(Sinh năm 1968, hậu tiến sĩ ngôn ngữ văn tự Ấn Độ, giáo sư nghành Nam Á học đại học Bắc Kinh, Phó viện trưởng Viện nghiên cứu Đông phương học đại học Bắc Kinh. Lĩnh vực nghiên cứu: Phật giáo và văn hiến Phật giáo, giao lưu văn hóa Trung Ấn, Đôn Hoàng học, Phật giáo và văn học cổ đại Trung Quốc)
Tất cả hạnh phúc, thông thường chỉ cho khi chúng ta mưu cầu được đạt đến cảm giác thỏa mãn hoặc một phần thỏa mãn, là một loại vui sướng trong tinh thần. Cũng có người từ giác độ luân lý học định nghĩa rằng: con người sáng tạo điều kiện đời sống trong xã hội thực tiễn, là từ sự thực hiện mục tiêu, lý tưởng và sự nghiệp chủ nghĩa công ích qua cảm thọ và thấu rõ được cá nhân, tập thể cho đến nhân loại mà được thỏa mãn trong nhân cách. Thậm chí học giả liệt ra công thức hạnh phúc nhằm tiến hành bình nghị phân số hạnh phúc cảm (幸福感):
Nếu nói về một hạnh phúc nào đó của người nào đó, độ mưu cầu (Q) hạnh phúc cảm (F) sự vật nào đó đối với người nào đó và sự việc xảy ra trước đó, cùng sự vật xảy ra sau đó đối với sự vật nào đó được độ thỏa mãn (Z) và hệ số hạnh phúc (Z) đặc hữu của cá nhân trở thành chánh tỉ lệ, tức là:
Hạnh phúc cảm (F) = hệ số hạnh phúc (K) × được độ thỏa mãn (Z).
Gọi là hệ số hạnh phúc, tức là hệ số sai biệt của hạnh phúc cảm. Ví như giữa hạnh phúc cảm của đứa bé và người lớn cũng có chênh lệch rất lớn. Mấy đứa bé thực có thể chỉ cần có một viên kẹo ngậm là khiến lòng vui sướng nửa ngày. Suy ra, nói tương đối, hạnh phúc cảm của đứa bé có thể lớn hơn so với người lớn. Độ mưu cầu càng cao, hạnh phục cảm càng lớn. Chúng tôi từ cảm giác được thỏa mãn mà mọi người rất quan tâm nhằm đưa thí dụ phân tích:
Trong tình huống hệ số hạnh phúc (K) và độ mưu cầu (Q) nhất định, được độ thỏa mãn (Z) càng lớn, hạnh phúc cảm (F) cũng lớn hơn. Độ thỏa mãn (Z) = mưu cầu sự vật thực tế được giá trị thỏa mãn ÷ giá trị kỳ vọng mưu cầu sự vật.
Lúc được độ mưu cầu (Z) nhỏ lẻ, hạnh phục cảm sẽ là một phụ số (负数), cũng là kết quả mưu cầu không những không được hạnh phúc, trái lại đang rơi vào trong bất hạnh phúc. Ví như, đầu tư hy vọng căn bản lời ít nhất 10%, kết quả lại lỗ 10%, kết quả đương nhiên là bất hạnh phúc.
Lúc được độ hạnh phúc (Z) bằng với lẻ, thì hạnh phúc cảm (F) cũng là lẻ, trong tình huống đầu tư, đương nhiên chẳng hao chẳng lãi.
Khi được độ thỏa mãn (Z) lớn hơn lẻ 1, thuyết minh mưu cầu sự vật có tiến bộ, nhưng vẫn không đạt được mục tiêu mong chờ, kết quả là có hạnh phúc cảm, nhưng vẫn có khiếm khuyết. Trong đầu tư cũng như mưu cầu căn bản lời dưới 10%, kết quả lời ít hơn 10%.
Khi được độ thỏa mãn (Z) bằng với 1, thuyết minh mưu cầu sự vật hoàn toàn được thỏa mãn, lúc đó đạt được hạnh phúc cảm là hoàn mỹ. Trong đầu tư cũng như mưu cầu căn bản lời 10%, kết quả cũng là 10%.
Khi được độ thỏa mãn (Z) lớn hơn 1, thuyết minh kết quả mưu cầu vượt trên giá trị kỳ vọng, thế nên đạt được hạnh phúc cảm vượt trên tưởng tượng. Trong đầu tư cũng như mưu cầu căn bản lời ít nhất 10%, kết quả doanh thu hơn 10%.
Những lý luận trên, tuy nhiên đều đã vạch ra một số cộng tính của hạnh phúc nhân loại, nhưng cùng quan niệm hạnh phúc trong Phật giáo có chênh lệch rất lớn.
Trong Phật giáo, cảm giác được gọi là thọ, tức là tác dụng tinh thần của các loại cảnh giới mà sản sinh khổ, vui v.v... Căn cứ Câu xá luận, nói thọ có năm loại, tức là: ưu thọ, hỷ thọ, khổ thọ, lạc thọ, xả thọ. Trong hỷ thọ, là tương ứng cảm giác của tâm lý. Lạc thọ, cũng là tương ứng cảm giác của sinh lý. Xả thọ, tức là thọ bình đẳng, chẳng có cảm giác vui sướng cũng chẳng có cảm giác bất vui sướng. Suy ra, thế gian chúng ta gọi là hạnh phúc, có thể quy về trong lạc thọ, chỉ cho cảm giác của thân thể và tinh thần khoan khoái. Lạc thọ cũng gọi lạc căn. Đại Tì bà sa luận quyển 142 ghi: “Lạc căn là gì? Đáp: Thuận theo lạc xúc sinh ra thân thể và tinh thần lạc, bình đẳng thọ thọ sở nhiếp, gọi là lạc căn”. Phật giáo cho rằng mọi thứ tốt đẹp đều gọi đầu sổ là chữ lạc. Như lạc độ, lạc bang, lạc quả, lạc pháp v.v... Phật giáo thường hay nói “ly khổ đắc lạc”, lạc ở đây, chủ yếu chú trọng đến giải thoát đạo. Theo phân chia trong kinh điển, lạc bao gồm hai loại lớn: Thế gian và xuất thế gian. Hoa Nghiêm kinh tùy sớ diễn nghĩa sao nói có năm loại lạc:
Một, xuất gia lạc. Xuất gia lạc, nói đến người thế gian, nhiều các nghiệp cảm phiền não, xuất gia đạt đạo, dứt khổ vĩnh viễn. Hai, viễn ly lạc. Viễn ly lạc, tức là lạc sơ thiền thiên. Nói đến sơ định có thể viễn ly ái nhiễm phiền não cõi dục, đắc giác quán thiền định, mà sinh hỷ lạc. Ba, tịch tĩnh lạc. Tịch tĩnh lạc, tức là lạc nhị thiền thiên. Nói đến nhị thiền ly sơ thiền giác quán tán động, lắng tâm tịch tĩnh, bèn phát lạc thắng định. Bốn, bồ đề lạc, Phạn ngữ bồ đề, Hán ngữ gọi là đạo. Nói đến bồ tát thành quả vô lậu, tự thọ lạc bồ đề, dùng tâm nhân từ, lại dùng lạc này chuyển cho chúng sanh. Năm, niết bàn lạc, Phạn ngữ niết bàn, Hán ngữ gọi là diệt độ. Nói đến bồ tát tức hóa quy chân, nhập vô dư niết bàn, đạt được tịch diệt, gọi là niết bàn lạc.
Nói thông tục, xuất gia lạc, tức là xuất gia cầu đạo mà lạc giải thoát khổ. Viễn ly lạc, tức là chứng lạc sơ thiền, lạc viễn ly dục và bất thiện pháp. Tịch tĩnh lạc, tức là lạc đệ nhị thiền trở lên, dứt bặt lạc tác dụng tinh thần tầm, tứ v.v... Bồ đề lạc, tức là lạc chứng đắc bồ đề, lạc viễn ly phiền não mà đắc chân thực trí. Niết bàn lạc, tức là viễn ly lạc sinh tử đời này, mọi cảm nghiệp tịch diệt, mà được cảnh giới cứu cánh an ổn, bất sanh bất diệt. Kinh Pháp Hoa, phẩm Dược thảo dụ nói: “Đều khiến ly khổ, được an ổn lạc, lạc thế gian, lạc niết bàn”.
Với Phật giáo, gọi là hạnh phúc của thế gian, có biểu hiện nhận thức sâu sắc. Chúng tôi có thể nêu lên vài khía cạnh rất có tính nhắm vào hiện tại để thuyết minh:
Thứ nhất, hạnh phúc của thế gian đều là tạm thời Kinh Niết bàn xác định rõ nói: “Vạn vật luôn biếtn chuyển, là sinh diệt pháp”. Duy thức học Phật giáo cũng phân tích tỉ mỉ cái gọi là biến hóa vui sướng của con người. Ví dụ, lúc chúng ta khát nước, có thể có được một ly nước cũng là hạnh phúc. Chúng ta có thể lúc đó sẽ cho rằng, việc có nước trong cũng là rất hạnh phúc. Nhưng mà, nếu chúng ta uống vào một cách liên tục, uống đến căng bụng, hạnh phúc cảm sẽ biến thành bất hạnh phúc, chúng ta sẽ cảm thấy đau khổ. Căn cứ nghiên cứu của khoa học hiện đại, một lần uống nước quá lượng sẽ tức bụng, sinh mạng sẽ nguy cấp nghiêm trọng. Điều này không chỉ bất hạnh phúc, mà còn lý trí bấn loạn. Có thể thấy vô thường, hư giả của hạnh phúc cảm thế gian. Thậm chí nhà triết học nước Đức ArthurSchopenhauer cũng nhận được tư tưởng Phật giáo, từng nói qua: “Gọi là hạnh phúc, cũng là một dục vọng trước được thỏa mãn, một dục vọng sau lại chẳng có một sát na ấy sản sinh. Dùng chánh nhãn xem tính tạm thời của hạnh phúc, có thể giúp chúng ta thoát khỏi tham chấp”.
Khủng hoảng tài chính nước Mỹ năm 2007 đến nay, khủng hoảng kinh tế đã cho chúng ta một bài học sinh động về tài sản ngay cả hạnh phúc vô thường. Lúc chúng ta phản tỉnh tham lam của cải trước đây, cũng ý thức được phương thức đời sống chủ nghĩa tiêu phí thì không thể gián đoạn. Mọi người trước đây, đại khái hy vọng tiêu phí phẩm và mua nhiều để được hạnh phúc, thậm chí chỉ có thông qua mua sắm dầy dẫy, mới có thể ôn nhu kìm nén và hồi hộp trong lòng, dẫn đến sản sinh sự “mua sắm khiến cảm giác trong lòng sảng khoái”. Mà nguy cơ hiện nay khiến bọt tài sản tiêu tan, cũng khiến mưu cầu tài sản thả chậm lui bước. Lúc đó mọi người phát hiện, hạnh phúc có thể đến từ quan hệ giữa người và người tốt đẹp thân thiết, hạnh phúc có thể đến từ hài hoan an định của nội tâm. Khi chúng ta có thời gian hân thưởng lá xanh và tiếng chim reo ngoài song cửa sổ, tách trà nhạt nhạt trong tay chúng ta, dường như cũng biến thành rất tốt đẹp. Đó là an định đạm nhiên mà chẳng có kích thích của rượu hồng và điếu thuốc.
Thứ hai, tiền bạc không thể tất nhiên đem lại hạnh phúc
Với tài sản, nhìn từ giác độ tu trì giải thoát đạo của Phật giáo, có kiến giải khác nhau. Nhìn từ giác độ thanh văn thừa, người tu hành không vì vật dục liên lụy, xem tiền bạc như rắn độc. Trong Chứng đạo ca của thiền sư Vĩnh Gia Huyền Giác ghi: “Đệ tử Phật gia nghèo, miệng ắt gọi bần tăng, thực ra thân nghèo đạo chẳng nghèo. Nghèo bởi thân luôn đắp y rách hỏng, trong tâm lại hàm tàng đạo trân bảo vô giá”. Còn bồ tát đạo Đại thừa thì nhấn mạnh “Giỏi biết phương tiện làm lợi ích chúng sanh, khéo đem trần lao làm Phật sự”, như cư sĩ Duy ma cật, đồng tử Thiện Tài đều có gia sản ức, vạn. Kinh Pháp Hoa nhấn mạnh, mọi sản nghiệp kế mưu sinh ở thế gian đều cùng thực tướng chẳng trái ngược nhau. Nhưng, Phật giáo lại không cho rằng của cải tất nhiên có thể đem đến hạnh phúc. Cõi cực lạc phương tây, vàng làm đất nhưng vàng chẳng qua là đất và gạch mà thôi. Chỉ có giỏi dùng tài sản, mới có thể đem lại hạnh phúc, thậm chí được giải thoát. Bồ tát Đại thừa, đối với tài sản có thể nói là quý mà chẳng ham.
Tâm tánh tội phước nhân duyên tập quyển cuối đã ghi lại cốt truyện của một tỉ khưu đưa ngọc, rất có thể hấp dẫn.
Nước Tăng già đà có một sa môn, tên Na cầu đà, tu hành trí tuệ, giới luật, từ bi đều đã trọn đầy, cho nên rất được mọi người kính trọng. Quốc vương cũng đến chỗ của ngài ở để cúng dường ngài. Vật cúng dường, có các loại trân bảo như kim ngân, lưu ly v.v... Sau khi quốc vương đi, ngài đem những vật ấy bố thí cho người nghèo. Vào buổi chiều, một nhóm kẻ cướp hung ác đến chiếm đoạt, vật trong phòng đều cuỗm sạch. Ngài phát hiện góc phòng còn có một miếng ngọc lưu ly vẫn có thể nằm im, lập tức tới gần miếng ngọc, đuổi theo kẻ cướp hung ác nói: chờ một chút ạ, các ông chờ một chút! Kẻ cướp hung ác thảy kinh ngạc, bèn sau đó dừng lại. Ngài đưa ngọc bảo cho kẻ cướp hung ác một cách hoan hoan hỷ hỷ rồi nói: Các ngươi vì sao không cần miếng ngọc này nhỉ? Miếng ngọc này có thể là bảo ngọc trong bảy thứ trân bảo đấy! Kẻ cướp hung ác vô cùng kinh ngạc, nói: Ngươi vì sao với một chút tiền tài và trân bảo đều không quý trọng? Ngài đáp: Ta nhìn thấy tiền tài và trân bảo, cũng giống như nhìn thấy đống phân, sao có thể tham ái! Nay các ngươi thay ta đem đống phân trừ sạch không dơ, có thể làm thật tốt đấy! Kẻ cướp hung ác nghe xong, rất cảm giác xấu hổ, liền muốn đem tiền tài và trân bảo trả lại cho ngài, ngài kiên quyết không cần, rồi bước tới liên tục vì họ mà giải thuyết thái độ đối đãi tiền tài và trân bảo của Phật giáo:
“Nhân gian tạm thời do ham tiền bạc, chịu khổ nhiều kiếp trong ba cõi dữ như thế, người có trí tuệ nhìn tài vật chán bỏ, các người ngu ngốc thích tài vật sinh chấp. Đại sư Thích ca mâu ni dạy tỉ khưu: “Tỉ khưu các người, không cầu dục lạc. Ở trong chư pháp, có thể sinh yếm ly, quán thân thể như bọt, quán thân mạng như sương. Quán tài vật, như hư huyễn, mây, tưởng tượng...... Thậm chí trong giấc mộng chẳng sinh ham vui. Bởi cớ sao? Nguyên do nhiểu các khổ. Tỉ khưu luôn dùng thiểu dục tri túc làm sở hành, cho nên ta nay chẳng ham tiền tài và trân bảo. Như thân mạng cũng chẳng sanh một niệm ái tâm, huống chi tiền tài và trân bảo mây nổi khác!”
Các kẻ cướp hung ác lần lượt nghe nói như thế xong, não lòng đến cực điểm, đều đi theo tỉ khưu Tăng già đà xuất gia.
Việc ngài đưa ngọc cho kẻ cướp hung ác, có thể có người cảm thấy bất khả tư nghì. Thực ra, Phật giáo chẳng ham trân bảo, là bởi vì tự thân còn có bảo bối lớn hơn. Từng có người thông đạt nghĩa lý đem việc kinh doanh của con người chia thành ba loại: Một là sanh ý nhân. Hai là thương nhân. Ba là xí nghiệp gia. Sanh ý nhân (生意人) đơn thuần lấy mưu cầu lợi ích làm nguyên tắc, đôi lúc có thể thấy được lợi mưu toan mà chẳng quan tâm đạo lý, thậm chí vì lợi hại người. Thương nhân (商人) thì tham cứu “Quân tử chỉ cần có được tài sản và tài phú chánh đạo, chẳng cần tài vật bất nghĩa” (君子爱财, 取之有道), tuân theo nguyên tắc thương mại, tham cứu đạo đức thương mại. Và xí nghiệp gia thì càng tiến một bước “Lúc không đắc chí khiến cá nhân chính mình duy trì thanh bạch và cá nhân tự tu dưỡng phẩm chất đạo đức tốt, lúc đắc chí thì khiến thiên hạ đều có thể như thế” (兼济天下), đồng thời có được tiền tài và trân bảo, không quên ghánh vác trách nhiệm xã hội tương ưng, làm từ thiện đền đáp xã hội, đem khai sáng cơ nghiệp coi như quá trình hưởng thụ hạnh phúc, mà chẳng câu nệ so đo trên số lượng tài phú. Như phú hào Bill Gates thậm chí Quách Đài Minh, đều là điển phạm của loại xí nghiệp gia.
Thứ ba, cảm thụ hạnh phúc từ chỗ vi tế
Học giả nghiên cứu hạnh phúc từng phát hiện, ký ức của hạnh phúc vẫn còn rất nhiều đến từ tích lũy nhỏ vụn trong đời sống vui sướng nhỏ. Điều hiệp tâm thái tốt, coi trọng mỗi một hạnh phúc thoáng chốc trong hiện thời, cũng có thể được hạnh phúc liên tục. Mọi người đều ưa thích Tứ quý ca của thiền sư Vô Môn Tuệ Khai:
“Xuân có hoa nở thu trăng tỏ, hạ có gió nhẹ đông tuyết trắng. Nếu tâm vô ngại việc chẳng bận, bốn mùa thời tiết đẹp nhân gian” (春有百花秋有月, 夏有凉风冬有雪.若无闲事挂心头, 便是人间好时节)
Trong đời sống hiện thức, cũng là cần khéo thể hội phong cảnh tươi đẹp khác nhau, cảm thụ thời khắc hạnh phúc chẳng giống nhau. Chúng tôi có sáu điểm khuyến cáo một cách khẩn thiết dưới đây:
1. Chọn vui sướng mà không chọn lợi ích. Thuận theo nhiệt tình của nội tâm chúng ta, chọn công việc có ý nghĩa và còn khiến tâm tư chúng ta vui sướng thư thái. Ví như tự thân rót một tách trà, mà không xa rời giao tế qua lại với một bữa cơm.
2. Nhiều cùng bạn bè đồng lòng mà ít cùng công tác đồng lòng. Không nên bị công tác hằng ngày làm lo sợ, vĩnh viễn nằm ở thái độ bận rộn làm việc, không được rãnh rỗi. Quan hệ giao tế và giao vãng giữa người và người thắm thiết, là tín hiệu hạnh phúc cảm của bạn.
3. Dùng chánh nhãn xem nhược điểm của chính mình mà đạm hóa kỳ vọng đối với chính mình. Đầu tiên chúng ta cần phải thừa nhận chỉ có đức Phật mới được tán dương viên mãn. Ngay cả bồ tát đều có vô minh vi tế chẳng có đoạn trừ. Chúng ta cần dùng chánh nhãn nhìn khiếm khuyết tài năng của chính mình, không nên miễn cưỡng trông chờ chính mình nhận lấy căn bản hiện thực không minh bạch, không nên trở thành nô lệ kỳ vọng quá cao, khiến đề cao hệ số hạnh phúc của chính mình.
4. Giản hóa đời sống mà không phải yêu cầu một cách liên tục, còn có rất nhiều đồng thời không biểu hiện ý vị tốt hơn. Ý thức bảo vệ môi trường, không phải đơn thuần chỉ cho phương diện vật chất, tâm linh của chúng ta cũng yêu cầu bảo vệ môi trường, yêu cầu biết vừa đủ, cảm ơn, tính khả năng phát sinh liên hệ giữa người với người, khoan dung, đảm đang.
5. Phóng khoáng hơn mà không phải coi trọng tiền tài và trân bảo. Nhìn từ cấp độ khủng hoảng kinh tế rất lớn, ảnh hưởng tâm lý đối với chúng ta vượt trên ảnh hưởng của vật chất. Nhìn phạm vi thế giới, trạng thái không tốt đều không tái phát sinh đại khủng hoảng kinh tế của thập niên 1930 thế kỷ 20. Cái túi không đáy của tính tập quán chúng ta, chỉ vì chúng ta cảm thấy bối cảnh kinh tế không tốt và thiếu khuyết, có được tiền khó. Có thể tài sản của chúng ta sở hữu, thực ra đã có thể đủ vài đời của cuộc sống người thông thường. Lúc đó yêu cầu của chúng ta rộng lượng thêm nhiều nữa, chúng ta cần thể hội được, lúc đó, nhiều nhu cầu của con người dùng tài sản của chúng ta để sáng tạo đời sống hạnh phúc cho chúng ta.
6. Cảm ơn cuộc sống sâu sắc mà không nên trong lòng bất mãn cuộc sống. Cuộc sống khó khăn vĩnh viễn đều là bày sự tình trước mặt. Nhìn từ giác độ Microsoft, vua Google, cũng hiển lộ đối diện kiện cáo “độc chiếm”. Cuộc sống lúc nào có thể trói buộc ý nguyện của chính mình? Trong thế giới sa bà chúng ta, năm trạng thái dơ bẩn sinh tồn trong chúng sanh, chúng ta không nên phát sinh sự tình huyễn tưởng trên. Chúng ta bất tất đem hạnh phúc đã từng có cho rằng: đạo lý đương nhiên là như vậy, mà cần phải học tập hạnh phúc có thể trân trọng từng chút từng chút. Ví như gia đình hài hòa, thân thể khỏe khoắn, bạn bè thiện duyên, quan tâm sư trưởng. Chúng ta cần rắp tâm cảm ơn một cách sâu sắc, cần hướng đến họ biểu đạt cảm ơn sâu sắc.
Thế giới hòa giai, các duyên hòa hợp, giao kết người tốt, mới là thế giới hạnh phúc, nhân sinh như thế, mới là nhân sinh hạnh phúc.