Home > Khai Thị Phật Học > -Giai-Thich-Moi-Nghi-Nhan-Qua-Khac-Nhau
Giải Thích Mối Nghi Nhân Quả Khác Nhau
Chu An Sĩ | Tỳ Kheo Thích Giới Nghiêm, Việt Dịch


Hỏi: Người hộ sinh phóng sinh được trường thọ, người sát sanh bị đoản mạng, đây là định lý. Nhưng vì sao có người hộ sanh giới sát lại đoản mạng, sát sanh lại trường thọ?

Trả lời: Một người làm thiện hoặc làm ác, nhất định có báo ứng. Nhưng quả báo đến nhanh hay chậm, chung quy có ba tình huống: 1. Đời này làm đời này chịu, 2. Đời này làm đời sau chịu, 3. Đời này làm nhiều đời sau mới chịu quả báo. Người hộ sanh giới sát mà đoản mạng, đây là ác báo đời trước tạo quyết định, nếu anh ta không hộ sinh, mạng nhất định càng ngắn. Người hiếu sát trường thọ, đây là thiện báo đời trước của anh ta, nếu đời nay không hiếu sát, mạng càng dài hơn.

Hỏi: Có một người nọ từng giới sát phóng sanh, tụng kinh trì chú, nhưng không thấy có phước báo, vì sao?

Trả lời: Quả báo có nhanh chậm, phải nhìn nhân duyên đã chín chưa. Nhân duyên chưa chín mà cầu có phước báo liền, cũng như vừa gieo giống mà cầu thu hoạch, đương nhiên không thể. Huống hồ chẳng phải hoạ hoạn do quan, nước lửa, trộm cướp, bệnh tật mang lại, một người nào đó hôm nay tất cả không gặp phải, đó là đã có phước báo rồi. Làm sao anh biết đây không phải là phước báo anh ta có được một cách âm thầm nhờ giới sát phóng sanh, tụng kinh trì chú?

Hỏi: Chỉ có đời này làm ác đời này chịu báo, người ta mới biết sợ. Nếu đời này làm ác đời sau mới chịu quả báo, người ta liền cho rằng mơ hồ khó tin. Trời vì sao không làm cho người làm ác gặp quả báo liền?

Trả lời: Quả báo nhanh chậm, do nghiệp lực tự thân quyết định. Người thiện tuy đời này làm thiện, nhưng quả ác đời trước nay đã chín muồi, thì phải chịu quả báo ác trước. Người ác tuy đời này làm ác, nhưng quả thiện đời trước nay đã chín muồi, nên hưởng quả báo lành trước. Giống như trong vườn trồng mít trước trồng xoài sau, cách nhau thời gian khá xa, dù hết lòng chăm sóc, xoài vẫn có trái sau mít. Nếu nhất định phải báo ứng hiện đời mới tin nhân quả, như vậy thì ngu xuẩn quá!

Hỏi: Một người nọ khi chưa tu phước thì cái gì cũng thuận lợi, nhưng sau khi tu thiện thì mọi việc đều trái nghịch, đây có phải là nghiệp báo đời trước vừa vặn đúng lúc không?

Trả lời: Cũng có thể ác nghiệp đời trước vừa vặn đúng lúc, nhưng cũng có thể đời trước làm ác, đáng lẽ bị quả báo nặng, nhưng nhờ đời hiện tại hành thiện, nên quả báo nặng chuyển thành nhẹ. Giống như tù nhân bị án tử hình, đến mùa thu mới ra pháp trường, thời gian tử hình tuy chưa tới, nhưng nhờ có quý nhân đắc lực giúp đỡ, nên chuyển thành bị đánh 90 gậy, sau khi bị đánh liền được thả.

Hỏi: Người bố thí tương lai nhất định giàu có, người tham lam keo kiệt tương lai nhất định bần cùng, đây là lý đương nhiên. Nhưng hôm nay những người thích bố thí làm việc lành phần nhiều nghèo cùng, giàu có lại phần nhiều keo kiệt, đây là vì sao?

Trả lời: Người ta ở vào hoàn cảnh nghịch thì chịu suy tư, suy tư thì có thể tăng trưởng thiện tâm. Người ta ở vào hoàn cảnh thuận thì khoái lạc, khoái lạc nhiều thì tự nhiên quên điều thiện. Quên mất điều thiện thì sẽ khởi tâm ác, đây là lý tự nhiên. Huống hồ chuyện luân hồi, làm nhân quả qua lại, bần khổ mà keo kiệt đời sau lại càng khổ; giàu sang mà ham bố thí, đời sau lại càng giàu, cứ như vậy giàu nghèo lại càng cách xa. Kinh “Nghiệp Báo Sai Biệt” nói, nếu người nào thường bố thí, nhưng sau khi bố thí lại hối hận, đời sau trước giàu sau nghèo; nếu người nào khuyên người ít bố thí, nhưng sau khi bố thí trong tâm hoan hỷ, đời sau trước nghèo sau giàu. Có người đời trước tuy từng bố thí, nhưng chưa gặp phước điền, bố thí không như pháp, do đó quả báo nhỏ nhoi, vừa được liền hết, nhưng nhờ có thói quen bố thí, nên tuy nghèo vẫn thích bố thí. Có người keo kiệt, nhưng gặp thiện tri thức chỉ dẫn, tình cờ bố thí một lần, nhờ bố thí như pháp, gặp phước điền, nên đời sau giàu có, nhưng do không có thói quen bố thí, nên tuy giàu mà lại rất keo kiệt.

Hỏi: Người sát sanh, làm cho súc sanh không thể bảo tồn nòi giống, đáng phải bị quả báo tuyệt hậu; tuy nhiên, ngư dân nghiệp sát rất nặng, vì sao cứ đông con cái?

Trả lời: Con cái ở đời, có người vì phước báo mà đến, cũng có người vì nghiệp báo mà đến. Ngư dân vì cơm áo mà rộng tạo nghiệp sát, do nghiệp lực chiêu cảm, sẽ có quyến thuộc ác đến đòi nợ. Chúng ăn chúng mặc, làm cho ngày đêm lao khổ mà nhập không đủ chi. Con cái càng nhiều, gánh nặng càng nặng. Anh không thấy heo gà chó dê, mỗi lần mang thai sanh một bầy, còn tiên trên trời vĩnh viễn đâu có sanh con, chúng ta nên nghĩ một chút về đạo lý ấy.

Hỏi: Người ta sanh ra ở đời, nên học cổ thánh tiên hiền, trên noi gương trung với nước, dưới làm phúc với bá tánh, như vậy tự nhiên sẽ được phú quý. Về thuyết nhân quả báo ứng, có quan hệ gì với nhân tâm thế đạo?

Trả lời: Lý nhân quả chính là đạo của thánh hiền. Sách nho nói, “làm thiện được cát tường, làm ác bị tai ương”, làm thiện làm ác là nhân, được phước bị hoạ là quả. Kinh Dịch nói: “Cát hung tiêu trưởng”. Trong kinh Phật nói nhân quả, thật ra cùng một đạo lý mà thôi, chỉ có cách nói khác nhau. Thời mạt pháp, lòng người bại hoại, làm xằng làm bậy, chẳng sợ phép nước, không cần liêm sỉ, nhưng những người những lúc yên tĩnh nghĩ lại sợ hãi không dám tiếp tục làm ác, đều là những người có tin chút nhân quả, sợ bị quả báo. Nếu nói chết rồi là hết, thiện ác không có quả báo, người đời liền chẳng chút kiêng nể; cho rằng thánh hiền tự chuốc khổ, mà vi phạm phá hoại kỷ cương không việc ác nào mà không làm, thì thiên hạ sẽ học theo người ác mất. Người thời nay nói thánh nói hiền, mà không bao giờ đề cập đến nhân quả, hạng người này cách đạo thánh hiền xa mấy ngàn vạn dặm! Năm Vĩnh Gia thứ 4 đời nhà Tấn, Phật Đồ Trừng người Thiên Trúc đến Lạc Dương, thấy tính cách Thạch Lặc tàn nhẫn hiếu sát, liền muốn cảm hoá ông ta. Thạch Lặc hỏi Phật pháp có linh nghiệm gì không, Phật Đồ Trừng biết Thạch Lặc không biết Phật pháp, chỉ có thể dùng thần thông làm cho ông ta tín phục mà thôi; liền lấy một cái bát đựng đầy nước, đốt hương trì chú, trong bát nở ra một đoá hoa sen xanh. Sau này mỗi khi Thạch Lặc sắp giết người, Phật Đồ Trừng liền giảng nhân quả báo ứng, cứu được biết bao nhiêu người. Lại như Chu Ngung thời Nam Tống, thấy Minh Đế giết người dùng ngục hình rất tàn nhẫn, nhưng không dám khuyên trực tiếp, liền đọc những câu chuyện nhân quả trong kinh, Minh Đế nghe liền sợ nhân quả báo ứng mà hối cải. Học thuyết nhân quả có sức mạnh uy hiếp này, không cần khen thưởng mà có thể khuyến hoá người đời, không cần trừng phạt mà có thể làm cho người sợ. Bởi vì tin nhân quả, dần dần bước lên chánh đạo, nhưng còn chưa biết học thuyết nhân quả phát xuất từ đâu, không biết đây chính là lời dạy của đức Phật đối với thế nhân.