dịch giả tiếp nối dịch lại để bổ túc thêm cho được phong phú hơn. Tôi dịch hai tác phẩm vừa phân loại trên của tác giả Pháp Sư Pháp Phản nhất định có nhiều chỗ thiếu sót và sai trái kính xin quý đọc giả bốn phương nhận thấy xin chỉ bảo cho. Thành thật cảm ơn quý vị.
THÍCH THẮNG HOAN