Sư tự là Tu Kỉ, người Thường Thục, Cô Tô, mẹ họ Trương. Một hôm, bà nằm mộng thấy có vị Phạm tăng bảo:
- Tôi muốn nhờ bà làm mẹ!
Sau đó, bà mang thai.
Thuở bé, Sư không thích vui chơi đùa giỡn. Năm mười ba tuổi, Sư nghe chư tăng tụng kinh A di đà, liền phát tâm xuất gia.
Khoảng niên hiệu Trường Hưng (930 933) đời Hậu Đường, Sư được xuống tóc. Sau, đến trụ tại chùa Tuệ Tụ ở Côn Sơn nghiên cứu sâu rộng năm bộ luật[96].
Khoảng niên hiệu Thiên Phúc (936 943) đời Hậu Tấn, Sư theo ngài Hạo Đoan ở chùa Linh Quang học tập các kinh và hiểu được sâu xa yếu nghĩa, có tài hùng biện không ai sánh kịp. Tuy giáo nghĩa lục tức[97], tam quán của tông Thiên Thai mọi người chưa lĩnh hội được mà Sư đã âm thầm thấu hiểu.
Về già, Sư nương nơi ngài Chí Nhân ở Tiền Đường, thông suốt yếu nghĩa huyền diệu của các bộ kinh lớn như kinh Pháp hoa, kinh Kim quang minh… Học giả thời bấy giờ đều kính phục, gọi Sư là “Nghĩa Hổ”. Sư cả đời sống thanh bần, ngày ăn một bữa, chẳng giữ tiền bạc, không chứa y dư. Mỗi lần chùa bố tát[98], tăng chúng vân tập rất đông. Lúc sắp bố tát, Sư thường dạy “Tịnh độ chính là hành nghiệp thù thắng”.
Đêm mùng một tháng tám niên hiệu Ung Hi thứ ba (986) đời Tống, Sư thấy có vài luồng ánh sáng trắng từ dưới giếng phóng lên, chớp tắt bất thường. Nhân đó, Sư bảo các đệ tử:
- Chớp tắt bất thường, sinh tử cũng như vậy.
Sau đó, Sư nhịn ăn, không nói, chuyên tâm niệm Phật. Ba ngày sau, Sư chợt thấy một vị Phạm tăng thân hình to lớn, cầm lư đi quanh ngôi thất của Sư ba vòng. Sư hỏi, vị tăng đáp:
- Tôi là Quán Đỉnh[99] đã lên cõi Tịnh độ lâu rồi, vì pháp môn ngài tu tập đồng với chí hướng của tôi nên tôi đến viếng thăm.
Lát sau, đệ tử Sư đến, vị tăng liền biến mất.
Ngày hôm sau, Sư thăng tòa kể lại những điều mình đã thấy, rồi giảng giải Chỉ quán và ý nghĩa chính yếu của các kinh cho các đệ tử, văn từ nghĩa lí thông suốt. Sư nói:
- Xưa nay người ta thường nói, hơi thở ngắn ngủi như chớp mắt khó giữ. Thế mà ta đã duy trì được thân mạng đến ngày hôm nay đấy!
Vào ngày ấy, Sư ngồi viên tịch nơi giảng đường Chỉ Quán. Đến nửa đêm, các vị tăng trong chùa như Văn Uyển, Hữu Hưng… nghe trên bầu trời có tiếng ca ngâm kinh kệ, dường như văng vẳng về hướng tây.
Ghi chú
Không tham tiền tài, ăn uống là tâm ý trong sạch ngay thẳng; nằm ngồi không cẩu thả là tâm luôn cung kính, cẩn thận; không lìa y bát là giữ tâm trân trọng; bố tát rơi lệ, là lòng tin khẩn thiết. Bốn tâm này đều là nhân Tịnh độ, nhờ đó nên Sư được vãng sinh. Cho đến lúc khuyên bảo mọi người, Sư cũng nói về Tây phương Tịnh độ và Nhất thừa viên giáo, đồng thời Sư cũng thực hành pháp ấy. Sư Ngộ Ân quả là người thâm nhập pháp môn Niệm Phật!